Tuy sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, tiêu biểu là bài thơ “Ông đồ”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào dĩ vãng cùng sự tiếc thương vô cùng. Bài "Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên" sẽ giúp các bạn hiểu hơn nét đẹp và nỗi niềm mà tác giả gửi gắm trong bài thơ. Soạn bài Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên sẽ giúp trả lời các câu hỏi để các bạn có định hướng đúng khi học bài.
Tự đánh giá: Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
Ghi vào vở chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi (từ câu 1 đến câu 9):Câu 1 (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Đoạn trích viết về vấn đề gì?
A. Kể chuyện của ông đồB. Miêu tả hình ảnh ông đồ
C. Phân tích bài thơ Ông đồ
D. Giới thiệu nhà thơ Vũ Đình Liên
Trả lời:
Chọn đáp án: C. Phân tích bài thơ Ông đồ
Câu 2 (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Vì sao văn bản Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên nêu trên là văn bản nghị luận văn học.
A. Vì văn bản tập trung miêu tả hình ảnh ông đồB. Vì tác giả đã phân tích cái hay của bài thơ Ông đồ
C. Vì tác giả đã kể lại câu chuyện về ông đồ viết chữ Nho
D. Vì văn bản đã giúp người đọc hiểu ông đồ là ai
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Vì tác giả đã phân tích cái hay của bài thơ Ông đồ
Câu 3 (trang 99 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Theo em, mục đích chính của người viết đoạn trích trên là gì?
A. Ca ngợi những người viết chữ NhoB. Ca ngợi hình ảnh ông đồ viết chữ Nho
C. Nêu lên tình cảnh buồn thảm của ông đồ
D. Chỉ ra cái hay của bài thơ Ông đồ
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Chỉ ra cái hay của bài thơ Ông đồ
Câu 4 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Câu nào có bằng chứng được người viết dẫn ra từ bài thơ
A. Dòng thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi
B. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
C. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt ông đồ .
D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
Câu 5 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Tác giả phân tích nghệ thuật dùng từ của nhà thơ ở câu nào?
A. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
B. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
C. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
D. Dòng thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Câu 6 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Câu nào nêu nhận xét về tài năng nghệ thuật của nhà thơ Vũ Đình Liên
A. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại.B. Ông đồ đã kiên nhẫn “vẫn ngồi đấy”, nhưng năm nay không còn kiên nhẫn được nữa.
C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
D. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc , nhưng quá muộn rồi
Trả lời:
Chọn đáp án: C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
Câu 7 (trang 100 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Người viết thể hiện rõ cảm xúc của mình về hình ảnh ông đồ ở câu nào?
A. Hãy trở lại với dòng thơ đầu bài “Mỗi năm hoa đào nở”để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa.B. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi
C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
D. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi
Câu 8 (trang 101 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Ý kiến khái quát của người viết về nội dung và nghệ thuật bài thơ Ông đồ được nêu ở câu nào
A. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta.B. Ông đồ đã kiên nhẫn “vẫn ngồi đấy”, nhưng năm nay không còn kiên nhẫn được nữa.
C. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Câu 9 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Câu nào sau đây có vị ngữ được mở rộng bằng cụm chủ - vị
A. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồiB. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta.
C. Ông đồ đã cố bám lấy xã hội hiện đại, những người hiện đại chúng ta đã thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với…
D. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Câu 10 (trang 101 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Em thích nhất đoạn nào trong văn bản Về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên (Vũ Quần Phương)? Vì sao?
Trả lời:- Trong văn bản Về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên (Vũ Quần Phương) em thích nhất đoạn mở đầu. Vì ở đoạn đầu đã gợi ra không gian tàn tạ, hết thời, buồn bã và ảm đạm.
Hướng dẫn tự học
Câu 1: Tìm đọc một số bài phân tích các văn bản Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Buổi học cuối cùng (Đô – đê), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Bố của Xi -mông (Mô-pa-xăng), Mẹ (Đỗ Trung Lai), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Hai vạn dặm dưới đáy biển (Véc-nơ), Người về từ Sao Hỏa (En-di Uya),…
Trả lời:
Xem lại các bài viết trước đó: Vẻ đẹp của bài thơ Tiếng gà trưa
Câu 2: Đọc một số bài nghị luận văn học và ghi lại những đoạn văn mà trong đó tác giả phân tích cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học.
