Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Bức tranh đêm trăng, bức tranh ngày mưa hay bức tranh lúc bình minh là những ý chính cần phân tích khi tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Bốn bức tranh là bốn câu hỏi tu từ, là bốn nỗi nhớ nhung, tiếc nuối là 4 thời đại anh hùng của chúa sơn lầm. Nhưng đó còn là bốn nổi đau đớn khôn nguôi. Điệp ngữ “nào đâu, đâu” cứ khắc khoải cứ dồn nén, cứ du dương như những khúc nhạc của đại ngàn đang vẫy gọi.

4830




Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

1. Bức tranh đêm trăng và sự say sưa của chúa sơn lâm

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, thì bức tranh đầu tiên xuất hiện chính là hình ảnh hổ trong đêm trăng thơ mộng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”


Cảnh đêm trăng hiện hữu trong không gian tràn đầy màu sắc ánh vàng của vầng trăng trên cao đang soi chiếu khắp nhân gian. Đặc biệt khung cảnh khi có sự xuất hiện của dòng suối với tiếng chảy róc rách lại càng trở nên sinh động, tươi mát. Trước cảnh ấy con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong.

Có lẽ cái làm cho hổ kia phải say không chỉ đơn thuần bởi miếng mồi ngon mà còn là cái say trước sự lung linh, kì ảo của khung cảnh đang hiện hữu trước mắt. Hổ say mồi nhưng càng thỏa mãn hơn khi được uống vào những hớp nước có sự soi vàng của bóng trăng. Bao nhiêu nét gân guốc, dữ tợn của chúa tể vùng sơn lâm nhờ có cảnh đẹp hình như cũng trở nên mềm mại, bình thản hơn để có thể hòa vào cảnh vật. Tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy tất cả những điều trên đã tạo nên sự thơ mộng, kì ảo của một bức tranh có sự hài hòa của cả cảnh và vật.

Cảnh có đẹp, có thơ mộng và diệu kì đến nhường nào, hổ có bao lần được hòa mình vào “những đêm vàng bên bờ suối” để “say mồi đứng uống ánh trăng tan”, nhưng thực tại những giây phút sảng khoái cũng chỉ còn trong trí nhớ. Sự “say mồi” đầy thỏa mãn hay tư thế “đứng uống” chễm chệ trong những đêm tự do ấy nay đã lùi xa vào quá khứ nhưng với hổ thì những kỉ niệm và cảm giác ngây ngất ấy vẫn hiển hiện rất rõ rệt như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua. Câu hỏi tu từ như xoáy mãi vào tâm can của chúa sơn lâm, tất cả đã trở thành quá khứ. Hai câu thơ như dáng dấp của một nhà thi sĩ đang ngắm nghĩa cái khung cảnh thiên nhiên thơ mông trữ tình.

2. Bức tranh ngày mưa và sự điềm nhiên của chúa sơn lâm

Ở bức tranh thứ hai, tác giả lại dùng ngôn từ của mình vẫn để thể hiện hình ảnh trung tâm là con hổ trên phông nền của khung cảnh ngày mưa:

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?”


Chúa sơn lâm lúc này đã không còn say sưa bên dòng suối mát lành và miếng mồi hấp dẫn như trong bức tranh trước đó. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như cũng trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp lối khiến cho vạn vật cũng rung chuyển theo. Ấy thế mà vị chúa tể của ta vẫn không hề có một chút nao núng trước những sự gào thét dữ dội của thiên nhiên và sự ngả nghiêng của vạn vật.

Hổ vẫn hiên ngang, điềm tĩnh, bệ vệ trước cảnh ấy để thu vào trong mắt tất cả những chuyển biến của đất trời. Mưa gió càng tác động lên tất cả mọi thứ mạnh mẽ, đáng sợ bao nhiêu thì hổ ta vẫn giữ một thái độ của một bậc vương giả. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy trên hết, hổ còn xem việc “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” trên thực chất là sự tác động để “giang sơn ta đổi mới”. Thế nên, trong trạng thái “lặng ngắm” kia, hổ thực chất đang đứng ở tư thế làm chủ vạn vật.

