Cao Bá Quát nổi tiếng là một thần đồng, học giỏi và rất thông minh. Ông là người có nhân cách cứng cỏi, phóng khoáng, lại giỏi quảng giao nên hầu hết những danh sĩ đương thời đều là bạn tốt của Cao Bá Quát. Với tài năng và cá tính của ông khi ra làm quan cho triều đình, ông không chịu được cảnh quan trường bon chen, danh lợi thối nát, càng về sau ông càng nhận ra sự mục ruỗng của chế độ nên đã đứng lên khởi nghĩa. Sau sự kiện này, Cao Bá Quát và cả dòng dòng họ bị xét xử, toàn bộ những bút tích của ông đều bị tiêu hủy. Nhưng với tấm lòng mến mộ hiền tài, nhân dân khắp nơi vẫn lưu lại được, tập hợp lại thành một số lượng khổng lồ các sáng tác đương thời của ông. Người ta ngợi ca ông: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán” vì ở đó, Cao Bá Quát là thiên tài về văn chương thi phú đương thời.
(Kẻ sĩ cô đơn trong Sa hành đoản ca)
Nếu gọi ra điệu hồn riêng trong thơ chữ Hán của Cao Bá Quát có thể khái quát trong mấy chữ này: Một hồn thơ phóng khoáng, đôn hậu và cũng đầy kiêu hãnh, sâu sắc.
Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên cát) -Thi phẩm đặc sắc được đưa vào trong chương trình ngữ văn lớp 11( Sgk Ngữ văn 11, từ năm học 2007), Cao Bá Quát thực sự đã kết đọng trong lòng độc giả những cảm nhận khó quên về một Người và cũng là một Lớp Người: Nhà Nho tài tử- Những kẻ sỹ, nghệ sỹ mang tình yêu chân thành đến mức tôn thờ Cái-Đẹp: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một đời (Ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai).
Những Kẻ sỹ -Nghệ sỹ, chân thành và kiêu hãnh trong cảm hứng trước thiên nhiên mà giãi bày tâm nguyện:
“Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lí tâm”
(Nếu không thấy được sóng hung/Làm sao biết được tấc lòng muôn phương).
Muốn thẩm định thi phẩm “Sa hành đoản ca”, học sinh cần nắm bắt đời và thơ của thi sỹ họ Cao, từ đó cần chỉ ra nét riêng, điệu riêng của thơ Chu Thần. Đấy chính là tâm thế bức xúc của một thi nhân trước bao điều bất công, ngang trái; Trước bao điều thực giả hỗn độn giữa sa mạc-cuộc đời! Cảm thức được điều đó, mới nhận ra, mới tường minh chất bản ngã, bản lĩnh của Cao Bá Quát. Nhà thơ họ Cao đã chọn hình thức biểu hiện của thơ ngũ ngôn, phù hợp với giọng điệu tâm tình cho những câu thơ khơi mở:
“Trường sa phục trường sa
Nhật nhập hành vi dĩ
Khách tử lệ giao lạc”
(Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ đầu của “Sa hành đoản ca”, mở ra một hiện trạng, một cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng đầy bức xúc, bức bối của nhân vật trữ tình( Khách tử). Không gian, thời gian từ những câu thơ trên như đe dọa, như dồn lữ khách tới cái bi thương của hoàn cảnh: ngày sắp tàn rồi, mà trước mắt nhìn và tâm thức, vẫn trải mở dằng dặc, mênh mang ngỡ đến khôn cùng cát và cát (Trường sa phục trường sa). Thực cảnh bãi cát dài ấy, đem đến cảm giác thật rùng mình, choáng ngợp và bao phủ - Đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh bãi cát dài vì thế, có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, “được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách giáo khoa lớp 11-Tập 1, trang 40). Ví dụ như:
Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội, phải đi qua những sa mạc đầy nắng gió, bởi vậy ông đã viết bài thơ này. Mượn hình ảnh những người đi trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi. Mở đầu bài thơ là hình ảnh những bãi cát dài nối tiếp nhau:
Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước
Thực ra, tôi vẫn chưa thật nhất trí với cách cảm nhận có phần giản đơn và “thật thà” như vậy.
Hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao, thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động: Khách tử lệ giao lạc (Lữ khách trên đường nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát mênh mông-Biển cát cuộc đời, (tất nhiên hình ảnh trường sa vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ tượng trưng), giúp cho bài thơ của Cao Bá Quát, lại mở tiếp ra một cấp độ nữa của cảm xúc và suy tư.
Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào tích xưa-“Ông tiên ngủ kĩ” để gửi gắm sự sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người :
Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng
( Anh không học được tiên ông có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi,bao giờ cho hết ta oán)
Về hình thức và giọng điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “Tiên trách kỉ”, “Tự trách kỉ”. Đọc và ngẫm kĩ, lại hóa ra lời phản ứng quyết liệt của Kẻ sỹ-Thi nhân giầu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “Ông tiên ngủ kĩ”, để mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời-nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi nhà thơ chuyển sang một góc nhìn hiện thực-hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người:
Cổ lai danh lợi nhân
Bôn tẩu lộ đồ trung
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng
(Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:
Phần đông con người-tầm thường, mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen. Thế nên,tự cổ chí kim, bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi: Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời
Cũng chính vì ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ mĩ tửu dậy đưa hương từ đời, từ tửu điếm-Nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người
Những câu thơ của Cao tiên sinh, như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh. Nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người không muốn và không thể tan hòa trong đám chúng sinh tầm thường mưu cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những danh lợi nhân, nhà thơ-Nhà Nho tài tử, đã tạo nên thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ Con người-bản thể của kẻ sỹ chân chính.
Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên một sự thực mang tính quy luật: Người tỉnh trên cõi thế, giữa thời tao loạn, luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn ! Cô đơn nên mới vất vưởng, khốn khổ trên Sa-Mạc-Đời mà cũng là hoang mạc của thân phận.
Tứ thơ của Sa hành đoản ca vận động đến những câu thơ cuối bài, thực sự chất chứa đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng người:
Trường sa trường sa nại cừ hà
(Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một câu hỏi-Tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt, thật nhiều ám ảnh, ghê rợn: Thản lộ mang mang úy lộ đa (Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt!)
Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát, khởi phát tự lòng người, thật lạ !
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
( Hãy nghe ta hát khúc đường cùng)
Cái hay và ấn tượng trong những con chữ của Cao tiên sinh là ở chỗ : Nhà thơ dùng chữ Ca (hát) chứ không dung chữ Thuyết (nói). Thế nên, không thể Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết ( hãy nghe ta nói lời đường cùng).
Nỗi bi phẫn, u uất trong lòng, làm sao chỉ giải tỏa bằng lời nói thường tình? Phải cuồng ca, sảng ca-những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm kiêu hãnh khôn cùng! Khúc ca bi tráng của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm hứng! Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của sóng, của cát…phải biết tìm giải thoát cho số phận:
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp
(Phía bắc núi bắc núi muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt tìm đến mà hạ bút kết lại Sa hành đoản ca trong một câu thơ thật lạ. Và, cũng chính vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở tầm cảm xúc và suy tư cho toàn bộ thi phẩm. Tứ thơ cũng đột khởi dâng trào từ hình thức câu nghi vấn :
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?)
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại đánh thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát, con đường giải thoát cho số phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời-Cao tiên sinh tìm đến và kiêu hãnh giữa thiên nhiên khoáng đạt, vĩnh hằng như tâm sự của ông trong một bài thơ chữ Hán khác - Quá Dục Thúy sơn (Qua núi Dục Thúy) :
Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kì tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
(Trời đất có núi ấy
Muôn thủa có chùa này
Phong cảnh đã kì tuyệt
Lại thêm Ta đến đây)
Nhà thơ, nhà phê bình vh Trần Trung