Newsfeed

forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì ? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao : đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại.

Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ : “Chắc nó trừ mình ra !”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật ! Ờ ! Thế này thì tức thật ! Tức chết đi được mất ! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp ! Thế có phí rượu không ? Thế thì có khổ hắn không ? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này ? A ha ! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo ! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo ? Có mà trời biết ! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết....

(Lược một đoạn : Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí Phèo “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, sau đó, chuyền tay cho người làng nuôi. Lớn lên, làm canh điền cho lí Kiến, Chí Phèo bị lí Kiến ghen, đẩy vào tù. Bảy, tám năm sau, Chí Phèo ra tù...).

Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết ! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!

Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy bộ điệu hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng rốt cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại nhăm nhăm cầm cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chắc rồi mặc thây cha nó, nó có chửi thì tại liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe ! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu !... Thật là ầm ĩ ! Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả : xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao ! Mới ngoa ngoắt làm sao ! Họ bảo nhau : “Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa ! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”. Cũng có người hiền lành hơn thì bảo : “Phúc đời nhà nó, chắc ông lí không có nhà...”. Ông lí đây là ông lí Cường, con giai cụ bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm như rác. Phải ông lí Cường thử có nhà xem nào ! Quả nhiên họ nói có sai đâu ! Đấy, có tiếng người sang sảng quát : “Mày muốn lôi thôi gì... cái thằng không cha không mẹ này ! Mày muốn lôi thôi gì ?...”. Đã bảo mà ! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lí Cường. Lí Cường đã về ! Lí Cường đã về ! Phải biết... A ha ! Một cái tát rất kêu. Ôi ! Cái gì thế này ? Tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch, thôi cứ gọi là tan xương ! Bỗng “choang” một cái, thôi phải rồi, hắn đập cái chai vào cột cổng... Ồ hắn kêu... Hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu !

– Ối làng nước ôi ! Cứu tôi với... Ối làng nước ôi ! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi ! Thằng lí Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi !... Và họ thấy Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá ! Mấy con chó xông xáo quanh hắn, sủa rất hăng. Lí Cường hơi tái mặt, đứng nhìn mà cười nhạt, cười khinh bỉ. Hừ ! Ngỡ là gì, chẳng hoá ra nằm vạ! Thì ra hắn định đến đây nằm vạ! Người ta tuôn đến xem. Mấy cái ngõ tối xung quanh đùn ra biết bao nhiêu là người. Thật ổn ào như chợ. Bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá vững dạ vì có anh lí cũng xưng xỉa ra chửi góp. Thật ra, các bà muốn xem Chí Phèo làm ăn ra sao ?

Không khéo nó cố ý gieo vạ cho cụ ông phen này....

Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất sang hỏi : “Cái gì mà đông thế này ?”.

Chỗ này “Lạy cụ”, chỗ kia “Lạy cự”, người ta kính cẩn đứng dãn ra, và Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích, rên khẽ như gần chết.

Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng :

– Các bà đi vào nhà ; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì!

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút :

– Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ ! Có gì mà xúm lại như thế này ?

Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có : người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì mà đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trở lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn khẽ lay mà gọi :

– Anh Chí ơi ! Sao anh lại làm ra thế ?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên :

– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm ; người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười:

– Cái anh này nói mới hay ! Ai làm gì anh mà anh phải chết ? Đời người chứ có phải con ngoé đâu ? Lại say rồi phải không ?

Rồi, đổi giọng cụ thân mật hỏi :

– Về bao giờ thế ? Sao không vào tôi chơi ? Đi vào nhà uống nước.

Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn :

– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn :

– Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính, không nghĩ trước nghĩ sau. Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy. Chí Phèo chả biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, quát :

– Lí Cường đâu ! Tội mày đáng chết. Không bảo người nhà đun nước, mau lên!

(Lược một đoạn : Chí Phèo trở thành tay sai của bá Kiến, càng ngày càng hung hãn, ngang ngược và triền miên say. Chiều nay, như mọi buổi chiều, Chí Phèo lại “vừa đi vừa chửi". Và cũng như mọi chiều, vẫn không một ai đáp lời hắn. Hắn rất tức tối, định ghé vào bất kì nhà nào đập bể một cái gì cho bỏ tức. Hắn rẽ vào nhà tự Lãng giữa lúc lão này đang uống rượu một mình dưới trăng. Chí Phèo sà xuống, cùng uống. Khi đã thoả thuê, hắn lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng – ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng. Đến nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chống, đắp chiếu cho hắn rồi ra về...)

Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.

Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu ? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá ! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!

- Vải hôm nay bán mấy ?

- Kém ba xu, dìa!

– Thế thì còn ăn thua gì !

– Có khéo co mới được một tấm năm xu.

– Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi...

Chí Phèo đoán chắc rằng một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán

vải ở Nam Định về. Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế được ? Hắn đã già rồi hay sao ? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng : cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống cho một người. Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không quên được. Cho nên thị nghĩ : mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau ! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thỉnh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng ? Hay là sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết ?

Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm ! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế ! Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành, ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà... Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí Phèo.

Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao ! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo ? Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời : Có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Hắn nhớ đến “bà ba”, cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa. Nó chỉ nghĩ đến sao cho thoả nó chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân ! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ. Quả thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa làm vừa run. Không làm thì không được ; mọi việc trong nhà, quyền bà ba. Chứ hắn, hắn còn lòng nào đâu ! Đến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng : “Mày thực thà quá ! Con trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo : “Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư ?...”. Và thấy hắn dùng dằng, bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả, vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù ?

Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình đẫm bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi, cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng ra nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu, thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người ? Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, hay trận ốm thay đổi hắn về sinh lí cũng thay đổi cả tâm lí nữa ? Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và doạ nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, doạ nạt nữa thì sao ? Đã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều được nữa. Bấy giờ mới nguy ! Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn. Hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị :

– Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?

Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị :

– Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.

Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí, khanh khách cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bây giờ thì mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui. [...]

Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng cũng nhận thấy thế và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày chẵn, thị ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo mà yêu nhau. Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. Nhưng thị lại là người dở hơi. Đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng : hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã.

Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà tưởng cháu bà nói đùa. Nhưng chợt nhớ ra rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng trở nên hoảng hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết. Nhưng rồi đổ cái uất ức ngay lên cháu bà ! Người đàn bà đức hạnh thấy cháu bà sao mà đĩ thế ! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Ngoài ba mươi tuổi... ai lại còn đi lấy chồng ! Ai đời lại còn đi lấy chồng ! Ừ ! Mà có lấy thì lấy ai chứ ?... Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ. Trời ơi ! Nhục nhã ơi là nhục nhã ! Hỡi ông cha nhà bà ! Bà gào lên như con mẹ dại. Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó :

– Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn ; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo ! Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị biết cãi bà làm sao ? Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi, năm mươi tuổi còn ai lấy chồng. Thị biết cãi làm sao ? Mà không cãi được thì giận dữ nổi lên đùng đùng.

Thị tức lắm ! Thị tức lắm ! Thị cần đổ cái tức ấy lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi("). Thị thấy hắn đương uống rượu, và vừa uống vừa lầm bầm chửi thị về nhà lâu. Hắn không quen đợi ; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu, và uống cho đỡ buồn. Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi ! Nhưng thị làm gì mà hắn chửi ? Mà hắn có quyền gì chửi thị ? Ồ, thị điên lên mất ! Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng2. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại còn cười ! Nó nhạo thị. Trời ơi ! Thị điên lên mất, trời ơi là trời ! Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô. Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì. Thị trút xong giận rồi. Cái mũi đỏ của thị dị xuống rồi lại bạnh ra. Thị hả hê lắm lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại. Ai mà thèm lại ! Còn muốn lôi thôi cái gì ? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay. Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân. Đã lăn ra thì hắn phải kêu : bao giờ chả thế. Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu. Nhưng hình như hắn chưa thật say. Vì hắn nghĩ : đập đầu ở đây chỉ thiệt ; đập đầu ở đây, để mà nằm ăn vạ ai ? Hắn tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm) già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu ra kêu làng.

Muốn đập đầu, phải uống thật say. Không có rượu, lấy gì làm máu cho nó chảy ! Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn ! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Rồi lại uống. Hắn uống đến say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. Hắn lảm nhảm :

“Tạo phải đâm chết nó ! Tao phải đâm chết nó !”. Nhưng hắn lại cứ thẳng đường mà đi. Cái gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở ? Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm. Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ doạ giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ bá. Hắn xông xông đi vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực mình ! Chính thật thì cụ đã đang bực mình. Bởi vì cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một bàn tay man mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà tư đừng đi lâu quá thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu ? Sao bà ấy còn trẻ quá ! Gần bốn mươi rồi mà trông còn phây phây, còn phây phây quá đi nữa ! Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi.

Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Giá thế thì bà ấy chỉ cũng già cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ. Khác gì nhai miếng thịt bò lụt sụt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà, có duyên, nhưng trông đã lắm ! Hơi một tí thì cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây hây. Mà thấy ghét những thằng trai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy bà đâu cũng đùa. Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng cười ! Chẳng nghĩ gì đến địa vị cả, người đâu mà vô tâm. Tức lạ ! Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù...

Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như Chí Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người :

- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho. Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn :

– Cầm lấy mà cút, đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à ? Hắn trợn mắt, chỉ vào mặt cụ :

– Tao không đến đây xin năm hào.

Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng :

– Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.

Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:

— Tạo đã bảo tạo không đòi tiền.

– Giỏi ! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì ?

Hắn dõng dạc :

– Tao muốn làm người lương thiện.

Bá Kiến cười ha hả:

− Ồ tưởng gì ! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.

Hắn lắc đầu :

– Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách... biết không !... Chỉ còn một cách là... cái này ! Biết không! Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.

Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi : “Trời có mắt đấy, anh em ạ !”. Người khác thì nói toạc : “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc ! Rõ thật bọn chúng giết nhau, nào có phải cần đến tay người khác đâu”. Mừng nhất là họ kì hào ở trong làng. Họ tuôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lí Cường bằng những con mắt thoả mãn và khiêu khích.

Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ trước mặt bao nhiêu người : “Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Ai chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ : “Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực ; họ chép miệng nói : “Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu”.

Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến :

– Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo.

Thị cười và nói lảng :

– Hôm qua làm biên bản, lí Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người lại thiệt của.

Nhưng thị nghĩ thầm :

– Sao có lúc nó hiền như đất.

Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng :

– Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào ? Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua...

---
Nam Cao
Thêm
729
0
2
Ý nghĩa nhan đề Chí Phèo

- Lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ: nhấn mạnh sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc đời, cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lò gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu kết của tác phẩm, điều đó có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí người đọc. Tuy nhiên nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của người nông dân.

- Sau đó Nhà xuất bản Đời Mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi: nhan đề này dựa vào mối tình Chí Phèo – thị Nở, gợi sự tò mò của độc giả. Tuy nhiên, nhan đề này cũng chưa khái quát được ý nghĩa của tác phẩm.

- Nhan đề Chí Phèo cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện. Tác giả sử dụng nhan đề này để làm rõ số phận, cuộc đời, bất hạnh, cô đơn, cô độc của nhân vật chính được nhắc đến. Đồng thời, nhan đề này cũng gây ám ảnh, ấn tượng mạnh đối với người đã, đang và sẽ đọc câu chuyện.

– Nhan đề Chí Phèo thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. ð Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Giá trị nội dung Chí Phèo

- Lời tố cáo đanh thép của Nam Cao về xã hội đương thời tàn bạo, thối nát đã đẩy người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.
- Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người ngay cả khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính.

Giá trị nghệ thuật Chí Phèo

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình bất hủ vừa có tính chung tiêu biểu vừa có những điểm riêng biệt không trộn lẫn.
- Nam Cao có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật khiến nhân vật của ông thật hơn con người thật.
- Nghệ thuật trần thuật hết sức linh hoạt phóng túng nhưng nhất quán và chặt chẽ.
- Ngôn ngữ giàu có đậm hơi thở cuộc sống.
- Giọng văn biến hóa đa dạng.
 
Viết trả lời...
Được xem là một kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo của Nam Cao cũng sở hữu một chi tiết có thể xem như “nhãn tự” cả tác phẩm, đó là bát cháo hành và hơi cháo hành. Với Thị Nở, bát cháo đó là tất thảy những ý thức, trách nhiệm, tình thương và chân thành mà Thị dành cho Chí. Thị cho đi, không phải là vì vụ lợi hay ép buộc, mà là xuất phát lòng thương chân chính: “Mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như vợ chồng”. “Còn gì đáng thương bằng ồm mà nằm còng queo một mình”. Có lẽ bấy giờ, Thị chỉ đơn giản muốn hắn có gì đó cho vào bụng, ăn cho đỡ đói, đỡ tủi, mà kh hay biết rằng, chính bát cháo ấy đã làm thay đổi tâm hồn hắn, chính tình yêu của ấy đã trở thành tia sáng lẻ loi duy nhất trong cuộc đời tăm tối của hắn.

