Bình luận là dùng lí lẽ trình bày ý kiến, thái độ trước một vấn đề nào đó (một ý kiến, một quan điểm, một hiện tượng đời sống, một phương pháp, sáng kiến, phát minh…) với dẫn chứng để cho thấy vấn đề đó đúng sai, lợi hay hại, có ý nghĩa lớn, nhỏ như thế nào, và bày tỏ thái độ tán thành hay phản đối.
Viết lời bình cho một tác phẩm văn học đã được nhiều tao nhân mặc khách sử dụng, để lại “trang hoa, tờ hoa” diễm lệ.
Người viết lời bình vốn am hiểu sâu sắc từ chương học, lịch lãm cuộc đời và văn chương, lại rất tài hoa. Tác phẩm văn chương có hay thì người ta mói viết lời bình. Những lời bình đặc sắc đã dệt gấm thêu hoa cho tác phẩm; cái hay của văn chương như được thăng hoa thấm sâu vào hồn người. Người viết lời bình qua sự thẩm bình của mình mà hướng dẫn người đọc đi sâu vào nơi sâu kín của tác phẩm để cảm nhận, thưởng thức yêu mến.
Lời phê bình - lời bình cho một tác phẩm làm tôn vẻ đẹp của văn chương, như khen người phụ nữ đẹp vậy.
Phê bình hiện đại còn dàn tải, chưa đạt đến chỗ thâm hâu, tinh tế và linh diệu của văn chương. Những bài “giới thiệu sách” đăng tải trên báo, pjhần lớn nhạt nhẽo, vô vị vì mang tính chất rao hàng!
Những lời bình của một số nhà nho trong thế kỷ XIX về “Truyện Kiều”, lời bình của Mao Tôn Cương về “Tam quốc chí diễn nghĩa”, lời bình của Thánh Thán về Đường thi, về “Hồng lâu mộng”, vừa hay, vừa sâu sắc, đọc lên nghe rất thú vị.
Viết lời bình cũng là một kiểu bình giảng đặc biẹt. Người viết lời bình hay là viết ngắn mà thâu tóm được linh hồn áng văn thơ, khen chê cái hay, cái đẹp của tác phẩm trên những căn cứ thi pháp và quan điểm thẩm mỹ tiến bộ.
Trong bài “Một đôi điều tâm sự trên câu chuyện bình thơ” nhà văn Hoài Thanh viết:
“Làm thơ là một cách phát biểu ý kiến, Bình thơ cũng là một cách phát biểu ý kiến. Không phải chỉ là phát biểu về thơ, mà trước hết là phát biểu về những vấn đề tư tưởng tình cảm đang đặt ra trong cuộc sống (…)
Người bình thơ không phải muốn nói gì thì nói, phải dựa vào thơ mà nói, không được mượn cớ bình thơ để nói những chuyện không có gì dính dáng với thơ. Cho nên trước hết là phải tìm hiểu bài thơ, tập thơ cho đúng. Tìm hiểu thơ, tìm hiểu người làm thơ, am hiểu hoàn cảnh ra đời của thơ. Bình thơ đòi hỏi phải có cảm xúc, có tình cảm nhưng là cảm xúc, tình cảm trên cơ sở một sự hiểu biết khoa học, không thể là một thứ cảm tính vu vơ. Điều này khhông dễ nhất là đối với thơ xưa”.
Cũng như kiểu bài Tóm tắt tác phẩm, Giới thiệu tác giả, kiểu bài Viết lời bình chưa đề cập đến, chưa được coi trọng thỏa đáng. Chúng tôi hy vọng rằng kiểu bài Viết lời bình không chỉ là hình thức tập dượt bình giảng mà còn được đưa vào bài tập ngắn thường xuyên trong quá trình giảng dạy và học tập.
Một số lời bình hay
“Vui buồn, tan hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gáy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tỏ ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là “Đoạn trường tân thanh” cũng phải.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tó Như Tử dụg tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có cái con mắt trong thấu cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy, bèn vui mà viết bài tựa này”.
(Tiên phong Mộng Liên Đường chủ nhân Bùi Kỷ dịch)
Tu thân
Thấy người hay thì cố mà bắt chước, thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi,
Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy, chính mình có điều dở, thì pahỉ cố mà trừ đi.
Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là cừu địch, hại ta vậy.