Trả lời:
Đến với bài thơ hay: Mẹ
Lưng mẹ còng rồi
Cau thì vẫn thẳng
Cau – Ngọn xanh rờn
Mẹ – Đầu bạc trắng
Cau ngày càng cao
Mẹ ngày càng thấp
Cau gần với trời
Mẹ thì gần đất
Ngày con còn bé
Cau mẹ bổ tư
Giờ cau bổ tám
Mẹ còn ngại to
Một miếng cau khô
Khô gầy như mẹ
Con nâng trên tay
Không cầm được lệ
Ngẩng trời hỏi vậy
sao mẹ ta già
Không một lời đáp
Mây bay về xa
Đỗ Trung Lai
Bao nỗi đắng cay, buồn vui cuộc đời của mẹ đều được miếng trầu cau chứng kiến. Túi trầu mẹ nhẹ hay nặng cũng gắn với bao đầy vơi nỗi niềm.
Nhà thơ Đỗ Trung Lai đã chọn hình ảnh cây cau để ví von so sánh với mẹ là một phát hiện khá tinh tế, nhiều biểu cảm, không chỉ về hình thể bên ngoài mà cả sự sâu lắng bấm đốt thời gian thân phận của một đời người…
Làng quê nông thôn Việt Nam vườn ai mà chẳng thấy bóng dáng cây cau cũng như xóm thôn làm sao thiếu vắng được bóng mẹ. Mẹ tựa vào cây cau không như là gậy chống mà còn là khát khao từng nấc như ước vọng về tương lai con cháu về sự sum vầy sum suê của buồng cau trĩu quả.
Mẹ thì bao mong mỏi nhưng rồi thời gian khắc nghiệt như một quy luật luân hồi muôn đời: “Lưng mẹ còng rồi – Cau thì vẫn thẳng” và: “Cau – Ngọn xanh rờn, Mẹ – Đầu bạc trắng”. Hai sắc màu trái ngược nhau, hai hình dáng tương phản nhau tạo ra một ám ảnh lập tứ cho tiếng thơ tiếng lòng quạn bao nỗi thắt khi: “Cau gần với trời – Mẹ thì gần đất”.
Trời và đất, cao và thấp cứ chênh chao nhất là khi nhà thơ sử dụng nhịp thơ bốn chữ cứ có cảm giác cứ như lập cập, thổn thức, gieo gieo từng giọt nước mắt lặn vào trong buốt nhói với bao chiêm nghiệm.
Miếng cau bổ ra ngày càng nhỏ cũng đủ gợi cho ta tuổi già món mém của mẹ. Cau bổ tư rồi cau bổ tám như những chia sẻ, san sẻ hút dần sức lực của mẹ.
Chỉ qua hình ảnh miếng cau: “Một miếng cau khô – Khô gần như mẹ” cũng đủ bao cảm thông héo hắt khi: “Con nâng trên tay – Không cầm được lệ”. Hai chữ “nâng” và “cầm” đều chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng kính trọng biết bao thì “cầm” lại nén bao đắng đót bấy nhiêu.
Từng cặp biểu cảm được song hành tạo ra bao chất chứa, lời ít mà vọng xa. Chính đây cũng là sự vận động cảm xúc của bài thơ “Mẹ” dồn nén để buột ra câu cảm thán mang âm hưởng điệu hành trong thơ văn cổ: “Ngẩng trời hỏi vậy – sao mẹ ta già”.
Câu hỏi tự vấn đất trời cũng chính là tự vấn lòng mình. Thơ đã chạm được đến nỗi người, cõi người vừa đăm đăm vừa trống trải. Một sự cô đơn ngỡ như vô vọng: “Không một lời đáp – Mây bay về xa”.
Nhưng lại không thất vọng vì hàng cau còn đó vun vút cao như một nỗi lòng và niềm tin của mẹ. Một niềm tin bền bỉ ấm áp miếng trầu. Và “mây bay về xa” hay mái đầu mẹ bạc hòa vào mây trắng…
Ngọc Phú
– Trong bài phân tích bày tác giả đã phân tích cái hay, cái đẹp trong cả nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mẹ.