Đón nhận bát cháo ấy, cùng với sự quan tâm, chăm sóc, hỏi han của Thị Nở, Chí bỗng thấy lòng mình bâng khuâng: “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại làm đổ máu và nước mắt bao nhiêu người, vậy mà giờ đây cũng biết khóc, cũng biết rưng rưng. Bởi lẽ, lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn được ng khác thật lòng cho một thứ gì, lạ kỳ hơn còn là một ng đàn bà. Lần đầu tiên, hắn được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà, không vụ lợi, không trơ tráo, cũng chẳng tính toán, mà chỉ đơn giản là cho đi vì Thị thương. Cũng lần đầu tiên, hắn có được một điều gì đó mà không phải đi trộm cướp hay rạch mặt ăn vạ, không phải dùng những cách trò dơ bẩn mà người ta sợ, người ta khinh. Bát cháo hành ấy vừa là liều thuốc giải cảm, vừa là liều thuốc giải độc thức tỉnh phần ng nhỏ bé còn sót lại trong Chí. Nó dường như là đại diện duy nhất cho tình người còn sót lại tại làng Vũ Đại đã khô héo những cảm xúc. Bất ngờ là tình người không xuất hiện ở ai khác mà lại xuất hiện ở một người đàn bà được coi là dở hơi và xấu xí “ma chê quỷ hờn”, một ng đàn bà cũng chứa đầy thảm hại, đáng thương.

Thế nhưng, bát cháo ấy còn là một hiện thực chua chát, xót xa của xã hội Việt Nam bấy giờ: Chỉ một tình yêu, hành động quan tâm nho nhỏ, chỉ một bát cháo rất đỗi bình dị và có phần “dở hơi”, mà phải đến hơn 40 năm cuộc đời, Chí Phèo mới có thể cảm nhận được. Khi “cơ thể đã hư hỏng nhiều”, khi đã sang bên kia dốc cuộc đời, hắn mới hiểu thế nào là mùi vị cháo hành, là mùi vị tình người. Napoleon từng nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”. Trong xã hội khô héo tình người của làng Vũ Đại, chúng ta không tìm lấy được một mầm mống nào của tình cảm, dường như tất cả mọi người đều vô cảm, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác. Là do họ đã quá khổ cực, hay là do xã hội đó vốn chỉ toàn sự vô tâm? Đưa bát cháo lên mồm, Chí Phèo cảm nhận được không chỉ là vị cháo, mà còn là vị của tình yêu: “Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm.” Nó mang hương vị của tình yêu mộc mạc, chân thành mà Thị đã mang tới sưởi ấm cho trái tim đang nguội lạnh của Chí. Bấy giờ, Chí mới nhận ra: “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon”, nhưng quan trọng hơn thế, Chí hiểu ra rằng người sống với nhau không chỉ bằng tội ác, bằng chém giết, mà còn bằng tình yêu thương.

Bát cháo hành
của Thị Nở khiến ta liên tưởng đến bữa cơm có đầy đủ rượu tịt cùng những lời chào mời ngon ngọt của Bá Kiến dành cho Chí Phèo. Nếu Bá Kiến thết đãi Chí Phèo với động cơ nham hiểm là thu phục và lợi dụng thì Thị Nở chăm chút Chí phèo bằng một tình cảm yêu thương hồn nhiên, vô tư. Nếu sau bữa ăn hậu hĩnh nhà Bá Kiến, Chí Phèo lại được thêm tiền và hả hê ra về còn sau bữa ăn có phần xoàng xĩnh của Thị Nở, Chí vừa có cảm giác cay đắng khi nghĩ lại đời mình lại vừa có nỗi khát thèm hạnh phúc đời thường. Và điều quan trọng nhất, nếu bữa ăn nhà Bá Kiến là thứ “độc dược” nhằm hoàn tất công việc của nhà tù thực dân, đầu độc nhân tính của Chí Phèo thì bát cháo hành của Thị Nở lại là thứ “linh dược” làm hồi sinh nhân tính trong Chí. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí bắt đầu những chuỗi ngày đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn vạ, “triền miên trong những cơn say”. Sau khi ăn cháo hành, cái sức mạnh quỷ dữ bị gạt bỏ, bị tiêu trừ dần, khiến Chí cảm thấy yếu đuối, sợ ốm đau, tuổi già và sự cô độc, nhất là sự cô độc, “cái này còn đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”. Rồi Chí “muốn làm nũng với Thị như với mẹ”, một so sánh thật xót xa vì hắn đã bao giờ có mẹ? Nhưng bấy giờ, có lẽ tâm hồn Chí Phèo đã được lương thiện hóa, trẻ thơ hóa, để hắn phải thốt lên đầy khao khát rằng: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”.
Tưởng chừng như Chí sẽ có một cái kết trọn vẹn hơn, nhưng ngòi bút của Nam Cao lại ấm áp một cách lạnh lùng, ông muốn ném ra giữa cuộc đời một kiếp ng bị tha hóa, lưu manh hóa, rồi bị cự tuyệt quyền làm người.

Bát cháo hành mở ra một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí, nhưng chính nó cũng đẩy câu chuyện lên tới mức đỉnh điểm. Bát cháo ấy bắt đầu một tình yêu, để rồi cũng là khởi đầu của một tình yêu vụn vỡ. Khi bị Thị Nở từ chối, vùng vằng quay về, lòng hắn như bị cắt xẻ ra từng khúc, trái tim ứa máu như bị bóp nghẹt. Còn gì đau đớn hơn với một kẻ đã chìm trong bóng tối lâu ngày, với được tia sáng lẻ loi, nhưng rồi lại choáng vụt tắt, để rồi càng thêm hụt hẫng, càng thêm đau?

Nguồn st
Thêm
592
0
0
Viết trả lời...
Chuyến tàu chở tài năng Nam Cao đã dừng lại quá sớm, thế nhưng những ưu phẩm nghệ thuật mà ông để lại cho đời thì trường tồn bất tử trong dòng vận động biến đổi không ngừng của thế giới văn học nghệ thuật đương đại. Khám phá ra bị kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, nhà văn Nam Cao đã “soi gương thấy mặt đời” (thấy qui luật hiện thực tàn khốc của xã hội đương thời) và “soi tâm thấy cội người” (nhận ra cõi tinh thần cao đẹp của những linh hồn tưởng như đã chết). Cùng đến với bài viết Nhân vật Chí Phèo với nỗi đau Ai cho tao lương thiện để hiểu hơn về Chí phèo và tài năng đỉnh cao của Nam Cao trong xây dựng nhân vật.
Với Nam Cao, mỗi cái tên nhân vật là một biểu tượng cho tính cách: Hảo (Dì Hảo), Lão Hạc (Lão Hạc), Lang Rận (Lang Rận), Giáo Thứ (Lão Hạc) Từ (Đời Thừa), Điền (Trăng Sáng)… Chí Phèo cái tên làm ta liên tưởng đến hình ảnh một kẻ trời đánh thất học vô đạo nào đó. Ấy chính là một tên lưu manh cô độc, đơn khó trong cái làng quê rệp mạt, đói khổ Hà Nam. Nhưng dưới ngòi bút độc đáo của nhà văn thì ẩn nhẩn sau cái nhân cách nhàu nát đó là một “cõi tinh thần” thiện lương. Như hòn than hồng ủ dưới tàn tro, để đến lúc gặp ngọn gió “nhân tình” (tình người) thì lập tức vụt sáng sưởi ấm cho những kiếp người “phận mỏng cánh chuồn” sau lũy tre làng.

Nhân vật Chí Phèo với nỗi đau Ai cho tao lương thiện.jpg

(Nhân vật Chí Phèo với nỗi đau Ai cho tao lương thiện)

Gấp trang sách lại ta lạnh người vì ám ảnh đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là một câu hỏi lớn không lời đáp, mà “hắn” hỏi tận nơi linh thiêng màu nhiệm nhất của tạo hóa - Trời. Huy Cận từng viết:

“Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp.
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.”

(Các vị La Hán chùa Tây Phương)


Thật ai oán và tuyệt vọng, một nỗi đau đến khoét thịt đúc xương của nhân vật. Nhưng cái chết của Chí Phèo trong tác phẩm không phải là cái chết của một kẻ cố cùng liều thân, mất hẳn nhân tính mà là sự ra đi đầy tự trọng và cả sĩ khí của một con người ý thức sâu sắc về nhân phẩm.

Chỉ có những ai trải qua nỗi đau khổ tuột cùng mới có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc tuột cùng và Chí Phèo đã được nếm trải hai cảm giác tận cùng đó. Bóng tối đời Chí không phải huyền hoặc, leo lét như của chị em Liên (Hai đứa trẻ- Thạch Lam), hay màn đêm đen khét như mực, mông lung vô lối của Chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố). Bóng tối mà Chí Phèo đang nếm trải như đêm đen địa ngục với tiếng chửi rủa hòa cùng tiếng chó cắn lao xao, như tiếng rít lên của một con vật bé nhỏ đang bị giết thịt. Sự gào thét của một cái xác sống đã bị mù điếc tâm hồn khiến người đọc đau se thắt và cảm nhận được sự “can tràng tấc đoạn” mà nhân vật đang phải gánh chịu.

Từ một anh canh điền lành như đất, giàu lòng tự trọng, biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn, Chí phèo đã bị đẩy vào tù chỉ vì cớ ghen tuông vu vơ. Mĩa mai thay, nhà tù mang danh công cụ cải tạo con người của Chủ nghĩa Thực dân nhưng đã “nhai nát” một tâm hồn trong sáng nhân hậu và “nhả” ra một nhân cách quỷ dữ. Từ khi ra tù, Chí Phèo đã trở thành một con nhân sư lãnh đạm, bị xa lánh, căm phẫn và chối bỏ khỏi xã hội loài người. Giai cấp thống trị - những kẻ ăn thịt người ngọt xớt như đường, với phương châm róc đời của mình, Bá Kiến đã dụ dỗ Chí phèo thành kẻ đâm thuê chém mướn đi ngược lại lợi ích của những lương dân.

Tiếng chửi, tiếng nguyền rủa rồ dại hay chăng tiếng ai rao nghĩa lý giữa đất trời? “Hắn” đang chửi trong sự hằn hoặc ghê tởm, “hắn” được đáp trả bằng sự dửng dưng khinh miệt và chỉ còn lại “hắn” cùng tiếng của kẻ khác loài. Sống với chó đôi khi cũng phải gào lên như chó, sống giữa cái xảo trá vô luân, cái độc ác bất nhân đó, hỏi sao không có những tiếng tru lên trong oằn oại đau đớn, tiếng người điên rao giữa chợ đời trong lưới bẩy của màn đêm mịt mùng tăm tối. Trong tiếng chửi có hàm chứa những hạt nhân của tính chất lưu manh nhưng cũng chứa đựng sự hô hét đòi sống, những kéo rút tuyệt vọng cuồng ngây trong tâm tưởng bật ra thành tiếng gào thét có hình sắc. Đói những kết nối, khát được kết nối nhưng giống loài đã quyết tuyệt quay lưng với Chí, đẩy chí vào lối tuyệt vọng vong thân.

May thay, giữa bóng đêm của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở. Tạo hóa đã lắp hai mảnh đời khốn cùng vào nhau:

“Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên.
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn suông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.”


(Trăng nở nụ cười- Lê Đình Cánh)

Thị Nở đã tạo nên bước ngoặt cho cuộc đời của Chí Phèo. Khác với người dân trong làng Vũ Đại, Thị vẫn ngày ngày theo lối mòn ra sông kín nước nơi có “tấc đất” mà Chí Phèo “cắm dùi”, rồi còn lui tới “hang cọp” mà xin rọi lửa và rượu bóp chân. Thị không hiểu và cũng không cần hiểu vì sao người dân trong làng kinh hãi Chí. Cho nên Thị nhiều lần ngủ lại vườn chuối cạnh bờ sông, dưới ánh trăng tưới rười rượi nơi mà bước chân vật vờ đường khuya trong cơn ma men của Chí đi về. Và chuyện gì đến cũng đã đến…

Người đàn bà dưới bàn tay nhào nặn của Nam Cao xấu “ma chê quỷ hờn”. Nhưng sau “cái đẹp” mĩa mai của góa công đó là một tâm hồn có sinh khí. Thị vẫn có điều nhân dục như lẽ những người thường, vừa cưỡng lại, vừa dâng hiến. Thị vẫn ngượng đỏ và thinh thích khi nói đến hai tiếng “vợ chồng”; vẫn biết lườm, nguýt, e lệ và âu yếm một cách rất “bình dân” nhưng vẫn không kém phần tình tứ. Đó là cái “nữ tính” mà tạo hóa đã thổi vào trong thân xác ngô nghê, thô vụng. Phía Chí Phèo, anh cũng chả cần ý thức đến cái xấu xúc phạm mắt nhìn của Thị Nở và sự ngây đần của dòng mã hủi. Chí chỉ thấy một điều rằng “Thị thế mà có duyên”. Ngòi bút đầy nhân bản của nhà văn đã sắp đặt một cuộc “ngẫu nhiên tương phùng” với chiều sâu ý nghĩa và giá trị nhân văn.

Phút “hứng tình” ấy đã biến một kẻ mất hết nhân tính, chỉ quen đập phá, cắn xé điên cuồng thành tiếng khóc rít lên kêu đòi để trở về cuộc sống nhẹ nhàng như bao người bình thường? Đó là lần đầu tiên Chí Phèo biết đến người phụ nữ bằng tất cả cảm giác nguyên sơ của mình. Nhân vật AQ (AQ chính truyện của Lỗ Tấn) chỉ mới chạm vào tay Vú Ngò mà đã ngây ngất cái cảm giác về da thịt quấn thít của đàn bà thì mới hiểu rằng khoái hoạt giao hoan với Thị Nở sẽ là "cơn động địa” cực mạnh làm biến đổi toàn bộ đời sống sinh, tâm lý của Chí Phèo. Diễn biến nội tâm của Chí Phèo sáng hôm sau khi gặp Thị Nở là hệ quả của trận “kinh thiên động địa” đó. Quá trình tâm lý diễn ra một cách logic theo kiểu phản ứng dây chuyền. Ở đó, lần đầu tiên sau bao năm say sưa triền miên, các giác quan của Chí Phèo dần tỉnh lại để đánh thức những cảm xúc đã từng bị khỏa lấp phôi phai. Nam Cao đã miêu tả rất tỉ mỉ những diễn biến phong phú và tinh vi này, và điều đó cho thấy sự tế vi trong phong cách trần thuật của ông.