Cho nên người quaan tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn… Như thế dù muốn hay không cũng không đạt.
Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng da như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ xiềm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê… Như thế thì dù muốn không dở cũng không được
(Tuân Tử)
* Lời bàn của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, đồng tác giả cuốn sách “Cổ học tinh hoa” rất nổi tiếng, xuất bản từ năm 1925:
“Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lạicòn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen, chê phải, khen răn hay, thì phục, thì bắt chước: ai chiều lòng nịnh hot, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. “Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khe minh”, có như thế, mình mới tu thân được”.
* Bình 2 câu thơ sau của Đỗ Phủ:
“Độc thư pá vạn quyển,
Hạ bút như hữu thần”.
(Đọc sách phá vạn quyển,
Hạ bút (viết) như có thần).
Có người hỏi: “Thơ đã không phải loại kinh điển, cần gì phải nêu cái thuyết “Đọc sách phá vạn quyển” của Thiếu Lăng? Vậy thì người đó không biết rằng ba chữ “phá” và “hữu thần” toàn là phép dạy người đọc sách làm văn đấy. Đó là “phá” quyển sách để tiếp thu lấy cái “thần” của nó, chứ không phải là hoàn toàn nhặt nhạnh cả cặn bã của nó vậy. Tằm ăn lá dâu nhưng nhả ra tơ chứ không phải nhả lá dâu. Ong hút nhuỵ hoa mà gây thành mật chứ không phải gây thành nhuỵ hoa. Đọc sách như ăn cơm vậy, kẻ “khéo ăn”, tinh thần xẽ lớn lê, kẻ “không khéo ăn” sinh ra đờm, bướu”.
Viên Mai (Đời Thanh) (“Tuỳ viên thi thoại”)
* “Thi hữu biệt tài, thi hữu biệt thú”
(Thơ có thể tài riêng, thơ có hứng thú riêng).
“Thơ có thể tài riêng không liên quan đến sách vậy. Thơ có hứng thú riêng, không liên quan tới lý vậy. Nhưng nếu không đọc sách nhiều, không suy nghĩ nhiều, thì thơ không thể đạt tới chỗ tuyệt đỉnh được. Vậy thì không bước vào con đường của cái lý, không rơi vào cái rọ của ngôn từ là hay nhất. Thơ là để ngâm vịnh tính tình. Những nhà thơ thời Tịh Đường Cchỉ sáng tác khi nào có hứng thú, không đẻ lại một gợn vết nào, tự như con linh dương trên rừng. Vì vậy chỗ thần diệu củ thở họ trong văt lung linh, không thẻ gom vào được, như âm thanh giữa tầng không, như thần sắc nơi hình tướng, như bóng trăng in đáy nước, như hình ảnh trong mặt gương, lời hết rồi mà ý vẫn vô cùng. Các nhà thơ gần đay chỉ thích kỳ lạ lập di, họ coi vắn tj là thơ, coi tài học là tơ, coi nghị luận là thơ. Có bài không phải là không hay, nhưng khác với thơ của cổ nhân lăm”.
Nghiêm Vũ (đời Tống) (“Thương Quang thi thoại”)
* Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời,
Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy.
“Than ôi! Lấy quốc ngữ làm văn chương, thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc ngữ , thì ta có phần tán thành.
Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác gia mọc lên như rựng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ, cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng. Bằng Quận công đặt điệu cung từ, giọng ruồi không nhường Hán, Nguỵ, đến như văn của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều.
Như vậy, nếu chỉ coi quốc ngữ là quốc ngữ, thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên tìm cách làm cho rõ thế nào là văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?
Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy”.
Cao Bá Quát (Trích “Bài tựa truyện Hoa Tiên”)
Có rất nhiều dạng bài bình luận với các cách triển khai, các cách làm bài văn bình luận khác nhau, vậy có những dạng bài bình luận nào? Có hai dạng bài bình luận, một dạng là bình luận chính trị -xã hội và một dạng là bình luận văn chương.
Khi làm bài văn bình luận cần chú ý đạt được 3 mục tiêu cụ thể:
+ Phân tích rõ tốt, xấu, đúng sai, cũ mới … của vấn đề
+ Mở rộng , khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết của vấn đề đó.
+ Xác định rõ thái độ, tình cảm hành động đúng đắn khi đối diện với vấn đề ấy.
Làm bài văn bình luận như thế nào cho đúng và hay?