Con hổ trong những ngày mưa to gió lớn chốn rừng thiêng vẫn giữ phong thái điềm nhiên, tĩnh tại ấy lại chỉ là một hình ảnh của thời đã qua. Hổ giờ đây bị giam hãm trong chốn ngục tù, dù có râm mát, dù không bị tắm ướt bởi mưa nhưng đó chưa bao giờ là điều nó mong muốn. Ngày trước khi còn tự do giữa núi rừng đất trời và có lúc phải đón những cơn mưa rừng xối xả, dữ dội nhưng chúa sơn lâm chưa bao giờ phiền lòng vì điều đó. Ngược lại, trong cảnh mưa tuôn mịt mờ ấy, nó lại càng cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng. Nói cách khác, thiên nhiên có thách thức như thế nào, hổ vẫn giữ được bản lĩnh của riêng mình. Khi bị giam cầm, bản lĩnh ấy vẫn còn và chỉ tiếc là nó lại không được thể hiện như trong chính nơi nó cần thuộc về. Nhưng tất cả cũng chỉ là quá khứ mà thôi. Con hổ đang tự hỏi mình hay nó đang nhớ nhung, tiếc nuối? Ở bức tranh thứ hai, hổ như một nhà hiền triết đang say mê ngắm giang sơn hùng vĩ của mình.

3. Bức tranh bình minh và sự uy nghi của chúa sơn lâm


Ở câu thơ thứ ba, thứ tư của đoạn thơ, tác giả đã giúp cho ta nhìn thấy sự tươi mới, rộn ràng của khung cảnh đất trời trong khoảnh khắc của ngày mới:

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?”


Ngày mưa qua đi như làm cho bầu trời buổi sớm thêm phần trong trẻo, tươi sáng. Trong khung cảnh ấy, cây cối sau khi được tắm mát trong những trận mưa rừng đã đầy lại được gội mình trong nắng mới nên càng trở nên tươi tắn và tràn đầy sức sống. Góp vào sức sống bừng lên trên từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca rộn rã của bầy chim rừng. Trong khung cảnh ấy, hổ xuất hiện trong giấc ngủ, nhưng lại là giấc ngủ “tưng bừng”.

Nếu trong đêm khi tất cả mọi vật đều sâu giấc thì hổ thức để say sưa cùng vũ trụ, những ngày mưa ai ai cũng tìm nơi ẩn trú thì hổ “lặng ngắm giang sơn” và giờ đây khi bình minh ló dạng thì hổ chìm vào giấc ngủ. Đặc biệt, vị chúa sơn lâm lại còn được dỗ giấc bằng không khí mát mẻ và cả những âm thanh tươi vui của vạn vật.

Có thể thấy, khi sống trong môi trường của mình, hổ rất đỗi tự do vì có thể tự ý làm những điều mình muốn. Nó luôn đứng ở vị thế chế ngự đầy uy nghi và có thể chi phối kẻ khác chứ không bao giờ chịu phụ thuộc. Hình ảnh hổ lúc đó khác hẳn với tình cảnh bây giờ: không chỉ “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” mà còn phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”, “với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Ở đây, ta thấy hổ như một bậc đế vương được hàng ngàn loài chim ru ngủ.

4. Bức tranh về chiều cùng màu sắc của sự bi tráng


Bình minh qua, ngày tàn là thời khắc hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh thứ tư của bài chính là diễn tả thời khắc ấy của cảnh rừng. Đây là bức tranh cuối cùng nhưng có thể gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất:

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”


Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ cũng có thể là màu của ánh sáng mặt trời. Nếu như ban ngày, mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh sáng xuống nhân gian, sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy mà vận hành thì đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy khoảng thời gian mặt trời lặn xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng, vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy để:

“Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”

“Bí mật”
ấy phải chăng chính là quyền lực từ tay vũ trụ. Hổ muốn chớp lấy cơ hội để đoạt được quyền lực ấy mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó.

Khát khao tuy to lớn, khung cảnh trong bốn bức tranh tuy hùng vĩ, nguy nga nhưng chỉ là những hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiển hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con hổ đối với những gì nó đã trải qua.