Tuy nhiên, để dẫn đến sự khát khao lương thiện ở Chí Phèo, cần nhiều chất xúc tác hơn nữa đó chính là bát cháo hàng thơm thảo. Ban đầu, Chí rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên trong đời mình nhận được sự chia sẻ từ giống loài. Sau phút ngỡ ngàng là sự xúc động chân thành, nhờ đó Chí Phèo mới cảm nhận được cái ngon đặc biệt của món cháo hành. Bát cháo hành cũng buộc Chí Phèo phải đối mặt với quá khứ của chính mình bằng những vụ trộm cướp thường xuyên để có cái ăn - một kiểu ăn không khác gì súc vật. Rồi bất ngờ Chí so sánh cử chỉ ân tình và tâm hồn thuần khiết của Thị Nở với bản chất “dâm nhơ đắm nhiễm” của bà ba nhà Bá Kiến. Tất cả những điều đó đã khiến tâm trạng Chí Phèo xao động dữ dội. Những gốc rễ tốt đẹp từng bị bao bọc bởi cặn bã nay trỗi dậy “trinh nguyên”: "Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi, sao mà hắn hiền... Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!" Có phải người canh điền của tuổi đôi mươi lại hiện diện trong bộ dạng vốn đã thay đổi một cách đáng sợ chăng? Anh ta đang lên tiếng nhiệt thành yêu cầu được sống một cuộc sống đúng chất người. Đây là kết quả của sự chuyển biến tâm trạng Chí Phèo hết sức tinh vi, phức tạp nhưng cũng rất hợp lý. Miêu tả quá trình này, ngòi bút của Nam Cao đạt đến độ “vuông thành sắc cạnh”.

Một đêm trăng vườn chuối, một bát cháo hành đã đủ làm cho “anh” bừng tỉnh trong lương tri. Thị Nở, một người đàn bà với sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa đã mang đến “thang thuốc cháo hành” chữa khỏi cho Chí căn bệnh trầm kha tâm hồn đã di căn. Tình cảm đã chữa lành vết thương lòng và giúp Chí phèo vượt qua đau khổ một cách dễ dàng. Tâm hồn cằn cỗi, tăm tối đó đã được tưới tắm, tẩy gội và xua đi những mây mù ngu tối. Từ đó Chí định vị được thời gian, hồi quang về quá khứ đã từng mơ ước về tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía. Nhận ra hiện hữu trong tương lai gần về đói khát, bệnh tật và cô độc, nghe được những âm thanh quen thuộc của tự nhiên, xã hội và tiếng đổi chác mưu sinh đầu sông cuối bãi: “tiếng hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá tiếng của mấy bà đi chợ về”. Và hơn tất cả, giọt nước mắt làm người đã rơi xuống, hòa vào bốn bể nước mắt của kiếp nhân sinh, “hắn thèm lương thiện và muốn làm lành với mọi người”. Trong sinh quyển hiện thực bùng nhùng đen tối đó vẫn rạng lên cầu vồng bảy sắc của tình yêu cao thượng, nhân bản và không kém phần trong đẹp. Trong nhánh kênh đen của cuộc đời bỉ cực đó vẫn rạo rực một dòng trong xanh lưu động dưới chiều sâu tâm hồn.

Nhưng:

“Một mình nàng Thị Nở
đủ đền anh đó chăng
ngoái nhìn lò gạch cũ
thương biết sao cho vừa”.


Nguyên Hồng đã từng nói rằng, nếu định kiến xã hội nó là một hòn đá ông sẽ gồng mình mà đẩy nó ra khỏi đường, là thủy tinh ông sẽ đập vỡ, nhai nát, nuốt tất, thế nhưng định kiến vô hình. Như một đàn mối ăn lẹm vào gỗ, hay một cây tầm gửi bám rễ sâu hủy hoại bức tường, định kiến xã hội đã không cho Chí phèo một sự khoan hồng nào hết.

Tại sao khát vọng cứu chuộc cao đẹp của Chí Phèo lại bị từ chối?
Những thay đổi ở Chí Phèo dù kỳ lạ đến đâu cũng chỉ dừng lại ở khát vọng thầm lặng trong đáy thẳm nội tâm. Người làng Vũ Đại ngoại trừ chứng kiến một sự việc lạ lùng: Thị Nở đã sống với Chí Phèo một tuần trăng mật (vốn sẽ là đề tài hấp dẫn cho những câu chuyện phiếm kiểu quê mùa), họ vẫn chưa hề nhận được một dấu hiệu khả quan nào thông tin về sự thay đổi thái độ của Chí Phèo. Đường biên ngăn trở Chí Phèo đó là: hắn đã gieo rắc quá nhiều đau thương, bất hạnh cho cuộc đời vốn đã tuyệt lộ của những con người lương thiện yếu đuối. Bản năng tự vệ buộc họ phải tránh xa Chí Phèo. Vì vậy, để được chấp nhận trở lại trong xã hội thân thiện và phẳng lặng này, Chí Phèo phải trải qua những thử thách hòa nhập và trải qua những “sát hạch” của thời gian. Còn Chí Phèo không ý thức và không đủ kiên nhẫn để thực hiện. Đó là chưa kể đến sự chống trả từ những kẻ thường lợi dụng chất thú dữ hiện tại của Chí Phèo, hòng khống chế Chí trong trạng thái điên loạn. Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy việc Chí Phèo trở về với cuộc đời lương thiện là một ước mơ đẹp nhưng “kém khả dụng”. Sự thật hiển nhiên đó Nam Cao hiểu, và với nhận thức của một nhà văn hiện thực triệt để, ông không thể nói “trái lẻ tạo hóa”.

Thị Nở đã khước từ tình cảm của Chí Phèo vì lời lăng mạ của bà cô: “sao mà đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo nhận thức được rằng bát nước đã đổ đi rồi không thể hốt lại tất. Tình yêu kết thúc thì hận thù ập đến đó qui luật đời sống. Chí đã tìm lại với rượu, nhưng rượu không còn làm hắn quên đời, rượu thức tỉnh Chí, giúp Chí nhận ra bao cơ sự của cuộc đời mình: “nhìn phía trước không người thân thích, ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Chí vác dao ra đi, trong đầu hắn định vị rõ hai kẻ thù của cuộc đời: kẻ thù tình ái và kẻ thù giai cấp. Trong giây phút sáng suốt nhất của một người nông dân thức tỉnh Chí Phèo đã vung dao lên đâm Bá Kiến và tự cướp đi mạng sống của mình. Sự thể hiện của Chí phèo hôm nay không phải của một kẻ lưu manh mà là hành động lấy máu rửa hờn của một người nông dân lương thiện bị đày ải trong ngục sâu tăm tối nơi trần gian đã xé rào thoát sáng và phân diện rạch ròi bộ mặt kẻ thù. Như cục than hồng ủ dưới lớp tro nguội, chất người trong Chí Phèo đã bừng sáng thiêu rụi cả lũy tre làng rửa sạch mối thù giai cấp từ ngàn đời.

Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.

Cuối tác phẩm Thị Nở nhìn trộm Bà cô, mọi người xung quanh, nhìn “chồng mình”, giãy đành đạch giữa bao nhiêu máu tươi và nhìn xuống bụng thấy “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi, lại thấy trong ta hiện bóng con người” (Một cõi đi về- Trịnh Công Sơn). Trong đầu Thị thấp thoáng bóng hình chiếc lò gạch bỏ không… Từ chi tiết đó, Nam Cao đã khám phá và khẳng định một quy luật hiện thực mới mẻ, độc đáo: Lúc nào còn những kẻ thống trị độc ác, man rợ như Bá Kiến thì còn những người nông dân tha hóa và ngỗ ngược như Chí phèo được sinh ra để “nối nghiệp”, đó cũng là bi kịch điển hình của người nông dân trong chế độ cũ. Và cuộc sống theo chu kì “đạp xe”, nối tiếp nhau cuộc giằng co thiện ác nhưng cuối cùng “bể dâu chớp mắt ngoảnh đầu thành mơ”. Nam Cao đã đặt một dấu chấm kết thật tròn cho bi kịch một con người và cũng là số phận của hàng vạn con người trong buổi Thực dân Phong kiến, khi tình trạng người nông thôn bị “riết cổ bóp hầu”. Chí Phèo đã sống đời hôn ám đã thực hiện một cuộc chiến âm thầm tàn khốc và róng riết thét lên câu triết ngôn vĩ đại: “Ai cho tao lương thiện”. Từ đó đã mở ra cuộc khai chiến bất tử của cả dân tộc này, vùng lên trong đói nghèo rơm rác để rũ bụi sáng lòa…

Sáng tạo ra nhân vật Chí Phèo với gương mặt không tuổi chằng chịt đầy vết và một tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt. Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, cái nhìn vào cõi tinh thần và chiều sâu bi kịch. Và cũng chính những trang viết thấm đẫm nước mắt về người nông dân thức tỉnh đó, Nam Cao đã tự cắm cho mình cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của dòng văn học hiện thực phê phán và văn xuôi hiện đại Việt Nam thế kỉ XX.

Trần Quốc Tuấn

(GV Trường THPT Vĩnh Viễn)
Thêm
  • Like
Reactions: Xugianhan
784
1
0
Viết trả lời...
Bài viết Đặc sắc nghệ thuật trong Chí Phèo sẽ phân tích kĩ những đặc sắc nghệ thuật khó lặp lại giúp làm nên thành công của truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao. Tại sao đây lại là tác phẩm sống mãi với thời gian, những đặc sắc đó là gì? Hãy cùng xem bài viết

Đặc sắc nghệ thuật trong Chí Phèo.png

Đặc sắc nghệ thuật trong Chí Phèo​

“Chí phèo” là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực phê phán. Thành công của truyện ngắn Chí Phèo không chỉ ở hình tượng nhân vật Chí Phèo mà còn ở bút pháp viết truyện ngắn có một không hai của nhà văn Nam Cao.​

1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.​

Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật.

Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi thức tỉnh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương thiện, đánh thức khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí

Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ. Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh.

Khi xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết, đặc tả diện mạo bên ngoài, hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân Nam Cao thường tạo nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của những nhân vật này. Đó là bộ mặt “nặng chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngủn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận. Đó là bộ mặt “vằn dọc vằn ngang không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo” của Chí Phèo hay bộ mặt xấu đến mức ma chê qỷ hờn của Thị Nở.

Đặc tả những bộ mặt dị dạng, ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của nhân vật. Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện ra đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương thiện.

Thị Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị lại dở hơi nên cả làng Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”. Một người phụ nữ như thế mà Chí Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dung bút pháp cường điệu để tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn. Khi xây dựng nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật mà ông tập trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những cuộc vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở thành đối tượng chính của ngòi bút Nam Cao.

Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ, giữa con người với con vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống dậy bản chất lương thiện trong con người Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên. Chí Phèo còn là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.

Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ trong “Chí Phèo” vốn là những con người lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy.

2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.​

Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện như vậy gây ấn tượng và tạo sự cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của nhân vật.

Nam Cao cũng hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu mà phần mở đầu và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm bằng hình thức này hay hình thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu này đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng.

Đọc “Chí Phèo” ta cứ mãi bị ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa như dự báo về sự xuất hiện của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu này Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều số phận như Chí Phèo.

Ở truyện “Đời thừa” kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò bản thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối xử với vợ con như một kẻ vũ phu, nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận, tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …sau đó lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần luẩn quẩn, không lối thoát của nhân vật Hộ.

3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống.​

Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.

4. Khắc họa chi tiết nghệ thuật độc đáo.​

Tiếng chửi của Chí Phèo là một “đặc sản” trong truyện. Cứ rượu vào là hắn chửi. Hắn chửi tất cả từ trời đời cả làng Vũ Đại “cha đứa nào không chửi nhau với hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”. Đối tượng chửi đã được xác định: xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng thu hẹp dần chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc. Hắn lồng lồng chửi chỉ mong có ai đó chửi lại hắn, thế nhưng cái mà Chí nhận được là : “trời có của riêng nhà nào” “đời là tất cả nhưng chẳng là ai” “không ai lên tiếng cả” “không ai ra điều” “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.

Chi tiết bát cháo hành của Thị Nở giống như một phép màu làm thức tỉnh con người. Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. Bát cháo hành trong cảm nhận của Chí: “Nồi cháo còn nóng nguyên… vừa mang sang Thị đã đi tìm gạo, hành thì may nhà lại còn”. Bát cháo hành khiến Chí rất “ngạc nhiên” và thấy “mắt như ươn ướt” bởi vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà. Bát cháo hành khiến Chí bâng khuâng nghĩa ngợi. Hắn cảm nhận: “Cháo mới thơm làm sao”. Bát cháo là sự quan tâm của Thị dành cho hắn. Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn nhận ra cháo hành rất thơm ngon. Bất cháo hành giản dị trong cảm nhận của Chí là thứ rất ngon, đó là chi tiết khiến hắn lần đầu tiên và cũng là duy nhất cảm thấy được quan tâm, nó đánh thức nhân tính bấy lâu nay bị vùi lấp trong Chí. Bát cháo hành là sự thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo. Đó là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Đó còn là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí: gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. Hình ảnh bát cháo hành có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật, góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.