Bài tập minh họa
Bài tập: Em hãy tìm đọc và phân tích bài thơ Ông đồ – Vũ Đình Liên.
Hướng dẫn giải:
– Dựa vào các văn bản, sách báo, internet để sưu tầm một số tác phẩm cùng đề tài hoặc chủ đề với các tác phẩm đã học– Đọc kĩ văn bản được chọn
– Kết hợp hiểu biết cá nhân để phân tích
– Cần đảm bảo những nội dung chính sau:
* Hình ảnh ông đồ thời Nho thịnh:
– Ông đồ xuất hiện mỗi dịp tết đến xuân về “hoa đào nở”–> Cặp hình ảnh “ông đồ”- “hoa đào” trở thành tín hiệu báo xuân đến.
– “Mực tàu giấy đỏ”–> Viết thư pháp
– Tài năng hơn người với những nét chữ phóng khoáng, bay bổng “thảo những nét”, “rồng múa phượng bay”
– Nhận được sự ngưỡng mộ, yêu thích của mọi người “bao nhiêu người thuê viết”, “tấm tắc ngợi khen tài”
=> Ông đồ là trung tâm của bức tranh mùa xuân. Hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ đã trở thành một phần không thể thiếu trong những ngày tết cổ truyền.
* Hình ảnh ông đồ thời Nho lụi tàn:
– Ông đồ vẫn ngồi bên góc phố đông người qua lại nhưng dần bị quên lãng.– “mỗi năm mỗi vắng” gợi ra không khí đìu hiu, vắng vẻ và tình cảnh vắng khách của ông đồ
– Giấy, mực thấm đượm nỗi buồn của con người: nỗi buồn bị lãng quên
– “lá vàng rơi trên giấy” càng tô đậm thêm sự ảm đạm, gợi cảm giác úa tàn, lạnh lẽo.
–> Ông đồ dần trở nên lạc lõng giữa cuộc đời
* Tình cảm của nhà thơ:
– Trân trọng, cảm mến tài năng của ông đồ cũng như những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc– Xót thương khi những giá trị văn hóa tốt đẹp của nền Nho học dần bị mai một, lãng quên.
Lời giải chi tiết:
Nếu thơ Xuân Diệu có giọng điệu say đắm, rạo rực, thơ Hàn Mặc Tử có chút điên loạn, thơ Huy Cận có nỗi buồn ảo não thì thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, đây là nét riêng biệt để họ được phân biệt với các tác giả khác và cũng là ấn tượng riêng để bạn đọc nhớ đến họ. Tuy sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, tiêu biểu là bài thơ “Ông đồ”.Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào dĩ vãng cùng sự tiếc thương vô cùng.
Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm thì đó cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố. Ta hãy hình dung dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thật sinh động. Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là một người am hiểu về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết những nét chữ tài hoa đến như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” đã thể hiện được lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông đồ. Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ là một thú vui thể hiện cốt cách thanh cao của người thường thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba bởi nét chữ thể hiện được cái tâm, cái chí của người sáng tạo. Không những viết đẹp mà ông còn viết nhanh, điều này thật đáng khâm phục. Những nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có học thức khiến ai cũng muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết chữ và người chơi chữ như có mối đồng cảm sâu sắc vì họ đều là người biết yêu và thường thức cái đẹp.
Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một. Tác giả đã miêu tả một khung cảnh quạnh hiu,vắng vẻ đến thê lương. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp của quá khứ khiến con người không khỏi xót xa, tiếc nuối. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Thực tại thú chơi chữ đã không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần đi theo năm tháng. Nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.
Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”
Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Sự tàn phai, úa rụng được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất đã bao trùm lên toàn bộ khung cảnh khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
Vũ Đình Liên đã bộc lộ nỗi xót xa, niềm hoài cổ của mình qua khổ thơ cuối:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ta không còn thấy sự xuất hiện của ông đồ nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn tại. Những con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối bài đọng lại bao sự cảm thương, hối tiếc cho những gì đã mất.
Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.