Cách làm bài văn bình luận hoàn chỉnh bao gồm ba bước, đó là:
Giải thích rõ vấn đề
+ Một từ khó một khái niệm mới cần được giải thích rõ .
+ Nghĩa đen nghĩa bóng , ý nghĩa của vấn đề cần phải được giải thích cụ thể (Bước 1 được coi như là soi sáng một vấn đề bước đầu nên rất cần thiết).
Phải bình để chỉ rõ đúng, sai; xấu, tốt ; cũ, mới … của vấn đề.
+ Tại sao đúng (sai)? Phải có lý lẽ trên một cơ sở một quan điểm, lập trường nhất định.
+ Phần bình thể hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng tình của người bình luận. Và người viết lời bình cần phải thể hiện sự sắc sảo.
Phải luận: nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận so sánh, đối chiếu khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử về lý luận về thực tiễn để bàn luân cho thoả đáng.
Bước này của bài bình luận chính là nơi để phân biệt mức độ, chất lượng, trình độ của bài văn.
Cách làm bài văn bình luận trên là để thấy được sự rạch ròi trong nhận thức. Như bình luận một câu tục ngữ một câu ca dao, một ý kiến ngắn. (VD : “Không có gì quí hơn độc lập tự do”) thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự 3 bước. Đối với những vấn đề bình luận về một vấn đề được trích dần trong một câu nói dài nhiều vế, ta phải :
+ Có lúc gộp bước 2 và 3, kết hợp bình và luận trong từng vế.
+ Có lúc gộp cả 3 bước trong từng vế cụ thể.
Một bài văn bình luận hoàn chỉnh gồm những phần nào?
A. MỞ BÀI:
– Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
– Nêu yêu cầu của đề: Giới thiệu khái quát về đối tượng cần bình luận (Phải trích lại ý kiến/nhận định trong đề…)
B. THÂN BÀI:
Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm):
Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 1 khía cạnh, 1 phương diện … của 1 tác phẩm văn học cần giới thiệu tuần tự về tác giả rồi về tác phẩm đó.
Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì nên làm như sau:
– Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm thứ nhất.
– Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm thứ hai.
Giải thích ý kiến cần bình luận (0,5 điểm):
Khi giải thích cần lưu ý:
– Bám sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận, tránh suy diễn chủ quan, tuỳ tiện.
– Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh còn ẩn ý hoặc chưa rõ nghĩa.
– Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh trước, rồi mới khái quát ý nghĩa của toàn bộ ý kiến nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì khi giải thích phải chỉ rõ sự giống nhau cũng như sự khác nhau giữa hai nhận định.
Cảm nhận, làm rõ các đối tượng mà ý kiến/nhận định đề cập tới và bình luận về các ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu (4,0 điểm):
Cảm nhận, làm rõ các đối tượng mà ý kiến/nhận định đề cập tới (2,5 – 3,0 điểm)
Khi cảm nhận cần lưu ý:
– Bám thật sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Do yêu cầu của đề, thời gian làm bài và dung lượng bài viết nên chỉ tập trung phân tích/cảm nhận để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới. Không được sa đà phân tích/cảm nhận mọi phương diện, khía cạnh của đối tượng hay phân tích/cảm nhận toàn tác phẩm.
– Sử dụng các thao tác lập luận như Phân tích, Chứng minh, So sánh…và vận dụng các kiến thức đã học về tác phẩm để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới.