Thời oanh liệt của những ngày xưa cũ được tung hoành ngang dọc thực chất đã khép lại và có khi không bao giờ trở về. Với vị chúa tể, sau tất cả có lẽ còn lại chỉ là một tiếng than u uất không có sự đáp hồi:

“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Đó là lời than của con hổ, là nỗi niềm của nhà thơ nhưng thực chất cũng là tiếng lòng, tâm trạng chung của những con người phải sống trong sự kìm kẹp, giam hãm. Đối với thời buổi người dân Việt Nam phải sống cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ đã thay họ thể hiện niềm tiếc nuối về những chiến công vẻ vang chống giặc ngoại xâm của một thời oanh liệt của dân tộc mình. Đó có lẽ lí do khiến bài thơ được đón nhận rất nồng hậu, say sưa ngay từ khi ra đời.

Kết bài: Những câu thơ khắc họa bốn bức tranh về thiên nhiên núi rừng và sự hiện hữu của chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng tuyệt bút của bài thơ “Nhớ rừng”. Thông qua việc sử dụng điệp ngữ, câu hỏi tu từ và hàng loạt các hình ảnh gợi màu sắc, đường nét của cảnh vật thiên nhiên, Thế Lữ không chỉ làm xuất hiện trước mắt người đọc tuyệt phẩm diễn tả sự kì vĩ, hùng tráng của chốn rừng thiêng mà còn làm bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của chúa tể sơn lâm. Đó cũng chính là tâm sự, nỗi niềm chung của con người thời đại…
 
Từ khóa Từ khóa
bài văn hay bức tranh tứ bình ngữ văn 8 nhớ rừng thế lữ
  • Like
Reactions: Tiến 2021
2K
1
3
Trả lời
4831


BÀI VIẾT GỢI ý​

Sau năm 1930, văn học Việt Nam chứng kiến một cuộc đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc của thơ ca. Thơ mới ra đời, khẳng định sự đoạn tuyệt với nền thơ cũ. Thơ mới, trước hết là mới ở hình thức của thơ, mà đặc biệt là ở ngôn ngữ thơ. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ - nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới - như sau: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” {Thi nhân Việt Nam).

Hoài Thanh đã dùng một cách nói đầy hình ảnh để ca ngợi tài năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của Thê Lữ trong sáng tạo thơ ca. Thê Lữ đã “điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”, bằng “một sức mạnh phi thường”. Văn học, trước hết là nghệ thuật của ngôn từ. Và không ở đâu bằng trong thơ, ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ thơ vừa là tiếng nói chân thực giàu có của đời sổng hiện thực, vừa là tiếng nói của trí tưởng tượng diệu kì, lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động. Ngôn ngữ thơ là sự biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mĩ lệ, phong phú của ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong thơ Thế Lữ đã có được tất cả những vẻ đẹp ây. Ở bài thơ Nhớ rừng, nhà thơ đã vận dụng ngôn từ tiếng Việt một cách tài tình để khắc họa tâm trạng của con hố' bị giam cầm trong cũi sắt, qua đó diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.

Luận điểm 1: Trước tiên, có thế’ thấy ngôn từ của Nhớ rừng vố cùng phong phú, giàu tính tạo hình và sức biêu cảm. Thế Lữ đã xây dựng hai cảnh tượng tương phản: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt, và cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hô ngự trị những ngày xưa. Cả hai cảnh đều được miêu tả đầy ân tượng.

Trong cành con hổ bị giam cầm ở vườn bách thú, nhà thơ tập trung khắc họa hoàn cảnh, thân phận và tâm trạng ngao ngán, uất hận của con hổ. Câu thơ mơ đâu bài thơ thật giản dị mà cô đọng, diễn tả đầy đủ ý nghĩa của cả đoạn thơ:

Gậm một khôi căm hờn trong cũi sắt

Thê Lữ không dùng từ “gặm” (nêu là gặm thì có vẻ “ngon lành” quá?), cũng không dùng từ “ngậm” (có vẻ nhẫn nhục quá chăng?). Từ “gậm” không phải là cách nói phổ biển trong tiếng Việt, nhưng trong văn cảnh này, nó đã thể hiện đúng tâm trạng của con hổ. Từ “gậm” mang trong nó cái ý nghĩa thâm thía của sự đau khổ, cay đắng, chua xót và nung nấu căm hờn. “Khối căm hờn” là một cách nói hình ảnh, bắt nỗi căm hờn vôn vô hình phải hiện ra thành hình, thành khối, có tác dụng cụ thể hóa nỗi niềm của con hổ. Như để cắt nghĩa cho “khối căm hờn” ấy, tác giả đã dùng cả một hệ thống từ ngữ để dựng nên một đối lập đầy bi kịch: một bên là con hổ - oai linh rừng thẳm’, một bên là củi sắt, lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, bọn thú dở hơi, cặp báo vô tư lựnhững cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối... Trong đoạn thơ thứ nhất và thứ tư, ngôn ngữ thơ chủ yếu là tả thực, miêu tả hoàn cảnh thực tại của thân tù hãm và nỗi ngao ngán, chán chường, uất hận của con hổ.

Đặc sắc nhất của bài thơ vẫn là đoạn thơ thứ hai và thứ ba, tả tâm trạng nhớ tiếc của con hổ về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” nơi “cảnh sơn lâm bóng cả, cây già”. Bị giam cầm trong cũi sắt, con hổ đau đáu một nỗi nhớ rừng. Đối với chúa sơn lâm, rừng là tất cả. Nhớ rừng là nhớ tiếc Tự do. Nhớ rừng là nhớ tiếc thời Oanh liệt. Nhớ rừng là nhớ tiếc cái Cao cả, cái Chân thưự, cái Tự nhiên... Cho nên hình ảnh rừng - con hổ gọi một cách rất trang trọng là cảnh nước non hung vĩ • đã hiện lên với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường... Đó là cảnh bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội, cảnh những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, cảnh những chiều lênh láng máu sau rừng... Bút pháp tạo hình của Thế Lữ tập trung khắc họa cái phi thường làm nổi bật hình ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm và dữ dội oai linh. Bên cạnh đó, còn có những nét bút mềm mại vẽ nên cảnh thơ mộng của rừng thẳm với những đêm vàng bèn bờ suối, những bình minh cây xanh nắng gội...

Ngòi bút tài hoa của Thế Lữ đã khắc họa, ở vị trí trung tâm của bức tranh núi rừng hùng vĩ và thơ mộng, hình ảnh con hổ với một vẻ đẹp oai phong lẫm liệt vẻ đẹp của chúa sơn lâm, vẻ đẹp kì vĩ mang tầm vóc chúa tể của

muôn loài:

Ta bước chân lên, dõng dạc, dường hoàng

, Lượn tấni thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thẩm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuôi.


Khi rừng thiêng thét khúc trường ca dữ dội thì con hổ cũng bước chán lên trong tư thê dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn tấm thân, vờn bóng,quắc lên ánh mắt thần. Những câu thơ thật sống động, đầy những động từ, tính từ và những so sánh, ẩn dụ giàu chất tạo hình, đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân, tấm thân và ánh mắt, gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mãnh vừa uyển chuyển, mềm mại của chúa sơn lâm.