– Xây dựng kết cấu vòng trò đầu cuối tương ứng rất đặc sắc. Sau khi Chí Phèo chết, ở phần kết thúc tác phẩm, Thị Nở lại xuất hiện. Thị “nhớ lại lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn nhanh xuống bụng”, “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua…”. Cử chỉ và ý nghĩ của thị khiến người ta nghĩ tới: sẽ lại có một Chí Phèo con ra đời (…). Hình ảnh “cái lò gạch cũ” xuất hiện trong ý nghĩ của Thị ở đây nằm trong ý đồ nghệ thuật của nhà văn: Một kiểu kết cấu tác phẩm đầu cuối tương ứng – kết cấu vòng tròn. Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ cường hoà một lần nữa được nhấn mạnh tô đậm. Bá Kiến chết thì có lí Cường, Chí Phèo chết thì có một Chí Phèo con sẽ xuất hiện. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ cường hào khi âm ỉ, khi bùng lên dữ dội, song không thể giải quyết. Vấn đề những con người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh cùng quẫn quay lại chống trả với xã hội bằng chính sự lưu manh của mình là vấn đề thuộc về bản chất, là quy luật tất yếu khi xã hội thực dân phong kiến còn tồn tại. Hình ảnh “cái lò gạch cũ” nằm trong ý đồ nghệ thuật và là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nam Cao.Với hình ảnh này, chủ đề của thiên truyện được khơi thêm những chiều sâu mới.

* Nhận xét: Với tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy, “Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.
Thêm
  • Like
Reactions: QuangNhat
1K
1
1
Bài văn hay, phân tích có chiều sâu, lôi cuốn người đọc... nhưng kết thúc bằng lời nhận xét ngắn gọn quá, không đủ để cô đọng ý chính mà người viết muốn trình bày.
 
Viết trả lời...
Bài Soạn bài Chí Phèo của Nam Cao bằng cách trả lời các câu hỏi trong SGK Ngữ văn 11 trang 145 sẽ giúp các bạn tìm hiểu trước bài học để hiểu bài trên lớp tốt nhất.
Phần 1: Tìm hiểu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo

Soạn bài Chí Phèo của Nam Cao.png

Soạn bài Chí Phèo của Nam Cao​

Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo - Nam Cao​

Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù. Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng của một tên lưu manh. Hắn chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng thành công cụ cho hắn.

Câu 1 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Tác giả vào truyện độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc từ tiếng chửi của Chí Phèo
+ Chí Phèo vừa đi vừa chửi, nhưng điều lạ lùng là không có người chửi và người nghe hắn chửi
+ Lời chửi của Chí nghe ghê gớm: chửi đời, chửi trời, đất, chửi làng Vũ Đại
- Tiếng chửi là phản ứng của Chí với toàn bộ cuộc đời
+ Bộc lộ nội tâm của người bất mãn ý thức được con người ít nhiều ý thức được mình bị gạt ra khỏi xã hội loài người
+ Tiếng chửi thảm hại khi mà “đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó cắn xôn xao trong xóm”
⇒ Tình cảnh xót xa của người nông dân bị tha hóa, đơn độc

Câu 2 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Cuộc đời Chí có bước ngoặt khi gặp Thị Nở:​

+ Ban đầu Chí gặp Thị và bị hấp dẫn đơn giản vì Chí là thằng say “ngứa ngáy” thịt da, hai người ân ái với nhau. Sau đó, Chí đau bụng rồi Thị dìu Chí vào nhà tìm manh chiếu rách đắp cho Chí
+ Chí tỉnh dậy sáng hôm sau và cảm thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” khi nghe thấy âm thanh quen thuộc của sự sống

- Ý nghĩa trong cuộc gặp Chí Phèo Thị Nở:

+ Đó là những giây phút Chí được trở lại “làm người”, mong được sống hạnh phúc
+ Sự săn sóc, quan tâm của người đàn bà xấu xí, khốn khổ khơi dậy bản chất lương thiện vốn bị chèn ép từ lâu trong con người Chí
+ Tác giả thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình đối với hình tượng người nông dân bị tha hóa khi sáng tạo ra chi tiết gặp gỡ của Chí Phèo với Thị Nở
+ Giúp Chí tỉnh táo nhìn lại cuộc đời trong quá khứ, hiện tại, tương lai, ước mơ có gia đình nhỏ, với cuộc sống giản dị
+ Chí ý thức được sự cô độc, bất hạnh của đời mình, và khát khao được sống cuộc đời của con người

Câu 3 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Chí mong Thị trở thành chiếc cầu nối cho Chí hòa nhập với mọi người, chấm dứt đoạn đời thú vật để sống đúng với kiếp người.
- Thị Nở từ chối Chí phèo do lời nói của bà cô thị, kiên quyết ngăn cản mối tình này:
+ Thị trút tất cả những lời cay độc lên Chí Phèo đang khát khao lương thiện, chờ được làm hòa với mọi người
- Tâm trạng của Chí diễn biến phức tạp: thức tỉnh- hy vọng- thất vọng, đau xót- phẫn uất- tuyệt vọng
+ Chí rơi vào tuyệt vọng khi thấm thía bi kịch tinh thần sinh ra là người nhưng không được làm người.
+ Chí càng uống rượu càng tỉnh, Chí khóc rưng rức và ý thức được tội ác của kẻ cướp đi của mình cả bộ mặt và hồn người. Tiếng khóc của Chí là khóc thương cho thân phận.
+ Khi lòng sôi sục Chí đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình
⇒ Chí tuyệt vọng trước bi kịch bị cự tuyệt ước muốn làm người, nên đã kết liễu bản thân và kẻ thù. Cái chết của Chí có tác dụng tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy người nông dân lương thiện vào đường cùng, lưu manh hóa họ, đẩy họ vào chỗ chết.

Câu 4 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Nghệ thuật điển hình hóa nhân vật của Nam Cao:
+ Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật trong xã hội đương thời của tình trạng bị đè nén, áp bức trước CM tháng Tám
+ Người lao động bị lưu manh hóa, từ những nhân vật hiền lành trở nên mất nhân tính
+ Tâm lý nhân vật được miêu tả sắc sảo, tinh tế, đi sâu vào bộc lộ nội tâm diễn tả những chuyển biến phức tạp trong cuộc sống
+ Xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo bị tha hóa, bị xã hội ruồng bỏ, tác giả muốn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tấm lòng yêu thương, trân trọng con người khốn khổ
+ Chí Phèo là nhân vật hiện lên sắc nét, vừa có ý nghĩa tiêu biểu, vừa hết sức sinh động, có trạng thái tâm lí phức tạp.

Câu 5 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Ngôn ngữ trong tác phẩm sống động, điêu luyện, nghệ thuật, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày
+ Giọng điệu của nhà văn biến hóa, đan xen lẫn nhau
+ Nhà văn có khả năng hòa nhập nhiều vai, chuyển đổi điểm nhìn của tác giả, trần thuật
+ Sự am hiểu về ngôn ngữ sống một cách chung chung, nắm vững dạng thức sống của từng loại ngôn ngữ
+ Tác giả sử dụng ngôn ngữ có cả khẩu khí, cú pháp lẫn “phong cách học” cả lối tu từ học của nó nữa.

Câu 6 (trang 145 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

  • Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong truyện ngắn này mới mẻ, sâu sắc:
- Phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay khi họ bị xã hội tàn ác cướp mất bộ mặt, linh hồn người
- Ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, bản chất thiện lương của con người
  • Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao có những nét mới và sâu sắc riêng.

Luyện tập​

Bài 1 (Trang 156 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

“Văn chương không cần đến người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho… những gì chưa từng có”
- Ý kiến trên khẳng định yêu cầu quan trọng của tác phẩm nghệ thuật và nghệ sĩ đó là sáng tạo, khơi nguồn những cái mới
- Tác giả phản ánh đúng bản chất của nghệ thuật, được nhiều người thừa nhận, diễn đạt theo những cách khác nhau.
- Tác giả sử dụng biện pháp so sánh để diễn tả nhiệm vụ, bản chất cơ bản của văn chương. Soi tỏ vào sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
- Những tác phẩm của ông là minh chứng rõ rệt nhất cho triết lý đó.
+ Tác phẩm viết về người nông dân ông đi theo lối riêng, khám phá sự tha hóa của những con người bị dồn tới đường cùng trở thành lưu manh
+ Con đường sáng tác của Nam Cao là con đường của người không bao giờ muốn lặp lại mình

Bài 2 (trang 156 sgk ngữ văn 11 tập 1)​

Tác phẩm Chí Phèo được coi là kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại:
- Hệ giá trị tư tưởng sâu sắc, độc đáo, mới mẻ
- Nam Cao là bậc thầy về ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, lối kết cấu, xây dựng cốt truyện
- Giá trị nhân đạo còn tồn tại mãi về sau, làm nên tên tuổi của nhà văn có trái tim nhân hậu, Nam Cao.
Thêm
1K
0
1

Soạn bài Chí Phèo - bài tham khảo 2​

Bố cục Chí Phèo gồm 3 phần​

- Phần 1 (từ đầu đến cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
- Phần 2 (tiếp đến không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.
- Phần 3 (còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

Nội dung chính

Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép của Nam Cao về xã hội đương thời tàn bạo, thối nát đã đẩy người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người ngay cả khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính.

Câu 1 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

  • Cách mở đầu truyện độc đáo, ấn tượng với hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi trong đơn độc.
  • Ý nghĩa của tiếng chửi:
    • Cách phản ứng của Chí Phèo với toàn bộ cuộc đời, tâm trạng bất mãn vì bị xã hội phi nhân tính gạt ra khỏi thế giới loài người.
    • Sự cô đơn cùng cực, nỗi oán hận với những thế lực đã đẩy Chí vào con đường cùng, con đường tha hóa, lưu manh hóa.

Câu 2 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

Việc gặp gỡ thị Nở có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Chí Phèo:

  • Thị Nở: xấu xí, dở hơi, gia đình có mả hủi nên cả làng xa lánh, chê cười.
  • Thị Nở là người đầu tiên và duy nhất đem lại cho Chí Phèo sự quan tâm và tình thương yêu chân thành.
  • Nhờ bát cháo ấm áp tình thương của thị Nở, Chí Phèo từ tỉnh rượu đã tỉnh ngộ, từ con quỷ làng Vũ Đại trở lại làm người:
    • Sáng hôm sau Chí Phèo tỉnh rượu: cảm nhận được cuộc sống xung quanh.
    • Được thị Nở mang cho bát cháo hành: Chí Phèo ngạc nhiên, mắt ươn ướt rồi ăn ngon lành và thèm lương thiện, muốn xây dựng gia đình với thị Nở, muốn làm hòa với làng Vũ Đại.
=> Thị Nở vừa là ân nhân cảm hóa Chí Phèo, vừa gọi bản tính người trong Chí trở lại.

Câu 3 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

* Tâm trạng của Chí:
  • Từ chỗ tưởng thị đùa, sửng sốt khi biết là thật.
  • Ngửi thấy hơi cháo hành - chạy theo níu kéo - muốn ăn vạ.
  • Càng uống rượu càng tỉnh - hắn khóc như trẻ con.
  • Xách dao đi trả thù.
* Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát là hành động dữ dội, quyết liệt và đầy bất ngờ.

Câu 4 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

Nghệ thuật điển hình hóa của Nam Cao:
  • Chí Phèo vừa là một người nông dân cụ thể, có cuộc đời riêng và số phận riêng nhưng lại vừa điển hình cho bộ phận những người nông dân bị đẩy vào đường cùng.
  • Bá Kiến vừa có những đặc điểm riêng trong tính cách, cuộc đời nhưng vừa điển hình cho giai cấp thống trị, bóc lột và đẩy người nông dân khốn khổ vào con đường cùng.

Câu 5 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc:
  • Nhà văn có khả năng nhập vào các vai.
  • Chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên, linh hoạt, gây hấp dẫn cho người đọc.
  • Điểm nhìn trần thuật thay đổi linh hoạt.
  • Giọng điệu đan xen lẫn nhau, ngôn ngữ trở nên đa thanh và sống động.
  • Ngôn ngữ biến hóa, đan xen và hấp dẫn.

Câu 6 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)​

Tư tưởng nhân đạo, mới mẻ của Nam Cao:
  • Nhà văn quan tâm đến nỗi đau bị tàn phá thể xác, bị hủy diệt về tâm hồn, bị xã hội cự tuyệt quyền làm người của một bộ phận người nông dân
  • -am Cao phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay khi tưởng như họ đã hoàn toàn mất đi nhân hình, nhân tính.

Soạn bài Chí Phèo mẫu 3​

1. Kiến thức cơ bản về tác phẩm Chí Phèo

Nam Cao (1917 - 1951) là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của dòng văn học hiện thực phê phán thời kì trước Cách mạng.

Chí Phèo là tác phẩm thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Nhân vật Chí Phèo thể hiện tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ lưu manh. Và khi lương tâm thức tỉnh, họ đã phải tự kết thúc đời mình khi nhận ra rằng mình không còn con đường trở về với cuộc sống lương thiện. Giá tri hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đều được tập trung ở nhân vật Chí Phèo. Tác phẩm phản ánh hai mâu thuẫn gay gắt và tiêu biểu nhất trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là: Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhau và mâu thuẫn giữa bọn cường hào ác bá và người nông dân. Nhân vật đều đạt đến trình độ điển hình.


2. Tìm hiểu tác phẩm Chí Phèo

Tóm tắt đoạn trích Chí Phèo

Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù. Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng của một tên lưu manh. Hắn chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng thành công cụ cho hắn.

