Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị. Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài "Một thời đại trong thi ca" – tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam. Cùng tìm hiểu văn bản "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh nhé!
I. Tác giả Hoài Thanh:
- Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, sinh tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông tham gia các phong trào yêu nước từ khi còn đi học.
- Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch Hội văn hoá cứu quốc ở Huế, sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá – nghệ thuật. Hoài Thanh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000.
- Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị.
- Tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập: 1960, 1965, 1971) – trong đó nổi bật nhất là cuốn Thi nhân Việt Nam.
- Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài Một thời đại trong thi ca – tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam.
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ: Một thời đại trong thi ca là bài tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào thơ mới.
– Vị trí: Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận. Với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.
– Bố cục:
+ Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.
+ Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.
+ Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Cách thức xác định “Tinh thần thơ mới”.
– Nêu cái khó : Ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra (Giá các nhà thơ mới…một thời nào)
– Cách nhận diện :
+ Không thể căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
+ Phải căn cứ vào đại thể và cái hay của thơ mỗi thời (“Phải so sánh bài hay với bài hay”, “ Muốn rõ đặc sắc… đại thể”)
– Nguyên nhân :
+ Cái dở thời nào chả có, nó không đủ tư cách đại diện cho một thời đại lớn của nghệ thuật.
+ Nghệ thuật luôn có sự nối tiếp giữa cái cũ và cái mới ( “Âu là ta…cái cũ”)
– Xác định tinh thần thơ mới :
+ Tinh thần thơ xưa : Chữ ta ( Ngày trước là thời chữ ta).
+ Tinh thần thơ mới : Chữ tôi (Bây giờ là thời chữ tôi)
+ Mối quan hệ giữa “chữ ta” và “chữ tôi”: có chỗ giống nhau nhưng chủ yếu là khác nhau.
2. Bàn luận về chữ “tôi” và bi kịch của nó :
– Nội dung của chữ tôi : ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần của con người (Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : quan niêm cá nhân ; chữ tôi với nghĩa tuyệt đối của nó)
+ Phân biệt với chữ ta : ý thức cộng đồng .
– Biểu hiện của chữ tôi :
+ Trước đây : nếu có thì ẩn mình sau chữ ta
+ Bây giờ : chữ tôi theo ý nghĩa tuyệt đối của nó (mỗi nhà thơ là một cái tôi riêng biệt, đa dạng phong phú : Thế Lữ , LTL -,HMT, CLV , XD , HC …
– Bi kịch “đáng thương” và “ tội nghiệp” của chữ tôi :
+ Nó xuất hiện “bỡ ngỡ” như “lạc loài nơi đất khách” , trong sự tiếp nhận của “ bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”
+ Nó không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước ( như Lí Thái Bạch , NC Trứ )
+ Nó “chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại” : thoát lên tiên , phiêu lưu trong trường tình , điên cuồng , đắm say . bơ vơ , ngẩn ngơ buồn , bàng hoàng , mất lòng tin …
⇒ Tóm lại : đó là cái bi kịch dang diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi , trong hồn người thanh niên
+ Cái tôi và bi kịch này “đại biếu đầy đủ nhất cho thời đại” nên có ý nghĩa trên hai bình diện : văn chương và xã hội.
3. Cách giải thoát bi kịch của những nhà thơ mới :
+ Gửi cả vào Tiếng Việt .
+ Tìm thấy niềm tin và “nảy mầm hy vọng, để lại những tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam.
Nhận xét chung : Bài viết có nội dung tinh tế , chính xác , nhiều phát hiện , đến nay vẫn còn nguyên giá trị .
4. Nghệ thuật.
– Tính khoa học:
+ Cách lập luận chặt chẽ, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến nay, từ xa đến gần. Điều này phản ánh tư duy KH, sự am hiểu thấu đáo đối tượng phân tích của tác giả.
+ Luôn gắn những nhận định khái quát với luận cứ cụ thể, đa dạng, có sức thuyết phục, có sự so sánh giữa thơ mới vầ thơ cũ.
– Tính nghệ thuật: cách dẫn dắt ý theo mạch cảm xúc tinh tế, uyển chuyển và bằng ngôn ngữ hình ảnh, nhịp điệu.
5. Ý nghĩa văn bản:
Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca VN hiện đại.
Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/mot-thoi-dai-trong-thi-ca-hoai-thanh.1138/
I. Tác giả Hoài Thanh:
- Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, sinh tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông tham gia các phong trào yêu nước từ khi còn đi học.
- Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch Hội văn hoá cứu quốc ở Huế, sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá – nghệ thuật. Hoài Thanh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000.
- Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị.
- Tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập: 1960, 1965, 1971) – trong đó nổi bật nhất là cuốn Thi nhân Việt Nam.
- Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài Một thời đại trong thi ca – tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam.
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ: Một thời đại trong thi ca là bài tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào thơ mới.
– Vị trí: Đoạn trích thuộc phần cuối bài tiểu luận. Với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.
– Bố cục:
+ Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.
+ Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.
+ Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.
II. Đọc hiểu văn bản:
1. Cách thức xác định “Tinh thần thơ mới”.
– Nêu cái khó : Ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra (Giá các nhà thơ mới…một thời nào)
– Cách nhận diện :
+ Không thể căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
+ Phải căn cứ vào đại thể và cái hay của thơ mỗi thời (“Phải so sánh bài hay với bài hay”, “ Muốn rõ đặc sắc… đại thể”)
– Nguyên nhân :
+ Cái dở thời nào chả có, nó không đủ tư cách đại diện cho một thời đại lớn của nghệ thuật.
+ Nghệ thuật luôn có sự nối tiếp giữa cái cũ và cái mới ( “Âu là ta…cái cũ”)
– Xác định tinh thần thơ mới :
+ Tinh thần thơ xưa : Chữ ta ( Ngày trước là thời chữ ta).
+ Tinh thần thơ mới : Chữ tôi (Bây giờ là thời chữ tôi)
+ Mối quan hệ giữa “chữ ta” và “chữ tôi”: có chỗ giống nhau nhưng chủ yếu là khác nhau.
2. Bàn luận về chữ “tôi” và bi kịch của nó :
– Nội dung của chữ tôi : ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần của con người (Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : quan niêm cá nhân ; chữ tôi với nghĩa tuyệt đối của nó)
+ Phân biệt với chữ ta : ý thức cộng đồng .
– Biểu hiện của chữ tôi :
+ Trước đây : nếu có thì ẩn mình sau chữ ta
+ Bây giờ : chữ tôi theo ý nghĩa tuyệt đối của nó (mỗi nhà thơ là một cái tôi riêng biệt, đa dạng phong phú : Thế Lữ , LTL -,HMT, CLV , XD , HC …
– Bi kịch “đáng thương” và “ tội nghiệp” của chữ tôi :
+ Nó xuất hiện “bỡ ngỡ” như “lạc loài nơi đất khách” , trong sự tiếp nhận của “ bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”
+ Nó không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước ( như Lí Thái Bạch , NC Trứ )
+ Nó “chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại” : thoát lên tiên , phiêu lưu trong trường tình , điên cuồng , đắm say . bơ vơ , ngẩn ngơ buồn , bàng hoàng , mất lòng tin …
⇒ Tóm lại : đó là cái bi kịch dang diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi , trong hồn người thanh niên
+ Cái tôi và bi kịch này “đại biếu đầy đủ nhất cho thời đại” nên có ý nghĩa trên hai bình diện : văn chương và xã hội.
3. Cách giải thoát bi kịch của những nhà thơ mới :
+ Gửi cả vào Tiếng Việt .
+ Tìm thấy niềm tin và “nảy mầm hy vọng, để lại những tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam.
Nhận xét chung : Bài viết có nội dung tinh tế , chính xác , nhiều phát hiện , đến nay vẫn còn nguyên giá trị .
4. Nghệ thuật.
– Tính khoa học:
+ Cách lập luận chặt chẽ, từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến nay, từ xa đến gần. Điều này phản ánh tư duy KH, sự am hiểu thấu đáo đối tượng phân tích của tác giả.
+ Luôn gắn những nhận định khái quát với luận cứ cụ thể, đa dạng, có sức thuyết phục, có sự so sánh giữa thơ mới vầ thơ cũ.
– Tính nghệ thuật: cách dẫn dắt ý theo mạch cảm xúc tinh tế, uyển chuyển và bằng ngôn ngữ hình ảnh, nhịp điệu.
5. Ý nghĩa văn bản:
Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca VN hiện đại.
Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/mot-thoi-dai-trong-thi-ca-hoai-thanh.1138/