Luận điểm 2: Đoạn 3 mới là đoạn tuyệt bút của bài thơ, với vẻ đẹp hài hòa và lộng lẫy của một bộ tranh tứ bình, bộc lộ hết khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Trong nỗi nhớ da diết của con hổ hiện lên bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, dữ dội mà tráng lệ, thơ mộng, ở vị trí trung tâm là hình ảnh con hổ với tư thế uy nghi và sức mạnh của vị chúa tể chế ngự cả tự nhiên. Có cảnh sáng xanh, chiều đỏ, đêm vàng. Có cảnh mưa núi mịt mờ, có cảnh rừng xanh chan hòa ánh nắng... Ân tượng nhất là cảnh “chiều lênh láng máu sau rừng” đẹp dữ dội với con hổ đang đợi mặt trời chết để chiếm lấy riêng phần bí mật của vũ trụ. “Chêt mảnh mặt trời” là một cách nói mới mẻ và giàu sức gợi cảm. sắc đỏ của ánh tà dương trở thành máu của mặt trời đang hấp hôi, nhuộm đỏ cả không gian sau rừng, vầng thái dương vĩ đại của vũ trụ chỉ là một mảnh bé nhỏ trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của chúa sơn lâm. Trước hình ảnh mặt trời đang hấp hôi vô cùng thảm hại, tầm vóc của chúa sơn lâm càng trở nên kì vĩ, bao trùm cả vũ trụ. Bốn bức tranh cùng vẽ về một con hổ với những phông cảnh và tư thế khác nhau, đã khái quát trọn vẹn về một thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh là bốn nỗi hoài niệm đầy tiêc nuôi, uất hận, là bốn câu hỏi mà giọng điệu cứ tăng tiến dần. “Nào đâu...” là tiếng than ngậm ngùi tiếc nuối mở đầu dòng hoài niệm. Đến những câu hỏi tiêp theo “Đâu...”, “Đâu...”, nuối tiếc đã nhuốm đầy đau đớn. Và đặc biệt là câu hỏi cuối cùng, kéo dài đến ba dòng thơ, đã là lời chất vấn dữ dội tìm về một dĩ vãng huy hoàng. Nhưng dĩ vãng có bao giờ trở lại, càng nhớ tiếc lại càng xót đau. Giác mơ huy hoàng cuô'i cùng khép lai trong tiếng than tràn đầy u uấtt:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Luận điểm 3: Bên cạnh tính tạo hình và sức biểu cảm phong phú, ngôn ngữ của Nhớ rừng còn rất giàu nhạc tính. Nói như Hoài Thanh, “thơ Thế Lừ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tâu, âm thanh...” Âm điệu của Nhớ rừng rất dồi dào và mới mẻ. Thơ tám chữ đã có trong thơ ca truyên thông ở thế hát nói, nhưng phải đến nhớ rừng mới được cô định với tư cách là một thể thơ. Nhớ rừng là một bài thơ tám chữ, có câu trải dài đên mười chữ ‘Với tiêng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”. Bô cục khá lạ: bài thơ gôm năm khổ, số câu trong mỗi khổ không đều nhau. Rõ ràng sự phân bố số câu thơ trong các khổ không theo một quy luật nào cả, mà chỉ tuân theo quy luật của cảm xúc: nỗi nhớ rừng’ và niêm khao khát tự do mãnh liệt đã kéo dài khổ thứ hai và khổ thứ ba. Mạch cảm xúc sôi nổi và mãnh liệt chi phôi cả cách gieo vần và phôi thanh: bài thơ gieo vần liên tiếp, cứ hai câu vần bằng lại đến hai câu vân trắc. Có chỗ vần của câu cuôi khổ trên tràn xuông bắt vần với câu đầu khổ dưới, chẳng hạn:

Giữa chôn thảo hoa không tên không tuổi

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suôi




Than ôi! Thời oanh liệt nay còn dâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu


Cách gieo vần ấy buộc phải đọc liền mạch để không làm đứt đoạn dòng cảm xúc. Làm nên nhạc của bài thơ, còn do cách ngắt nhịp. Nhớ rừng có cách ngắt nhịp rất linh hoạt, thường là nhịp 3/5 và 4/4, nhưng nhiều khi cũng thay đổi cách ngắt nhịp, tạo nên nhạc điệu của cảm xúc. Có câu ngắt nhịp rất ngắn: câu Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng với cách ngắt nhịp 2/2 như xé vụn câu thơ, tạo nên giọng chì chiết bực dọc của con hổ trước những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dôi. Nhưng câu thơ trãi dãi ơ khổ thứ hai va khô thứ ba tao nên giọng điệu hùng tráng, say sưa và tha thiết, thể hiện niềm tiếc nhớ của con hổ về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” nơi “nước non hùng vĩ”. Khép lại hai khổ thơ này là câu thơ “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Câu thơ ngắt nhịp 2/6, có đến bảy thanh bằng, tạo giọng điệu buồn thương, u uât và ngậm ngùi tiêc nhớ.