Chí gặp Thị Nở, hai người ăn nằm với nhau. Chí tỉnh rượu rồi ốm, được Thị Nở chăm sóc. Bát cháo hành và những cử chỉ chân thật của Thị Nở đã làm sống dậy khát vọng sống cuộc đời lương thiện của Chí. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cấm. Chí tuyệt vọng khi bị Thị Nở từ chối. Anh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Anh đâm chết Bá Kiến và tự vẫn.

Ý nghĩa tiếng chửi của Chí phèo ở đoạn mở đầu tác phẩm.

Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng chửi với nội dung có vẻ bất thường nhưng rất tỉnh táo đã tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật trong cách viết của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm.

Nội dung của lời chửi có lớp lang, chứng tỏ người chửi vẫn đang rất có ý thức về việc làm của mình. Chửi từ đối tượng lớn nhất, chúng nhất và trừu tượng nhất (trời, đời, cả làng Vũ Đại) đến cụ thể nhất xác định rõ nhất (đứa nào không chửi nhau với hắn, đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn). Tiếng chửi thể hiện sự bức bối, tâm trạng đầy bi kịch của Chí. Chí cất tiếng chửi để người ta đáp lại mình nhưng không ai đáp lại cả, bởi họ không chấp hoặc không muốn dây với một thằng say rượu, một kẻ lưu manh, một thằng cố cùng liều thân như anh. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với con người dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất. Nhưng cũng không được đáp lại. Không có ai đáp lời nên Chí càng uất ức. Lời chửi vùa thể hiện được đỉnh cao tấn bi kịch cô đơn, bị từ chối quyền làm người của Chí vừa dẫn dắt câu chuyện đến tình huống giới thiệu về hoàn cảnh xuất thân và số phận bất hạnh của Chí.

Các nhân vật Bá Kiến, Thị Nở đều có ý nghĩa đặc biệt đối với số phận và tính cách của Chí Phèo.

Mối quan hệ Chí Phèo - Bá Kiến thể hiện quá trình bị tha hóa của Chí Phèo. Từ anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù và khi trở về thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Mối quan hệ Chí Phèo – Thị Nở thể hiện quá trình hoàn lương của Chí. Sự chăm sóc của Thị Nở đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong Chí. Nó cũng chứng minh rằng những bản chất tốt đẹp của người lao động trong con người Chí không thể bị hủy diệt mà nó chỉ bị khuất lấp đi đằng sau cái vẻ bất cần đời của một con người bị xã hội dồn vào bước đường cùng mà thôi. Sau khi bị Thị Nở tù chối, Chí thà chết chứ không chịu quay lại cuộc sống của một kẻ lưu manh.

Tâm trạng của Chí Phèo sau cuộc gặp với Thị Nở

Sau cuộc gặp gỡ, Chí bị ốm rồi được Thị Nở chăm sóc. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và lần đầu tiên sau những cớn say triền miên, kể từ ngày ở tù về hắn nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường. Và khao khát được sống lương thiện đã trỗi dậy trong anh. Chí bắt đầu nghĩ về đời mình về những ngày đã qua và những ngày sắp tới. Anh cảm nhận rõ sự cô độc và bất hạnh của đời mình. Chi mong ngóng Thị Nở, khao khát được cùng Thị xây dựng một gia đình. Bát cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong Chí. Chí ngạc nhiên rồi cảm động (thấy mắt hình như ươn ướt), rồi bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn. Và nhất là anh thấy ăn năn. Chí hóa hức, sốt ruột, cuống cuồng khi thấy Thị Nở về nhà qua lâu. Tâm trạng chờ đợi ấy thể hiện khao khát mãnh liệt được trở về cuộc sống lương thiện của người bình thường. Nhưng tất cả đã sụp đổ với sự trở lại và lời từ chối của Thị Nở.

Nhà văn đã nhập thân vào nhân vật, sử dụng nhiều kiểu giọng diệu trần thuật khác nhau để miêu tả diễn biến nội tâm phức tạp của Chí. Nhưng giây phút hạnh phúc và đầy hy vọng của Chí rất ngắn ngủi. Vì thành kiến mà bà cô Thị Nở không cho Thị Nở giao du và lấy Chí.

Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí, Chí lại lôi rượu ra uống nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh "hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Đó là hương vị của tình yêu, của niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc ấy lần đầu tiên Chí được hưởng cho nên nó khó phai mờ trong tâm trí của anh. Sự tỉnh táo khiến cho Chí thấy tiếc hạnh phúc mà mình đã có và nhận ra sự thực cay đắng, chua chát trong lời bà cô Thị Nở. Phản ứng của bà cô Thị Nở là đại diện cho những định kiến xã hội đối với những con người đã vô tình hay cố ý gây là lỗi lầm. Chí đã bị lưu manh hoá và xã hội lương thiện đã không thể chấp nhận anh. Cái chết của Chí một lần nữa chỉ ra con đường cùng và kết cục bi thảm của nhận vật.

Khi xách dao đến giết Bá Kiến và tự sát chứng tỏ anh hoàn toàn tỉnh táo. Đây là lời tố cáo quyết liệt của nhà văn đối với xã hội có những kẻ cầm quyền như Bá Kiến. Bọn người thâm hiểm, tham lam và tàn độc ấy đã cướp đi của con người bản chất lương thiện. Cướp đi của người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi của con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, nó dã man hơn cả tội giết người.

Đặc sắc trong ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật

Giọng điệu trần thuật có sự kết hợp hài hòa giữa đối thoại với độc thoại, giữa lời gián tiếp và lời nửa tiếp. Vì vậy, nhiều đoạn có sự lồng ghép giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ: đoạn kể về tiếng chửi của Chí, đoạn tả tâm trạng Chí sau cuộc gặp với Thị Nở và khi bị từ chối... Đối thoại Chí với Bá Kiến, Chí với Thị Nở... Giọng điệu trần thuật này là những đóng góp quan trọng của Nam Cao trong quá trình hiện đại hóa của thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam.

So sánh hai truyện ngắn Lão Hạc và Chí Phèo để thấy nội dung hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm của Nam Cao

Cả hai tác phẩm đều khai thác đề tài số phận người nông dân nghèo ở nông thôn Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến. Qua số phận cùng cực của họ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực và sâu sắc xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Giá trị nhân đạo được thể hiện ở sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với bi kịch của người nghèo và phát hiện ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vững bề của người lương thiện trong mỗi nhân vật.

Song ở mỗi tác phẩm nhà văn lại có những sáng tạo riêng trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo. Với nhân vật lão Hạc, nhà văn để nhân vật của mình vào một cuộc lựa chọn giữa cái chết và sống. Lão Hạc đã chọn cái chết để giữ được cho con trai mảnh vườn. Lão Hạc là một người nông dân có bản chất lương thiện và tấm lòng nhân hậu.

Chí Phèo khốn cùng hơn lão Hạc nhiều. Anh bất hạnh từ khi sinh ra cho đến lúc tự chấm dứt cuộc đời mình. Anh bị tha hóa, lưu manh hóa rồi bị từ chối quyền làm người. Cuộc đời của Chí là chuỗi bi kịch nhưng dù bị vui dập tàn nhẫn đến đau, bản chất lương thiện trong anh vẫn không hề bị huỷ diệt. Cuộc gặp gỡ, bát cháo hành của Thị Nở và những thanh âm trong trẻo của cuộc sống đời thường đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí. Qua tấn bi kịch của Chí, nhà văn đã thể hiện niềm tin và tình yêu thương của mình đối với những người nông dân nghèo.

3. Tư liệu tham khảo tác phẩm Chí Phèo

" ... Nam Cao đã diễn tả với một sức mạnh lạ thường quá trình lưu manh hóa của một số quần chúng cơ bản trong hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bóc lột của xã hội cũ. Nhân vật Nam Cao thường trải qua chuyển biến. Trong truyện Tư cách mõ Nam Cao viết: "Người ta tưởng ông trời sinh hắn ra như thế để mà làm mõ... Không!... Mới chỉ cách đây ba năm hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không. Anh chỉ chăm chăm chú chú làm để nuôi vợ nuôi con". Chí Phèo hiện ra chỉ biết chửi rủa, kêu làng, vu vạ, cướp bóc, đâm chém, nhưng có một thời hắn là người "hiền lành như đất", Lí Kiến phải lấy làm "tội nghiệp" thấy hắn "vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run run". Chí Phèo phá phách, hủy hoại chung quanh và tự hủy hoại mình, những hành động hầu như không tự giác, như sai khiến bởi một lực lượng vô hình. Thị Nở, tâm hồn vừa hé nở đón lấy hạnh phúc, đã vội cắt đứt với Chí Phèo: "Thị trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô". Mới thoáng yêu nhau, họ bỗng trở thành thù địch và cả thị lẫn Chí Phèo cũng chả hiểu ra làm sao cả.

Nhân vật Nam Cao thường không làm được những điều mình muốn và bắt buộc phải làm những điều không muốn..."


Lê Đình Kỵ

(Nam Cao, con người và xã hội cũ, Theo Nam Cao, về tác giả và tác phẩm, Sđd, tr.58-59)

"Giữa lúc người ta đang đắm mình trong những truyện tình mơ mộng và hùa nhau "phụng sự " cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh bạo đi theo một lối riêng, nghĩa là ông đã không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Những cạnh sắc của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình.

Quyển Đôi lứa xứng đôi có được độc giả hoan nghênh hay không, đó là một điều tôi chưa cần biết, tôi chỉ biết rằng lúc viết nó, ông Nam Cao đã không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo lối người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình... Dám nói và dám viết những cái khác người, ông Nam Cao đã đem đến cho ta những khoái cảm mới mẻ và ông đã tỏ ra một người có can đảm...".


(Lê Văn Trương, Tựa Đôi lứa xứng đôi, 1941. Theo Nam Cao, về tác giả và tác phẩm, Sđd, tr.108-112)

Sau khi học bài Chí Phèo, các em sẽ hiểu hơn về tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ lưu manh.
 
Viết trả lời...
Bài Tìm hiểu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo sẽ trình bày đầy đủ nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý phân tích, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích tác phẩm giúp các bạn nắm được các ý chính nhất về bài học này, thuận tiện cho việc tìm hiểu trước bài học trên lớp cũng như ôn tập lại tác phẩm.

A. Nội dung tác phẩm Chí Phèo​

Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà bá Kiến nhưng vì vợ hắn cứ gọi Chí lên xoa đầu, bóp vai nên bá Kiến ghen bắt Chí Phèo phải đi tù. Cuộc đời Chí rơi vào đau thương từ đây. Khi Chí trở về, hắn trở thành một con người hoàn toàn khác, cầm dao và vỏ chai đến nhà bá Kiến – kẻ đã tống hắn vào tù – ăn vạ. Ông bá xoa dịu hắn bằng bữa rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp thị Nở vào một đêm trăng, hắn và thị đã âu yếm nhau. Thị cho hắn tình thương khiến hắn muốn trở lại làm người. Nhưng thị cũng dập tắt mọi hy vọng khi bà cô của thị một mực không đồng ý cho tình cảm của hai người. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu thương mình, cuộc đời thì đi vào lầm lỗi, sa ngã nên Chí đã đến nhà bá Kiến kêu lên: "Ai cho tao lương thiện?" Chí giết chết bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò gạch – nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.

B. Đôi nét về tác phẩm Chí Phèo​

1. Tác giả​

- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở Lý Nhân, Hà Nam.
- Ông sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung.
- Thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau đó được gửi xuống Nam Định học.
- Sau đó do thể chất yếu nên ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ.
- Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư kí cho một hiệu may.
- Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội.
- Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
- Năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm chủ tịch xã.
- Năm 1946 ông gia Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc
- Năm 1948 ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại tạp chí Văn nghệ.

- Quan điểm sáng tác của Nam Cao:​

+ Ông theo quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh: Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
+ Tác phẩm phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng.
+ Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có.
- Tác phẩm chính: Ông để lại khối lượng sáng tác lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như Sống mòn, Lão Hạc, Chí Phèo, Giăng sáng, Đôi mắt, ...
- Phong cách nghệ thuật:
+ Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".
+ Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật.
+ Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc.
+ Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.
⇒ Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí.

2. Tác phẩm​

a. Hoàn cảnh ra đời​

- Trên cơ sở người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng quê mình, Nam Cao đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.
- Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong xã hội ấy không làm cho những người dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát sống tốt đẹp, lương thiện.
- Tác phẩm được viết năm 1941.

b. Thể loại: Truyện ngắn.​

c. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.​

d. Ý nghĩa nhan đề:​

- Lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ: nhấn mạnh sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc đời, cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lò gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu kết của tác phẩm, điều đó có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí người đọc. Tuy nhiên nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của người nông dân.

- Sau đó Nhà xuất bản Đời Mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi: nhan đề này dựa vào mối tình Chí Phèo Thị Nở, gợi sự tò mò của độc giả. Tuy nhiên, nhan đề này cũng chưa khái quát được ý nghĩa của tác phẩm.

- Nhan đề Chí Phèo cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện. Tác giả sử dụng nhan đề này để làm rõ số phận, cuộc đời, bất hạnh, cô đơn, cô độc của nhân vật chính được nhắc đến. Đồng thời, nhan đề này cũng gây ám ảnh, ấn tượng mạnh đối với người đã, đang và sẽ đọc câu chuyện.