– Việc phân tích, cảm nhận để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới cần: Chính xác, tinh tế, sắc sảo, toàn diện và có suy nghĩ, cảm xúc…
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 ý kiến/2 nhận định về 1 khía cạnh, 1 phương diện … của 1 tác phẩm văn học thì ở bước này cần:
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định thứ nhất
(Ví dụ: Người lính Tây Tiến mang dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước)
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định thứ hai
(Ví dụ: Người lính Tây Tiến mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp)
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 ý kiến/2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì cách làm bài văn bình luận ở bước này:
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định về đối tượng thứ nhất (Ví dụ: Từ và sự nhẫn nhục của nhân vật)
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định về đối tượng thứ hai (Ví dụ: Người đàn bà hàng chài và sự nhẫn nhục của nhân vật)
– Khi cảm nhận, bên cạnh việc làm rõ các khía cạnh nội dung của ý kiến/nhận định cần bàn luận, cũng nên chú ý đến các dấu hiệu hình thức nghệ thuật như:
Hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, thể thơ, cấu trúc câu thơ, giọng điệu…nếu là ý kiến/nhận định về thơ
Vai trò, vị trí; điểm nhìn, nội tâm, ngoại hình của nhân vật; hoàn cảnh, tình huống, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu… nếu là ý kiến/nhận định về văn xuôi
3b. Bình luận về ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu (1 – 1,5 điểm):
– Trường hợp 1 trong 2 ý kiến sai thì bác bỏ ý kiến sai (Ví dụ: Vội vàng là tiếng nói của cái tôi vị kỉ tiêu cực), khẳng định ý kiến đúng (Ví dụ: Vội vàng là tiếng nói của cái tôi cá nhân tích cực)
– Trường hợp cả 2 ý kiến đều đúng thì khẳng định tính đúng đắn của cả 2 ý kiến theo cách sau:
✓ Nếu bình luận 2 nhận định về 1 khía cạnh… của 1 tác phẩm thì hướng bình luận như sau: Khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau; giúp nhìn nhận toàn diện và thống nhất về đối tượng; giúp nhận thức sâu sắc hơn về đối tượng; thấm thía hơn ý tưởng nghệ thuật của nhà văn
✓ Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì hướng bình luận như sau: Giúp người đọc nhận ra nét độc đáo của mỗi hình tượng; cảm nhận được điểm gặp gỡ, nét khác biệt trong cách nhìn nhận, mô tả đời sống, trong tư tưởng của mỗi tác giả.
Khi bình luận cần lưu ý:
– Bám thật sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Lời bình luận phải hợp lí, hợp tình; thái độ khiêm nhường, mềm mỏng nhưng kiên quyết, giàu sức thuyết phục…
KẾT BÀI:
– Đánh giá khái quát, ngắn gọn về mức độ ĐÚNG ĐẮN – SÂU SẮC
– TOÀN DIỆN của ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Phát triển, mở rộng, nâng cao vấn đề.
Sưu tầm
Viết lời bình cho một tác phẩm văn học đã được nhiều tao nhân mặc khách sử dụng, để lại “trang hoa, tờ hoa” diễm lệ.
Người viết lời bình vốn am hiểu sâu sắc từ chương học, lịch lãm cuộc đời và văn chương, lại rất tài hoa. Tác phẩm văn chương có hay thì người ta mói viết lời bình. Những lời bình đặc sắc đã dệt gấm thêu hoa cho tác phẩm; cái hay của văn chương như được thăng hoa thấm sâu vào hồn người. Người viết lời bình qua sự thẩm bình của mình mà hướng dẫn người đọc đi sâu vào nơi sâu kín của tác phẩm để cảm nhận, thưởng thức yêu mến.
Lời phê bình - lời bình cho một tác phẩm làm tôn vẻ đẹp của văn chương, như khen người phụ nữ đẹp vậy.
Phê bình hiện đại còn dàn tải, chưa đạt đến chỗ thâm hâu, tinh tế và linh diệu của văn chương. Những bài “giới thiệu sách” đăng tải trên báo, pjhần lớn nhạt nhẽo, vô vị vì mang tính chất rao hàng!
Những lời bình của một số nhà nho trong thế kỷ XIX về “Truyện Kiều”, lời bình của Mao Tôn Cương về “Tam quốc chí diễn nghĩa”, lời bình của Thánh Thán về Đường thi, về “Hồng lâu mộng”, vừa hay, vừa sâu sắc, đọc lên nghe rất thú vị.
Viết lời bình cũng là một kiểu bình giảng đặc biẹt. Người viết lời bình hay là viết ngắn mà thâu tóm được linh hồn áng văn thơ, khen chê cái hay, cái đẹp của tác phẩm trên những căn cứ thi pháp và quan điểm thẩm mỹ tiến bộ.