Thơ là tiếng nói của tình cảm, mang theo những rung động chân thành của trái tim. Sức mạnh của ngôn ngữ và nhạc điệu của bài thơ Nhớ rừng xét cho cùng vẫn là sức mạnh của mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt. Nếu tâm hồn của nhà thơ không thấm thìa nỗi chán chường cảnh sống tù túng, tầm thường và niềm khao khát tự do thì không thể viết được những câu thơ đầy ma lực quyến rũ như vậy!

Với những đặc sắc nghệ thuật vừa nói trên, Nhở rừng là bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Thế Lữ và khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Cùng với nhiều bài thơ khác của Thế Lữ, Nhớ rừng đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho Thơ mới.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021
View attachment 4831

BÀI VIẾT GỢI ý​

Sau năm 1930, văn học Việt Nam chứng kiến một cuộc đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc của thơ ca. Thơ mới ra đời, khẳng định sự đoạn tuyệt với nền thơ cũ. Thơ mới, trước hết là mới ở hình thức của thơ, mà đặc biệt là ở ngôn ngữ thơ. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ - nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới - như sau: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được” {Thi nhân Việt Nam).

Hoài Thanh đã dùng một cách nói đầy hình ảnh để ca ngợi tài năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của Thê Lữ trong sáng tạo thơ ca. Thê Lữ đã “điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”, bằng “một sức mạnh phi thường”. Văn học, trước hết là nghệ thuật của ngôn từ. Và không ở đâu bằng trong thơ, ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ thơ vừa là tiếng nói chân thực giàu có của đời sổng hiện thực, vừa là tiếng nói của trí tưởng tượng diệu kì, lại vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang xúc động. Ngôn ngữ thơ là sự biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mĩ lệ, phong phú của ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong thơ Thế Lữ đã có được tất cả những vẻ đẹp ây. Ở bài thơ Nhớ rừng, nhà thơ đã vận dụng ngôn từ tiếng Việt một cách tài tình để khắc họa tâm trạng của con hố' bị giam cầm trong cũi sắt, qua đó diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.

Luận điểm 1: Trước tiên, có thế’ thấy ngôn từ của Nhớ rừng vố cùng phong phú, giàu tính tạo hình và sức biêu cảm. Thế Lữ đã xây dựng hai cảnh tượng tương phản: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt, và cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hô ngự trị những ngày xưa. Cả hai cảnh đều được miêu tả đầy ân tượng.

Trong cành con hổ bị giam cầm ở vườn bách thú, nhà thơ tập trung khắc họa hoàn cảnh, thân phận và tâm trạng ngao ngán, uất hận của con hổ. Câu thơ mơ đâu bài thơ thật giản dị mà cô đọng, diễn tả đầy đủ ý nghĩa của cả đoạn thơ:

Gậm một khôi căm hờn trong cũi sắt

Thê Lữ không dùng từ “gặm” (nêu là gặm thì có vẻ “ngon lành” quá?), cũng không dùng từ “ngậm” (có vẻ nhẫn nhục quá chăng?). Từ “gậm” không phải là cách nói phổ biển trong tiếng Việt, nhưng trong văn cảnh này, nó đã thể hiện đúng tâm trạng của con hổ. Từ “gậm” mang trong nó cái ý nghĩa thâm thía của sự đau khổ, cay đắng, chua xót và nung nấu căm hờn. “Khối căm hờn” là một cách nói hình ảnh, bắt nỗi căm hờn vôn vô hình phải hiện ra thành hình, thành khối, có tác dụng cụ thể hóa nỗi niềm của con hổ. Như để cắt nghĩa cho “khối căm hờn” ấy, tác giả đã dùng cả một hệ thống từ ngữ để dựng nên một đối lập đầy bi kịch: một bên là con hổ - oai linh rừng thẳm’, một bên là củi sắt, lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, bọn thú dở hơi, cặp báo vô tư lựnhững cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối... Trong đoạn thơ thứ nhất và thứ tư, ngôn ngữ thơ chủ yếu là tả thực, miêu tả hoàn cảnh thực tại của thân tù hãm và nỗi ngao ngán, chán chường, uất hận của con hổ.