- Nhan đề Chí Phèo thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. ⇒ Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

e. Bố cục: 3 phần​

- Phần 1 (Từ đầu đến …cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
- Phần 2 (Tiếp theo đến …không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.
- Phần 3 (Còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

f. Giá trị nội dung​

- Lời tố cáo đanh thép của Nam Cao về xã hội đương thời tàn bạo, thối nát đã đẩy người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.
- Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người ngay cả khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính.

g. Giá trị nghệ thuật của Chí Phèo​

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình bất hủ vừa có tính chung tiêu biểu vừa có những điểm riêng biệt không trộn lẫn.
- Nam Cao có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật khiến nhân vật của ông thật hơn con người thật.
- Nghệ thuật trần thuật hết sức linh hoạt phóng túng nhưng nhất quán và chặt chẽ.
- Ngôn ngữ giàu có đậm hơi thở cuộc sống.
- Giọng văn biến hóa đa dạng.

C. Sơ đồ tư duy Chí Phèo​

sơ đồ tư duy chí phèo.png

(Bài viết Tìm hiểu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo - Ngữ văn 11)

D. Đọc hiểu văn bản Chí Phèo

1. Hình ảnh làng Vũ Đại

- Làng Vũ Đại là không gian nghệ thuật của tác phẩm, là một lát cắt điển hình cho nông thôn Bắc Bộ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
- Xã hội làng Vũ Đại là một xã hội có tôn ti, trật tự nghiêm ngặt:

Vị trí xã hội
Nhân vật
Đặc điểm
1​
Bá KiếnBốn đời làm tổng lý, uy thế ngất trời.
2​
Đám cường hào ác bá: đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng…Kết bè kết cánh đối chọi lẫn nhau và đối chọi với Bá Kiến, làm thành thế quần ngư tranh thực.
3​
Dân làng Vũ ĐạiNông dân, thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức.
4​
Hạng người dưới đáy: Chí Phèo, Năm Thọ, binh Chức…Cùng hơn cả dân làng, sống tăm tối như thú vật.
→ Hai xung đột cơ bản:

- Xung đột trong nội bộ của bọn cường hào ác bá. Chúng ngấm ngầm chia rẽ, dùng mọi thủ đoạn, nhè từng chỗ hở để trị nhau. (Bá Kiến dùng tên đầu bò Chí Phèo trị đội Tảo; Bá Kiến chết, bọn cường hào nhìn Lí Cường bằng con mắt thỏa mãn, khiêu khích).
- Xung đột giữa bọn cường hào ác bá (kẻ thống trị – tội đồ) và những người nông dân hiền lành, lương thiện (kẻ bị trị – nạn nhân). Chúng bóc lột người nông dân đến tận xương tủy, dồn họ vào đường cùng để rồi rơi vào bi kịch tha hóa, bi kịch bị tước đoạt quyền làm người.
Chỉ qua một số chi tiết chọn lọc kĩ lưỡng, sắp đặt rải rác tưởng ngẫu nhiên mà lại có tính chất quy luật, Nam Cao đã dựng nên một làng Vũ Đại sống động, hết sức ngột ngạt, đen tối. Đó chính là cái “hoàn cảnh điển hình” vừa sản sinh vừa tác động làm bộ lộ “tính cách điển hình” đó là Chí Phèo.

2. Nhân vật bá Kiến

- Bá Kiến là một nhân vật tiêu biểu cho bộ mặt của giai cấp thống trị ở làng Vũ Đại.
+ Các chi tiết về ngoại hình: giọng nói rất sang, cái cười hơn người, lối nói ngọt nhạt...
+ Dùng nghệ thuật độc thoại nội tâm để phơi bày bản chất: Thói ghen tuông cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù.
+ Dùng lời bình trực tiếp để miêu tả lí trí: Thoáng nhìn qua cụ đã hiểu ra cơ sự rồi.
⇒ Từ ngôn ngữ, giọng nói, tiếng cười, cái nhìn của bá Kiến đều biểu hiện sư khôn ngoan, lọc lõi hơn người và khác người.
- Nhà văn vạch trần bản chất cường hào của bá Kiến trong mối quan hệ với người nông dân – Chí Phèo.
+ Bá Kiến ghen với anh canh điền khỏe mạnh đã đẩy Chí vào tù – nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha hóa của Chí.
+ Chí Phèo đến nhà bá Kiến để rạch mặt ăn vạ, để xin đi ở tù. Cả hai lần bá Kiến đều thắng Chí Phèo. Vì những hành vi lưu manh của Chí nằm trong cái cơ trí trị dân của bá Kiến.
+ Chí Phèo đòi bá Kiến “lương thiện”. Sự bất lực của bá Kiến là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bi kịch đau đớn nhất của Chí.
⇒ Xây dựng nhân vật bá Kiến, tác giả đã bóc trần bản chất của giai cấp địa chủ. Bá Kiến vừa là nguyên nhân trực tiếp, vừa là nguyên nhân sâu xa dẫn Chí đến những bi kịch đau đớn nhất của người lao động nghèo trong xã hội cũ. Nhân vật bá Kiến có ý nghĩa điển hình cho giai cấp địa chủ phong kiến đồng thời góp phần tô đậm tính cách bi kịch của Chí Phèo.

3. Nhân vật Chí Phèo

*Nguồn gốc, lai lịch

- Không cha, không mẹ, không họ hàng.
- Tuổi thơ bơ vơ đi ở hết nhà này đến nhà nọ.
- Tuổi hai mươi khỏe mạnh, làm canh điền cho nhà lí Kiến.
- Bản chất:
+ Lương thiện: Chí mơ ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải...
+ Có lòng tự trọng: bị bà ba gọi bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ chẳng thấy yêu.

*Quá trình tha hóa

- Bá Kiến đẩy Chí vào tù. Bày, tám năm trong tù, nhà tù đã nhào nặn Chí biến thành một con người hoàn toàn khác.
- Ra tù, Chí thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính:
+ Nhân hình: đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!, Chí đã bị xã hội cướp đi bộ mặt của một con người.
+ Nhân tính Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại và bị xã hội từ chối.
- Chí ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao với tiếng chửi lảm nhảm. Chửi trời, chửi đời, chửi cha mẹ đứa nào đẻ ra thằng Chí Phèo.
→ Tiếng chửi của Chí có một cái gì giống như sư vật vã tuyện vọng của một con người thèm được giao tiếp. Chí thèm được người ta chửi. Vì chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người. Thế nhưng vẫn chỉ có một mình Chí trong sa mạc cô đơn.
- Chí đến nhà bá Kiến rạch mặt ăn vạ, để liều chết với bố con nhà bá Kiến.
- Chí xin đi ở tù để kiếm bát cơm, manh áo nhưng thất bại.
→ Chí Phèo trở thành tay sai đi đòi nợ cho bá Kiến hung hãn ngang ngược và triền miên trong những cơn say.
⇒ Nỗi khổ không phải là không thước đất cắm dùi, không cha, không mẹ... mà chính hắn đã bị cướp đi linh hồn, thể xác. Chí không có hạnh phúc, xã hội không mở đường đã cự tuyệt quyền làm người của Chí.

4. Cuộc gặp gỡ với thị Nở

- Cuộc gặp đỡ với thị Nở như một tia chớp lóe sáng trong cuộc đời chí Phèo.
+ Lúc đầu, Chí đến với thị một cách rất Chí Phèo – đến trong lúc say.
+ Điều đặc biệt là thị không chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở một gã đàn ông như Chí mà còn làm thức dậy nhân tính trong con người Chí:
Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm sống trong những cơn say triền miên, Chí nghe được tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài khua mái chèo đuổi cá, tiếng người đi chợ nói chuyện vui vẻ. Chí nhớ lại một thời đã từng mơ ước có một gia đình hạnh phúc.
Chí cảm thấy mình già mà vẫn còn cô độc, Chí sợ sự cô độc.
⇒ Lúc này nhân tính của Chí đã được hồi sinh.

- Sự chăm sóc đầy ân tình của Thị đã làm thức tỉnh lương tâm của Chí:
+ Bát cháo hành của thị Nở như một liều thuốc giải độc đã hóa giải tâm hồn Chí: hắn trở nên hiền lành, thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người.
+ Chí hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị sẽ là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với cuộc đời.

→ Đây chính là đỉnh cao sự thức tỉnh nhân tính của Chí.
⇒ Miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với thị Nở, Nam Cao đã chứng minh ngòi bút tâm lí sắc sảo của mình, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay cả khi họ đã mất đi nhân hình, nhân tính.

*Thị Nở từ chối Chí Phèo

- Sự phản kháng của bà cô khiến thị Nở từ chối Chí.​

+ Chí cố níu kéo: Chí đuổi theo thị, nắm lấy tay.
+ Chí hết hi vọng hòa nhập với mọi người.

- Rơi vào bế tắc, Chí đã hành động:​

+ Chí uống rượu, Chí muốn uống cho thật say nhưng càng uống lại càng tỉnh. Chí khóc rưng rức. Tiếng khóc của Chí là tiếng khóc cho nỗi đau thân phận bị ruồng bỏ. Chí không mong ước gì cao sang. Chí muốn sống với người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ở làng Vũ Đại mà cũng không được. Thị Nở càng xấu, bi kịch của Chí càng được khơi sâu.
+ Xách dao đi đến nhà bá Kiến trả thù, đòi lương thiện: đây là giờ phút Chí Phèo tỉnh táo nhất. Chí đã nhận ra kẻ thù gây tội ác, chà đạp lên nhân phẩm Chí không phải là thị Nở, bà cô thị mà là bá Kiến. Trước mặt bá Kiến, Chí dõng dạc đòi lương thiện. Chí đã giết chết bá Kiến – kẻ thù lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Hành động đòi lương thiện của Chí là đỉnh cao của sự ý thức về nhân phẩm.
+ Giết được kẻ thù, Chí lại rơi vào tuyệt vọng. Chí đau đớn nhận ra rằng: Chí Phèo không thể trở về làm người được nữa và Chí đã tự đâm chết chính mình.

⇒ Cái chết của Chí có ý nghĩa tố cáo xã hội sâu sắc. Xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến đã xô đẩy những người nông dân hiền lành, lương thiện như Chí trở nên tha hóa. Đây là hiện tượng có tính quy luật, là sản phẩm của tình trạng áp bức, bóc lột ở nông thôn Việt nam trước Cách mạng. Chí Phèo là một nhân vật điển hình cho người nông dân bị áo bức bóc lột, đè nén đến tận cùng đã chống trả bằng hành động lưu mang hóa. Về phương diện này, tác phẩm có giá trị tố cáo sâu sắc.
Thêm
1K
0
0
Viết trả lời...
Từ trước tới nay, con người luôn tìm kiếm những mẫu người lí tưởng bằng xương bằng thịt, tồn tại trong đời sống thực để ký thác những giá trị tâm linh tiềm ẩn, những xung đột tâm lí sâu sắc mà với những hoạt động thường nhật của nó không thể nào dung nạp được. Nhưng con người luôn thất bại. Thay vì điều đó, nó đã sáng tạo các hình tượng chính trị, tôn giáo, đạo đức, văn học nghệ thuật để thỏa mãn cuồng vọng của mình. Trong các loại hình tượng trên chỉ có hình tượng văn học nghệ thuật mới tồn tại đích thực bản thể người của nó.

Và trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo không sống theo tôn chỉ chính trị và đạo đức Nho giáo, không có bản lĩnh anh hùng hảo hán như Từ Hải, không lãng mạn tri thức như Kim Trọng…

Thực ra Chí Phèo chưa bao giờ là một kẻ ác, ngay cả khi hắn cướp giật hay xin đểu. Một người như Chí Phèo, tới lúc chết cũng chỉ “Tao cần lương thiện” thì ác với ai được. Hắn không có mưu đồ hại người. Cái ác chỉ có ở kẻ mạnh tiền của, quyền lực và mưu mẹo. Những thứ đó Chí chưa bao giờ có. Sự trớ trêu của cuộc đời là Chí Phèo luôn bị ám ảnh mình là kẻ bất lương. Còn những kẻ bất lương như gia đình lão Bá lại luôn cho mình là lương thiện.
Ảnh Màu kem Người nội trợ Đồ họa Pinterest.png

(Cái lương thiện mà Chí Phèo đòi chỗ Bá Kiến là gì?)

Vậy cái lương thiện mà Chí Phèo đòi ở đây là gì?​

Công bằng xã hội ư? Không, Chí Phèo chẳng có mảy may một chút ý thức xã hội thì sao hắn có thể đứng ra đòi công bằng cho xã hội.

Hắn muốn quan hệ giao hòa với đồng loại ư? Hắn đâu có thiết.

Nhiều người quy cho Chí Phèo là kẻ vô chính phủ, là hạng người dưới đát xã hội, méo mó về nhânh cách, lúc nào cũng say khướt….hay Chí Phèo là kẻ đại diện cho những người nông dân thời kỳ trước cáhc mạng tháng Tám dám đứng lên đấu tranh chống lại cường quyền. Những suy nghĩ như vậy thực chất là sự suy diễn và áp đặt vô lối. Dưới con mắt của Chí Phèo xã hội chỉ là một đám hỗn không trên không dưới không có trật tự kỉ cương, không có đúng sai, phải trái…. Mà chỉ có các sinh thể đang tồn tại. Và hắn cũng không hiểu nổi cái khốn khổ khốn nạn của mình là do đâu. Chí Phèo chỉ đòi làm một con người “đích thực”.