Trong bài “Một đôi điều tâm sự trên câu chuyện bình thơ” nhà văn Hoài Thanh viết:
“Làm thơ là một cách phát biểu ý kiến, Bình thơ cũng là một cách phát biểu ý kiến. Không phải chỉ là phát biểu về thơ, mà trước hết là phát biểu về những vấn đề tư tưởng tình cảm đang đặt ra trong cuộc sống (…)
Người bình thơ không phải muốn nói gì thì nói, phải dựa vào thơ mà nói, không được mượn cớ bình thơ để nói những chuyện không có gì dính dáng với thơ. Cho nên trước hết là phải tìm hiểu bài thơ, tập thơ cho đúng. Tìm hiểu thơ, tìm hiểu người làm thơ, am hiểu hoàn cảnh ra đời của thơ. Bình thơ đòi hỏi phải có cảm xúc, có tình cảm nhưng là cảm xúc, tình cảm trên cơ sở một sự hiểu biết khoa học, không thể là một thứ cảm tính vu vơ. Điều này khhông dễ nhất là đối với thơ xưa”.
Cũng như kiểu bài Tóm tắt tác phẩm, Giới thiệu tác giả, kiểu bài Viết lời bình chưa đề cập đến, chưa được coi trọng thỏa đáng. Chúng tôi hy vọng rằng kiểu bài Viết lời bình không chỉ là hình thức tập dượt bình giảng mà còn được đưa vào bài tập ngắn thường xuyên trong quá trình giảng dạy và học tập.
Một số lời bình hay
“Vui buồn, tan hợp, mười mấy năm trời, trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy. Xem đến chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên vẫn gỡ chưa rồi, khúc đàn bạc mệnh gáy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi nhưng lời văn tỏ ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là “Đoạn trường tân thanh” cũng phải.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tó Như Tử dụg tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có cái con mắt trong thấu cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy, bèn vui mà viết bài tựa này”.
(Tiên phong Mộng Liên Đường chủ nhân Bùi Kỷ dịch)
Tu thân
Thấy người hay thì cố mà bắt chước, thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi,
Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy, chính mình có điều dở, thì pahỉ cố mà trừ đi.
Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là cừu địch, hại ta vậy.
Cho nên người quaan tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn… Như thế dù muốn hay không cũng không đạt.
Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng da như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ xiềm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê… Như thế thì dù muốn không dở cũng không được
(Tuân Tử)
* Lời bàn của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, đồng tác giả cuốn sách “Cổ học tinh hoa” rất nổi tiếng, xuất bản từ năm 1925:
“Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lạicòn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen, chê phải, khen răn hay, thì phục, thì bắt chước: ai chiều lòng nịnh hot, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. “Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khe minh”, có như thế, mình mới tu thân được”.
* Bình 2 câu thơ sau của Đỗ Phủ:
“Độc thư pá vạn quyển,
Hạ bút như hữu thần”.
(Đọc sách phá vạn quyển,
Hạ bút (viết) như có thần).
Có người hỏi: “Thơ đã không phải loại kinh điển, cần gì phải nêu cái thuyết “Đọc sách phá vạn quyển” của Thiếu Lăng? Vậy thì người đó không biết rằng ba chữ “phá” và “hữu thần” toàn là phép dạy người đọc sách làm văn đấy. Đó là “phá” quyển sách để tiếp thu lấy cái “thần” của nó, chứ không phải là hoàn toàn nhặt nhạnh cả cặn bã của nó vậy. Tằm ăn lá dâu nhưng nhả ra tơ chứ không phải nhả lá dâu. Ong hút nhuỵ hoa mà gây thành mật chứ không phải gây thành nhuỵ hoa. Đọc sách như ăn cơm vậy, kẻ “khéo ăn”, tinh thần xẽ lớn lê, kẻ “không khéo ăn” sinh ra đờm, bướu”.
Viên Mai (Đời Thanh) (“Tuỳ viên thi thoại”)
* “Thi hữu biệt tài, thi hữu biệt thú”
(Thơ có thể tài riêng, thơ có hứng thú riêng).
“Thơ có thể tài riêng không liên quan đến sách vậy. Thơ có hứng thú riêng, không liên quan tới lý vậy. Nhưng nếu không đọc sách nhiều, không suy nghĩ nhiều, thì thơ không thể đạt tới chỗ tuyệt đỉnh được. Vậy thì không bước vào con đường của cái lý, không rơi vào cái rọ của ngôn từ là hay nhất. Thơ là để ngâm vịnh tính tình. Những nhà thơ thời Tịh Đường Cchỉ sáng tác khi nào có hứng thú, không đẻ lại một gợn vết nào, tự như con linh dương trên rừng. Vì vậy chỗ thần diệu củ thở họ trong văt lung linh, không thẻ gom vào được, như âm thanh giữa tầng không, như thần sắc nơi hình tướng, như bóng trăng in đáy nước, như hình ảnh trong mặt gương, lời hết rồi mà ý vẫn vô cùng. Các nhà thơ gần đay chỉ thích kỳ lạ lập di, họ coi vắn tj là thơ, coi tài học là tơ, coi nghị luận là thơ. Có bài không phải là không hay, nhưng khác với thơ của cổ nhân lăm”.