Đặc sắc nhất của bài thơ vẫn là đoạn thơ thứ hai và thứ ba, tả tâm trạng nhớ tiếc của con hổ về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” nơi “cảnh sơn lâm bóng cả, cây già”. Bị giam cầm trong cũi sắt, con hổ đau đáu một nỗi nhớ rừng. Đối với chúa sơn lâm, rừng là tất cả. Nhớ rừng là nhớ tiếc Tự do. Nhớ rừng là nhớ tiếc thời Oanh liệt. Nhớ rừng là nhớ tiếc cái Cao cả, cái Chân thưự, cái Tự nhiên... Cho nên hình ảnh rừng - con hổ gọi một cách rất trang trọng là cảnh nước non hung vĩ • đã hiện lên với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường... Đó là cảnh bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội, cảnh những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, cảnh những chiều lênh láng máu sau rừng... Bút pháp tạo hình của Thế Lữ tập trung khắc họa cái phi thường làm nổi bật hình ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm và dữ dội oai linh. Bên cạnh đó, còn có những nét bút mềm mại vẽ nên cảnh thơ mộng của rừng thẳm với những đêm vàng bèn bờ suối, những bình minh cây xanh nắng gội...

Ngòi bút tài hoa của Thế Lữ đã khắc họa, ở vị trí trung tâm của bức tranh núi rừng hùng vĩ và thơ mộng, hình ảnh con hổ với một vẻ đẹp oai phong lẫm liệt vẻ đẹp của chúa sơn lâm, vẻ đẹp kì vĩ mang tầm vóc chúa tể của

muôn loài:

Ta bước chân lên, dõng dạc, dường hoàng

, Lượn tấni thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thẩm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuôi.


Khi rừng thiêng thét khúc trường ca dữ dội thì con hổ cũng bước chán lên trong tư thê dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn tấm thân, vờn bóng,quắc lên ánh mắt thần. Những câu thơ thật sống động, đầy những động từ, tính từ và những so sánh, ẩn dụ giàu chất tạo hình, đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân, tấm thân và ánh mắt, gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mãnh vừa uyển chuyển, mềm mại của chúa sơn lâm.