Cái khổ của Chí Phèo không phải ở kinh tế hay đạo đức mà chính sự dằn vặt trong bản thể tổn tại với tư cách người của hắn. Những mặc cảm về thân phận làm người luôn ám ảnh. Một sự ám ảnh chìm sâu trong vô thức. Hắn kết liễu Bá Kiến cũng không phải mục đích trả thù hay chống lại bất công đòi bình đẳng mà do những tích tụ dồn nén trong vô thức đến mức hắn không thể làm khác được. Chí Phèo không đại diện cho một đẳng cấp xã hội nào. Hắn chỉ là một sứ giả khoác trên mình bức thông điệp kàm người.

Nếu Hamlet của Shakespeare, luôn dằn vặt về ý thức danh dự, lớp hào quang mà giới quý tộc nước Anh lúc bấy giờ khoác lên người chàng. Đấy là những vấn đề nhận thức các quan hệ xã hội chứ không phải là những vấn đề bản thể tồn tại. Còn Chí Phèo không mưu chước, không mong cầu, đòi hỏi về đạo đức, danh dự cá nhân. Khác với Hamlet luôn trăn trở về cái chết cha mình như một sự oan ức trái lẽ phải thông thường, một sự xuống cấp đạo đức xã hội. Còn Chí Phèo dằn vặt, trăn trở để được tồn tại như một sinh thể đích thực.

(Đỗ Ngọc Yên)
Thêm
2K
0
2
thật sự co những từ ngữ tôi chưa được hiểu lắm nhưng tôi phần nào đồng tình với cái quan niệm ấy của bạn
 
Viết trả lời...
Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, (biến cố) xảy ra trong đời sống của nhân vật, có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận nhân vật và làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí” .

Cốt truyện “Chí Phèo” hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hóa, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ. Nam Cao là người có biệt tài tạo dựng chi tiết cho truyện của mình. Góp phần tạo nên sự thành công cho kiệt tác “Chí Phèo” phải kể đến chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho Chí Phèo.

Nó đã thúc đẩy cốt truyện phát triển và mở ra bước ngoặt trong cuộc đời của Chí. Sau khi ăn nằm với nhau như vợ chồng, thị Nở thương Chí bị ốm nên đã nấu cháo mang sang cho hắn. Đó là khoảnh khắc lột xác của một con quỷ để trở thành một con người. Đó là giây phút hạnh phúc duy nhất của một kẻ suốt đời bất hạnh. Bát cháo của Thị Nở đã làm tươi lại tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn chai sạn của Chí. Bát cháo không chỉ là liều thuốc giải cảm, mà còn là liều thuốc giải độc tâm hồn. Vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, xưa nay muốn có ăn hắn “phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm người ta sợ”. Bát cháo đã cho Chí hiểu được một điều giản dị mà xúc động: Hóa ra trên đời này người ta có thể cho nhau ăn. Tình yêu mộc mạc, chân thành của Thị Nở đã đánh thức nhân tính của Chí. Hết “ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. Chí Phèo cảm động, rưng rưng nước mắt, có lẽ sau tiếng khóc chào đời hôm nay Chí Phèo mới biết khóc.

Với Nam Cao, nước mắt chính là giọt nhân tính, chỉ có những người giàu nhân phẩm, có nhân tính mới biết khóc. Trong lòng Chí trào dâng bao cảm xúc của con người: “bâng khuâng”, “vừa vui vừa buồn. và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí sám hối vì những việc mình đã làm trong hai mươi năm qua. Lần đầu tiên trong đời Chí thấy cháo hành ăn rất ngon. Thị Nở đã giúp anh cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình bạn, tình mẹ. Chí thấy “lòng thành trẻ con...muốn làm nũng với thị như với mẹ”, cũng khao khát được yêu thương, chăm sóc. Và một câu hỏi rất hệ trọng đã day dứt lương tâm anh: “Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây kẻ thù”. Thị Nở bằng một bát cháo hành đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đó chính là khát vọng được hoàn lương. Mặc dù những giây phút hạnh phúc chỉ lóe lên rồi vụt tắt, nhưng hương vị của cháo hành mãi ám ảnh Chí, giúp anh chấm dứt những cơn mê muội dài mênh mông, sưởi ấm trái tim Chí để anh có đủ dũng cảm kết liễu kiếp sống của một con quỷ và bảo toàn thiên lương của một con người chân chính.

Chỉ bằng một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã dồn vào đó cả triết lý sâu sắc của mình: tình yêu có sức mạnh cảm hóa kì diệu, và con người hãy sống với nhau bằng tình yêu thương. Đồng thời, qua chi tiết này, Nam Cao cũng thể hiện niềm tin bất diệt vào bản chất tốt đẹp của người lao động, cái phần NGƯỜI trong mỗi người lao động đâu có thể tước đi một cách dễ dàng. Nếu không có chi tiết này, có lẽ “Chí Phèo” chỉ đơn thuần là câu chuyện về sự tha hóa biến chất của con người.

Chi tiết bát cháo hành đã thúc đẩy cốt truyện phát triển tự nhiên, hấp dẫn và tạo nên bước ngoặt bất ngờ, làm tỏa sáng chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
Thêm
876
0
1

Chi tiết bát cháo hành - hạt bụi vàng quý giá của truyện ngắn Chí Phèo​


Nhà văn Nga Pautovski nói: “Chi tiết làm nên hạt bụi vàng của tác phẩm”. Chi tiết trong tác phẩm chỉ như một hạt bụi, chỉ là một yếu tố nhỏ làm nên thiên truyện lớn. Tuy nhiên chi tiết đó lại đắt đỏ và quý giá như vàng. Bởi lẽ, chính chi những chi tiết nhỏ này làm nên sự khác biệt giữa các nhà văn, tạo nên sự độc đáo, phong phú của nghệ thuật. Nếu chi tiết cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” khiến bạn đọc hình dung rõ ràng nhất về phong cách Nguyễn Tuân, chi tiết cảnh chờ tàu trong “Hai đứa trẻ” giúp bạn đọc nhớ mãi về lối viết nhẹ nhàng của Thạch Lam,… thì chi tiết bát cháo hành trong truyện ngắn “Chí Phèo” khiến cho bạn đọc ấn tượng với phong cách Nam Cao.

Bát cháo hành hạt bụi vàng đắt giá của truyện ngắn Chí Phèo  Nam Cao.png


Các tác phẩm của Nam Cao thường độc đáo, đa dạng nhưng không kém phần chân thành, có ý nghĩa và khái quát được những triết lý sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, vừa sắc lạnh mà lại thắm thiết trữ tình. Nam Cao khai thác hai đề tài chính là người nông dân và người trí thức nghèo trước Cách mạng. Ông có xu hướng viết về cái nghèo, cái đói, vấn nạn “áo cơm ghì sát đất” nặng nề của những con người khổ cực đương thời. Nhà văn cũng có sở trường trong việc miêu tả tâm lí, do vậy, dù khai thác các đề tài đã cũ nhưng Nam Cao vẫn làm nên được chất riêng của mình giữa một khu vườn văn học đã nhiều hoa đủ quả. Để hình dung phong cách của Nam Cao, Giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét rằng: “Nam Cao đã đi theo một lối riêng, tức là không đếm xỉa gì đến sở thích của độc giả. Nhưng chính tài năng của ông đã mang đến cho văn chương một lối mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn…”

Tác phẩm “Chí Phèo”, sáng tác năm 1941, có thể coi là tác phẩm nổi bật nhất của Nam Cao bên cạnh truyện ngắn Lão Hạc. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của “con quỷ dữ làng Vũ Đại” - Chí Phèo, khắc họa hoàn cảnh tối tăm của người nông dân trước Cách mạng. Chí từ một con người lương thiện nhưng bị bá Kiến gian ác đẩy vào tù rồi biến hắn trở thành tay sai đi rạch mặt ăn vạ. Kể từ lúc ra tù, Chí dường như chưa bao giờ tỉnh ngộ, chỉ khi gặp được Thị Nở, với bát cháo hành “còn nóng nguyên” Chí mới thức tỉnh trở về với bản nguyên lương thiện của mình. Tuy nhiên, niềm hạnh phúc kéo dài không lâu, Chí Phèo lại rơi vào bi kịch bị Thị Nở từ chối; hắn đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện rồi chết trong vũng máu tươi, kết thúc cuộc đời bi kịch của mình. Hắn sinh ra trong cát bụi rồi lại trở về với cát bụi. Những con người lương thiện như Chí bị ép vào đường cùng, không thể nào phản kháng trước thế lực thực dân – phong kiến. Họ rơi vào thế “một cổ hai tròng”, bị tha hóa đến mất cả nhân hình lẫn nhân tính, rơi vào những bi kịch kinh hoàng nhất của một con người. Tuy nhiên, dẫu rơi vào tình cảnh bế tắc, trong họ vẫn còn sót lại tính người, vẫn còn hiện diện khao khát làm người lương thiện. “Chí Phèo” tuy “sinh sau đẻ muộn” nhưng vẫn giữ được chỗ đứng trước các liền anh liền chị như “Bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan) hay “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố).

Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở phần giữa của truyện ngắn “Chí Phèo”. Sau khi Chí đã thấm hơi men từ chỗ Tự Lãng, hắn không về túp lều của mình mà đi ra phìa bờ sông. Chí bắt gặp Thị Nở - một người đàn bà ngớ ngẩn, xâu “ma chê quỷ hờn” đang ngủ quên ở đó. Thị hấp dẫn Chí chỉ vì thị là đàn bà còn hắn là một kẻ say, “ngứa ngáy thịt da”; vậy là Chí với thị cùng nhau hòa làm một trong đêm hôm ấy. Khung cảnh hữu tình “rười rượi những trăng, có những tàu lá chuối nằm ngửa ưỡn cong lên hứng lấy ánh trăng xanh như là giọt nước ướt; thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch như hứng tình” cùng hơi men đã đưa Chí và thị đến với nhau. Sau cái đêm trăng gió với thị, Chí bị cảm và chính thị đã chủ động nấu cháo mang sang cho hắn ăn. Khi Chí hãy còn mãi suy nghĩ về cuộc đời đã sang bên kia dốc của mình, chăm chú vào hiện tại và tương lai chưa biết đi đâu về đâu của mình, Thị Nở vào “cắp một cái rổ, trong đó có một nồi gì đậy những vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên”.

Bát cháo hành dường như là đại diện duy nhất cho tình người còn sót lại tại làng Vũ Đại đã khô héo những cảm xúc. Bất ngờ là tình người không xuất hiện ở ai khác mà lại xuất hiện ở một người đàn bà được coi là dở hơi và xấu xí ma chê quỷ hờn. Bát cháo đối với chúng ta mà nói chỉ là thứ nhỏ nhặt và vặt vãnh, nhưng tại thời điểm đó bát cháo lại chan chứa tình người. Lần đầu tiên, Chí được người khác thật lòng cho một thứ gì, lạ kì hơn còn là một người đàn bà. Có một tình người rất thật mà Chí nhận được từ thị, không vụ lợi, không trơ tráo cũng chẳng tính toán; chỉ đơn giản là cho đi vì thị thương Chí. Lần đầu tiên hắn có được một điều gì đó mà không cần phải đi trộm cướp hay rạch mặt ăn vạ. Bát cháo khiến “mắt Chí ươn ướt”, “nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng bâng khuâng”. Lòng tốt của thị, “lòng yêu của một người hàm ơn… của một người chịu ơn” khiến hắn ân hận, “vừa vui vừa buồn”, có thêm “một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Kề bát cháo lên môi, cái Chí cảm nhận đâu chỉ là vị cháo mà còn là hương vị của tình người: “Trời ơi! Cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm”. Cùng với hương vị của yêu thương, trong cháo còn chứa đựng hương vị của hạnh phúc: “cười rồi lại ăn”, “Hắn thấy lòng thành trẻ con”, “Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Khi trong lòng người tràn ngập hạnh phúc, tâm hồn con người lại hóa lương thiện, hóa thành trẻ thơ, thoát khỏi những khổ đau. Chí Phèo cũng vậy, bát cháo mang đến cho hắn niềm hạnh phúc, khiến hắn tháo bỏ được lớp vỏ bọc đáng sợ của “con quỷ dữ làng Vũ Đại” và hắn phải thốt lên: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Chí khát khao trở về bản nguyên lương thiện của mình. Chí không muốn mãi phụ thuộc vào công việc “đâm thuê chém mướn” làm khổ người khác nữa, chí “muốn làm hòa” với người dân làng Vũ Đại. “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, Chí tin rằng thị sẽ giúp hắn, mở đường cho hắn trở về với anh canh điền như lúc xưa. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở - cầu nối cho hắn về thế giới bình thường. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.

Bát cháo hành được Nam Cao xây dựng với ý nghĩa sâu sắc, giàu tính biểu tượng. Bát cháo là kết tinh cho tình yêu bình dị, cao cả của Thị Nở, một vẻ đẹp hiếm có được tìm thấy ở người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” bị làng Vũ Đại xa lánh. Nó còn thể hiện một thông điệp nhân văn rằng: Lòng thương yêu chân thành sẽ cứu rỗi được những ai đang lầm đường lạc lối. Tình yêu sẽ như ngọn đèn soi sáng cho con người, hướng con người trở về bản nguyên lương thiện vốn có. Tuy nhiên, bát cháo còn để lại trong lòng người đọc một hiện thực chua chát, xót xa: Chỉ một tình yêu, một hành động quan tâm nhỏ nhoi mà đến hơn 40 năm cuộc đời Chí Phèo mới cảm nhận được. Khi “cơ thể đã hư hỏng nhiều”, khi đã ở con dốc bên kia của cuộc đời, hắn lần đầu mới hiểu thế nào là ấm áp tình thương. Napoleon từng nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”. Trong xã hội khô héo tình người của làng Vũ Đại, chúng ta không tìm lấy được một mầm mống nào của tình cảm, dường như tất cả mọi người đều vô cảm, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác. Không biết vì họ đã quá khổ cực, hay thực ra xã hội đó vốn chỉ toàn sự vô tâm. Bát cháo hành góp phần thể hiện niềm tin của nhà văn Nam Cao: Dẫu con người bị tha hóa đến mất cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng ẩn sâu bên trong lớp vỏ bọc dữ tợn được khoác lên vẫn là tính người còn sót lại. bản chất của con người luôn là lương thiện và con người sẽ không bao giờ đánh mất nó. Bát cháo là vị thuốc giải độc cho Chí, ngoài giải cảm sau khi “thổ một trận nặng”, nó còn là phép màu giải độc cho tâm hồn của hắn. Nó thức tỉnh phần lương tri đã ngủ quên, bị vùi lấp sau lớp bụi của nhà tù thực dân – phong kiến, đưa Chí từ kiếp sống như một loài thú vật trở về kiếp sống của con người biết yêu thương, lương thiện, biết khao khát hạnh phúc!