Nghiêm Vũ (đời Tống) (“Thương Quang thi thoại”)
* Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời,
Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy.
“Than ôi! Lấy quốc ngữ làm văn chương, thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc ngữ , thì ta có phần tán thành.
Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác gia mọc lên như rựng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ, cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng. Bằng Quận công đặt điệu cung từ, giọng ruồi không nhường Hán, Nguỵ, đến như văn của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều.
Như vậy, nếu chỉ coi quốc ngữ là quốc ngữ, thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên tìm cách làm cho rõ thế nào là văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?
Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa Tiên là tiếng nói răn đời vậy”.
Cao Bá Quát (Trích “Bài tựa truyện Hoa Tiên”)
Có rất nhiều dạng bài bình luận với các cách triển khai, các cách làm bài văn bình luận khác nhau, vậy có những dạng bài bình luận nào? Có hai dạng bài bình luận, một dạng là bình luận chính trị -xã hội và một dạng là bình luận văn chương.
Khi làm bài văn bình luận cần chú ý đạt được 3 mục tiêu cụ thể:
+ Phân tích rõ tốt, xấu, đúng sai, cũ mới … của vấn đề
+ Mở rộng , khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết của vấn đề đó.
+ Xác định rõ thái độ, tình cảm hành động đúng đắn khi đối diện với vấn đề ấy.
Làm bài văn bình luận như thế nào cho đúng và hay?
Cách làm bài văn bình luận hoàn chỉnh bao gồm ba bước, đó là:
Giải thích rõ vấn đề
+ Một từ khó một khái niệm mới cần được giải thích rõ .
+ Nghĩa đen nghĩa bóng , ý nghĩa của vấn đề cần phải được giải thích cụ thể (Bước 1 được coi như là soi sáng một vấn đề bước đầu nên rất cần thiết).
Phải bình để chỉ rõ đúng, sai; xấu, tốt ; cũ, mới … của vấn đề.
+ Tại sao đúng (sai)? Phải có lý lẽ trên một cơ sở một quan điểm, lập trường nhất định.
+ Phần bình thể hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng tình của người bình luận. Và người viết lời bình cần phải thể hiện sự sắc sảo.
Phải luận: nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận so sánh, đối chiếu khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử về lý luận về thực tiễn để bàn luân cho thoả đáng.
Bước này của bài bình luận chính là nơi để phân biệt mức độ, chất lượng, trình độ của bài văn.
Cách làm bài văn bình luận trên là để thấy được sự rạch ròi trong nhận thức. Như bình luận một câu tục ngữ một câu ca dao, một ý kiến ngắn. (VD : “Không có gì quí hơn độc lập tự do”) thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự 3 bước. Đối với những vấn đề bình luận về một vấn đề được trích dần trong một câu nói dài nhiều vế, ta phải :
+ Có lúc gộp bước 2 và 3, kết hợp bình và luận trong từng vế.
+ Có lúc gộp cả 3 bước trong từng vế cụ thể.
Một bài văn bình luận hoàn chỉnh gồm những phần nào?
A. MỞ BÀI:
– Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
– Nêu yêu cầu của đề: Giới thiệu khái quát về đối tượng cần bình luận (Phải trích lại ý kiến/nhận định trong đề…)
B. THÂN BÀI:
Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm):
Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 1 khía cạnh, 1 phương diện … của 1 tác phẩm văn học cần giới thiệu tuần tự về tác giả rồi về tác phẩm đó.
Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì nên làm như sau:
– Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm thứ nhất.
– Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm thứ hai.
Giải thích ý kiến cần bình luận (0,5 điểm):
Khi giải thích cần lưu ý:
– Bám sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận, tránh suy diễn chủ quan, tuỳ tiện.
– Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh còn ẩn ý hoặc chưa rõ nghĩa.
– Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh trước, rồi mới khái quát ý nghĩa của toàn bộ ý kiến nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì khi giải thích phải chỉ rõ sự giống nhau cũng như sự khác nhau giữa hai nhận định.