Luận điểm 2: Đoạn 3 mới là đoạn tuyệt bút của bài thơ, với vẻ đẹp hài hòa và lộng lẫy của một bộ tranh tứ bình, bộc lộ hết khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Trong nỗi nhớ da diết của con hổ hiện lên bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, dữ dội mà tráng lệ, thơ mộng, ở vị trí trung tâm là hình ảnh con hổ với tư thế uy nghi và sức mạnh của vị chúa tể chế ngự cả tự nhiên. Có cảnh sáng xanh, chiều đỏ, đêm vàng. Có cảnh mưa núi mịt mờ, có cảnh rừng xanh chan hòa ánh nắng... Ân tượng nhất là cảnh “chiều lênh láng máu sau rừng” đẹp dữ dội với con hổ đang đợi mặt trời chết để chiếm lấy riêng phần bí mật của vũ trụ. “Chêt mảnh mặt trời” là một cách nói mới mẻ và giàu sức gợi cảm. sắc đỏ của ánh tà dương trở thành máu của mặt trời đang hấp hôi, nhuộm đỏ cả không gian sau rừng, vầng thái dương vĩ đại của vũ trụ chỉ là một mảnh bé nhỏ trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của chúa sơn lâm. Trước hình ảnh mặt trời đang hấp hôi vô cùng thảm hại, tầm vóc của chúa sơn lâm càng trở nên kì vĩ, bao trùm cả vũ trụ. Bốn bức tranh cùng vẽ về một con hổ với những phông cảnh và tư thế khác nhau, đã khái quát trọn vẹn về một thời oanh liệt của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh là bốn nỗi hoài niệm đầy tiêc nuôi, uất hận, là bốn câu hỏi mà giọng điệu cứ tăng tiến dần. “Nào đâu...” là tiếng than ngậm ngùi tiếc nuối mở đầu dòng hoài niệm. Đến những câu hỏi tiêp theo “Đâu...”, “Đâu...”, nuối tiếc đã nhuốm đầy đau đớn. Và đặc biệt là câu hỏi cuối cùng, kéo dài đến ba dòng thơ, đã là lời chất vấn dữ dội tìm về một dĩ vãng huy hoàng. Nhưng dĩ vãng có bao giờ trở lại, càng nhớ tiếc lại càng xót đau. Giác mơ huy hoàng cuô'i cùng khép lai trong tiếng than tràn đầy u uấtt:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Luận điểm 3: Bên cạnh tính tạo hình và sức biểu cảm phong phú, ngôn ngữ của Nhớ rừng còn rất giàu nhạc tính. Nói như Hoài Thanh, “thơ Thế Lừ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tâu, âm thanh...” Âm điệu của Nhớ rừng rất dồi dào và mới mẻ. Thơ tám chữ đã có trong thơ ca truyên thông ở thế hát nói, nhưng phải đến nhớ rừng mới được cô định với tư cách là một thể thơ. Nhớ rừng là một bài thơ tám chữ, có câu trải dài đên mười chữ ‘Với tiêng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”. Bô cục khá lạ: bài thơ gôm năm khổ, số câu trong mỗi khổ không đều nhau. Rõ ràng sự phân bố số câu thơ trong các khổ không theo một quy luật nào cả, mà chỉ tuân theo quy luật của cảm xúc: nỗi nhớ rừng’ và niêm khao khát tự do mãnh liệt đã kéo dài khổ thứ hai và khổ thứ ba. Mạch cảm xúc sôi nổi và mãnh liệt chi phôi cả cách gieo vần và phôi thanh: bài thơ gieo vần liên tiếp, cứ hai câu vần bằng lại đến hai câu vân trắc. Có chỗ vần của câu cuôi khổ trên tràn xuông bắt vần với câu đầu khổ dưới, chẳng hạn:

Giữa chôn thảo hoa không tên không tuổi

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suôi




Than ôi! Thời oanh liệt nay còn dâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu


Cách gieo vần ấy buộc phải đọc liền mạch để không làm đứt đoạn dòng cảm xúc. Làm nên nhạc của bài thơ, còn do cách ngắt nhịp. Nhớ rừng có cách ngắt nhịp rất linh hoạt, thường là nhịp 3/5 và 4/4, nhưng nhiều khi cũng thay đổi cách ngắt nhịp, tạo nên nhạc điệu của cảm xúc. Có câu ngắt nhịp rất ngắn: câu Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng với cách ngắt nhịp 2/2 như xé vụn câu thơ, tạo nên giọng chì chiết bực dọc của con hổ trước những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dôi. Nhưng câu thơ trãi dãi ơ khổ thứ hai va khô thứ ba tao nên giọng điệu hùng tráng, say sưa và tha thiết, thể hiện niềm tiếc nhớ của con hổ về một “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa” nơi “nước non hùng vĩ”. Khép lại hai khổ thơ này là câu thơ “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Câu thơ ngắt nhịp 2/6, có đến bảy thanh bằng, tạo giọng điệu buồn thương, u uât và ngậm ngùi tiêc nhớ.

Thơ là tiếng nói của tình cảm, mang theo những rung động chân thành của trái tim. Sức mạnh của ngôn ngữ và nhạc điệu của bài thơ Nhớ rừng xét cho cùng vẫn là sức mạnh của mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt. Nếu tâm hồn của nhà thơ không thấm thìa nỗi chán chường cảnh sống tù túng, tầm thường và niềm khao khát tự do thì không thể viết được những câu thơ đầy ma lực quyến rũ như vậy!

Với những đặc sắc nghệ thuật vừa nói trên, Nhở rừng là bài thơ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Thế Lữ và khả năng nghệ thuật của ngôn ngữ thơ tiếng Việt. Cùng với nhiều bài thơ khác của Thế Lữ, Nhớ rừng đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho Thơ mới.
Trần Ngọc 2021Bài viết hay, chỉ ra từng luận điểm giúp người đọc dễ tiếp thu và cảm nhận hơn.
 
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.