Có thể nói chi tiết bát cháo mang đầy công dụng nghệ thuật cho nhà văn Nam Cao. Nó giúp cho sự phát triển của mạch truyện, giúp cho Chí Phèo thức tỉnh. Bên cạnh đó, nó cũng góp phần cho việc thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nam Cao: Lòng tốt cứu rỗi con người. Dẫu con người bị bầm dập về thể xác, không thể nhìn rõ nhân dạng nhưng nhân tính chẳng bao giờ bị mất đi. Qua đó, nhà văn cũng gióng lên hồi chuông cảnh cáo về thực trạng bi đát của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, mong muốn “thay máu” cho xã hội để con người có thể sống một cuộc đời tốt đẹp hơn. Bát cháo hành – “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” (M. Gorki).

Tác giả bài viết: CHÂU NGUYỄN ÁI MY
LỚP 12 CV TRƯỜNG THTH. ĐHSP TP.HCM​
 
Viết trả lời...
Chi tiết nghệ thuật đã tạo nên cách mở đầu hấp dẫn cho câu chuyện

Bàn về cách viết truyện ngắn, nhà văn Sêkhốp có phát biểu: “Theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận” (Theo “Sêkhốp bàn về văn học”).

Nhà văn phải dụng công để tạo nên một cách mở đầu thật độc đáo, ấn tượng, thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Kiệt tác “Chí Phèo” của Nam Cao thật đặc sắc khi mở ra bằng chi tiết tiếng chửi của Chí. Đây là cách giới thiệu trực tiếp nhân vật và mở đầu không theo trình tự thời gian mà đi thẳng vào giữa truyện.

Chi tiết tiếng chửi Chí Phèo là một dụng công rất lớn của Nam Cao.
Cách chửi của nhân vật khá độc đáo: “Bắt đầu hắn chửi trời... Rồi hắn chửi đời... Chửi ngay tất cả làng Vũ Đại... chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn...”. Thoạt đầu Chí chửi vu vơ, sau đó thu hẹp dần đối tượng và cuối cùng bất ngờ chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn...”. Hắn chửi người đẻ ra mình, tức là chửi chính mình, chửi số kiếp mình. Cả làng Vũ Đại không ai biết “đứa chết mẹ nào” đã đẻ ra Chí Phèo, nhưng nhà văn Nam Cao biết: Đẻ ra Chí Phèo bằng xương bằng thịt là một người đàn bà bất hạnh, còn đẻ ra hiện tượng Chí Phèo là cả cơ chế xã hội bất công thối nát đương thời, ở đó chất độc nằm ngay trong sự sống. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được ai đó chửi lại, tức là hắn khao khát được giao cảm với mọi người. Nhưng tín hiệu giao tiếp phát đi liên tục, lại chỉ gặp sự im lặng đến đáng sợ. Ngay từ đầu tác phẩm Chí Phèo đã rơi vào tình trạng hoàn toàn cô độc, không ai giao tiếp với hắn dù là bằng hình thức thấp kém nhất: chửi nhau: "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu". Tiếng chửi đã thể hiện tâm trạng bi phẫn, bất mãn, một trái tim đau đớn, vật vã, giằng xé, một tâm hồn tuyệt vọng khi bị xã hội khai trừ, bị cự tuyệt quyền làm người. Chi tiết này đã hé mở tình trạng bi đát của thân phận Chí Phèo.

Tiếng chửi được thể hiện trong một đoạn văn đa giọng điệu: ngôn ngữ trực tiếp của người kể chuyện, ngôn ngữ của người kể chuyện hòa lẫn vào ngôn ngữ của nhân vật, tạo ra ngôn ngữ nửa trực tiếp. Nhà văn như đã hóa thân vào nhân vật, đồng cảm và nói hộ nỗi đau của thân phận Chí Phèo. Đằng sau cách gọi Chí là "hắn" đầy lạnh lùng là cả một trái tim trĩu nặng yêu thương của Nam Cao.
Thêm
1K
0
0
Viết trả lời...
Tuy với đề tài nông thôn và nông dân nam Cao là người đến sau những ông cũng kế thừa và phát huy những thế hệ đi trước và ngoài ra ông còn sáng tạo những điều mà chưa ai biết đến với quan điểm “Khơi nguồn những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” và đây chính là điểm tạo nên sự độc đáo và đặc biệt trong tác phẩm của Nam Cao.

1. Bức tranh nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao là một khung cảnh đơn sơ bình dị , không khí xơ xác, hoang vắng và nghèo đói tạo nên một không gian im ắng và thanh vắng đến rợn người.

Như đã nêu bức tranh nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao rất đặc biệt không có những hình ảnh thơ mộng đẹp đẽ như: dòng sông trong mát, nhưng khu vườn xinh đẹp, những ánh nắng vàng nhự nhàng,…. Mà chỉ là một cảnh đơn sơ, bình dị, hoang vắng và im ắng bao chùm lên toàn bộ bức tranh nông thôn của nhà văn Nam Cao. Nếu như các nhà văn khác khi miêu tả cảnh nông thôn thì cũng có một chút gì dó yên bình nhưng họ có pha thêm đó là những âm thanh hẹ nhàng như tiếng của những cơn gió thổi đầu hè, hay là những tiếng ve kêu báo hiệu ngày hè đến, hay là những tiếng nước chảy của những dòng suối trong xanh,… nhưng trái lại bức tranh nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao thì lại rất yên lặng và thanh vắng nếu có thì chỉ có những tiếng chửi của Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nhưng chính sự yên lặng đố đã làm nổi bật lên tiếng chửi của Chí Phèo một tiếng chửi không một ai đáp lại tạo nên sự cô đơn và hiu quạnh.

=> Tuy bức tranh nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao đơn sơ, vắng vẻ , nghèo đói nhưng đây chính là tình cảnh nông thôn của Việt Nam lúc bấy giờ một xã họi nông thôn bị áp bức dưới thế lục thực dân phong kiến, bị vơ vét bóc lột, khiến cho cuộc sông nông thôn lúc bấy giờ nghèo đói, sơ xác và dẫn đến nạn đối năm 1945.

2. Người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao đều là những người cô đơn và đều có tình cảnh gia đình ly tán do hoàn cảnh nghèo khổ.

Ngoài là những người có số phận đau khổ bế tắc và coi là những người đưới tầng đáy của xã hội thì những người nông dân đó họ còn có một tình cảnh hẩm hiu hơn và đâu khổ hơn là tình cảnh cô đơn và gia điình ly tán vì hoàn cảnh nghèo khổ. Hầu như các nhân vật thuộc tầng lớp nông dân trong tác phẩm của Nam Cao đều phải chịu số phận cô đơn hoặc gia điình ly tán do hoàn cảnh nghèo khó điển hình như :

“ Nhân vật Chí phèo trong tác phẩm Chí Phèo bị bỏ rơi tại lò gạch cũ khi mới sinh ra rồi người dân trong làng chuyền tay nhau nuôi Chí, rồi sau này khi Chí trưởng thành thì không có họ hàng , không có ai bên cạnh, không có nhà của, tài sản nào cả phải ở đợ nhà Bá Kiến, xong sau này khi gặp được Thị Nở Chí nghĩ từ nay mình sẽ không phải cô đơn nữa nhưng rồi hoàn cảnh và do sự áp bức của bà dì của Thị Nở và sự áp bức của xã hội phóng kiến thực dân lúc bấy giờ khiến chí chết đi vẫn còn cô đơn”

Ngoài ra cũng có rất nhiều nhân vật là tần lớp người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao phải chịu sự cô đơn và gia điình ly tán do hoàn cảnh khó khắn nghèo đói như : Lão hạc trong tác phẩm Lão Hạc , bà lão trong tác phẩm Một Bữa No, nhân vật Dân trong tác phẩm Một Đám Cưới,…..

3. Kết của các nhân vật thường là cái chết.

Và có lẽ không có nhà văn nào như nhà văn Nam cao lại cho nhân vật của mình một cái chết như vậy. Có lẽ nhà văn muốn giống như là cái chết sẽ giúp họ thoát khỏi những tình cảnh khó khăn và đau khổ mà họ muốn gặp phải. Có lẽ cái chết đối với các nhân vật đặc biệt là người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao lại là một cái kết tốt đẹp cho những người nông dân đó bởi vì khi sống hị phải chịu bao áp bức bóc lột và sự điều khiển của những thế lục thống trị thực dân phong kiến điển hình như nhân vật Chí Phèo: Cái kết cho nhân vật này là cái chết trong tư thế là một con người người chứ khong phải là một con quỷ của làng Vũ Đại. Tại vì sao Chí phải chọn cái chết ? Có thể chí muốn thoát khỏi cái xã hội này cái xã hội tha hoá và lưu mạnh hoá khiến cho một con người lương thiện hiền lành lại có thể trở thành một con quỷ, và tác giả còn muốn thể hiện cái chết của Chí Phèo chính là sự hồi sinh con người lương thiện trong Chí Phèo và muốn để lại trong măt s người đọc là một hình ảnh Chí Phèo lương thiện và dám đứng lên đòi quyền sống cho mình.

4. Họ là những người nông dân tuy có vẻ ngoài xấu xí thô kệch nhưng họ có một tâm hồn cao đệp và một phẩm chất cao quý.

Những người nông dân đó tuy họ có một vẻ ngoài xấu xí, xấu đến nỗi “ Ma chê quỷ hờn” nhưng họ lại có một vẻ đẹp trong tâm hồn của họ , một phẩm chất cao quý của họ . Và có lẽ rất ít nhà văn nào lại có thể hiểu sâu và tinh tế và thấu cảm được nỗi đâu khổ và tội nghiệp nhưn nhà văn Nam Cao. Điển hình thì có thể kể đến nhân vật và Thị Nở tuy họ bên ngoài xấu xí thô kệch nhưng họ lại có một tấm lòng nhân hậu, , một tấm lòng thương xót người khác ở Thị Nở. hay là tác phẩm Trẻ con không được ăn thịt chó ta sẽ hiểu được tấm lòng cao quý , thương yêu cn của mình và đức hy sinh của người mẹ nghèo. Hay là nhân vật Dần trong tác phẩm Một Đám Cưới đã ý thức đực trách nhiệm của một người con cả, một người chị lớn trng gia đình, cam chịu đi ở cho một nhà giàu ác nghiệt, dù cho có khó khan hay đâu khr như thế nào cũng không dám khóc lóc hay than vãn. Tác phẩm này đã cho ta thấy được tình cảm ấm áp , yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong một gia đình.

Về nhân vật Chí Phèo đây có lẽ là nhân vật được xây dựng thành công nhất trong hệ thống nhân vật của Nam Cao. Trong nhân vật này nam Cao đã ưu ái, thương xót và trân trọng, do bị xã hội bần cùng hoá, lưu mạnh háo để rồi trở thành “một con quỷ” của làng Vũ Đại nhưng Nam Cao đã phát hiện và thấu hiểu được sau cái bộ dạng xấu xí đó là một nỗi khao khát được sống trẻ lại làm người, được làm là chính mình những chính xã hội đó đã đẩy họ vào tình cảnh ngày hôm nay, chính cái xã hội đó đã giết chết tâm hồn và bản chất vốn có của họ, nhưng nam Cao vẫn để một sự ưu ái cho Chí là cho Chí được gặp Thị Nở-một nhân vật rất quan trọng trong việc giúp Chí hồi sinh trở lại làm người, và cái chết của Chí cũng là một điều đặc biệt đó là cái chết của Chí Phèo chính là sự hồi sinh con người lương thiện trong Chí Phèo và muốn để lại trong mắt người đọc là một hình ảnh Chí Phèo lương thiện và dám đứng lên đòi quyền sống cho mình có lẽ đây là sự ưu ái của tác giả muốn dành cho Chí Phèo. Các nhân vật khác trong tác phẩm của Nam Cao cũng vậy có những nhân vật chao đao, ngả nghiêng hoặc thậm chí có thể xa ngã trên con đường lưu manh hoá nhưng đến cuối cùng họ vẫn đứng vững trên mảnh đất con người và trở về với nhân cách và phẩm chất cao quý và vốn có của họ và nếu có chết họ cũng chết ở tư thế làm người.

=> Đây có lẽ là điểm đặc sắc nhất trong xây dựng hình tượng người nông dân của Nam Cao và cũng thể hiện niềm tin của nhà văn vào phẩm chất cao quý, vẻ đệp tâm hôn và nhân cách vốn có của con người.

Thêm
  • Like
Reactions: Phong Cầm
3K
1
0
Viết trả lời...