Cảm nhận, làm rõ các đối tượng mà ý kiến/nhận định đề cập tới và bình luận về các ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu (4,0 điểm):
Cảm nhận, làm rõ các đối tượng mà ý kiến/nhận định đề cập tới (2,5 – 3,0 điểm)
Khi cảm nhận cần lưu ý:
– Bám thật sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Do yêu cầu của đề, thời gian làm bài và dung lượng bài viết nên chỉ tập trung phân tích/cảm nhận để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới. Không được sa đà phân tích/cảm nhận mọi phương diện, khía cạnh của đối tượng hay phân tích/cảm nhận toàn tác phẩm.
– Sử dụng các thao tác lập luận như Phân tích, Chứng minh, So sánh…và vận dụng các kiến thức đã học về tác phẩm để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới.
– Việc phân tích, cảm nhận để làm rõ các tính chất/đặc điểm của đối tượng mà ý kiến/nhận định cần bình luận đề cập tới cần: Chính xác, tinh tế, sắc sảo, toàn diện và có suy nghĩ, cảm xúc…
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 ý kiến/2 nhận định về 1 khía cạnh, 1 phương diện … của 1 tác phẩm văn học thì ở bước này cần:
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định thứ nhất
(Ví dụ: Người lính Tây Tiến mang dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước)
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định thứ hai
(Ví dụ: Người lính Tây Tiến mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp)
– Nếu đề yêu cầu bình luận 2 ý kiến/2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì cách làm bài văn bình luận ở bước này:
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định về đối tượng thứ nhất (Ví dụ: Từ và sự nhẫn nhục của nhân vật)
Cảm nhận, làm rõ nội dung của ý kiến/nhận định về đối tượng thứ hai (Ví dụ: Người đàn bà hàng chài và sự nhẫn nhục của nhân vật)
– Khi cảm nhận, bên cạnh việc làm rõ các khía cạnh nội dung của ý kiến/nhận định cần bàn luận, cũng nên chú ý đến các dấu hiệu hình thức nghệ thuật như:
Hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, thể thơ, cấu trúc câu thơ, giọng điệu…nếu là ý kiến/nhận định về thơ
Vai trò, vị trí; điểm nhìn, nội tâm, ngoại hình của nhân vật; hoàn cảnh, tình huống, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu… nếu là ý kiến/nhận định về văn xuôi
3b. Bình luận về ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu (1 – 1,5 điểm):
– Trường hợp 1 trong 2 ý kiến sai thì bác bỏ ý kiến sai (Ví dụ: Vội vàng là tiếng nói của cái tôi vị kỉ tiêu cực), khẳng định ý kiến đúng (Ví dụ: Vội vàng là tiếng nói của cái tôi cá nhân tích cực)
– Trường hợp cả 2 ý kiến đều đúng thì khẳng định tính đúng đắn của cả 2 ý kiến theo cách sau:
✓ Nếu bình luận 2 nhận định về 1 khía cạnh… của 1 tác phẩm thì hướng bình luận như sau: Khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau; giúp nhìn nhận toàn diện và thống nhất về đối tượng; giúp nhận thức sâu sắc hơn về đối tượng; thấm thía hơn ý tưởng nghệ thuật của nhà văn
✓ Nếu đề yêu cầu bình luận 2 nhận định về 2 đối tượng trong 2 tác phẩm thì hướng bình luận như sau: Giúp người đọc nhận ra nét độc đáo của mỗi hình tượng; cảm nhận được điểm gặp gỡ, nét khác biệt trong cách nhìn nhận, mô tả đời sống, trong tư tưởng của mỗi tác giả.
Khi bình luận cần lưu ý:
– Bám thật sát ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Lời bình luận phải hợp lí, hợp tình; thái độ khiêm nhường, mềm mỏng nhưng kiên quyết, giàu sức thuyết phục…
KẾT BÀI:
– Đánh giá khái quát, ngắn gọn về mức độ ĐÚNG ĐẮN – SÂU SẮC
– TOÀN DIỆN của ý kiến/nhận định mà đề yêu cầu bình luận.
– Phát triển, mở rộng, nâng cao vấn đề.
Sưu tầm
Sửa lần cuối:
- Từ khóa
- hoc tap tac pham van hoc văn học viết lời bình