Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.118)


I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:


II. THÂN BÀI

1. Khái quát

1.1. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
Trường ca “ Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị- Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc và được in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, giúp họ thấy được vai trò, sứ mệnh của thế hệ mình, từ đó xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc.

1.2. Nội dung đoạn trích “Đất nước"
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về đất nước nên hình ảnh đất nước, Tổ quốc hiện lên văn học thật muôn màu muôn vẻ. Các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm thường thể hiện vẻ đẹp đất nước bằng những hình ảnh hoành tráng, kỳ vĩ, mỹ lệ hay gắn đất nước với một thời điểm lịch sử cụ thể. Điển hình như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước bằng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)

Hoàng Cầm gắn hình ảnh đất nước với cuộc kháng chiến chống Pháp:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

(Bên kia Sông Đuống - Hoàng Cầm)

Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước đã thể hiện những cảm nhận rất mới mẻ, sâu sắc. Nhà thơ đã chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc; giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lối trò chuyện thân mật; hình ảnh và ngôn từ giản dị mang đậm màu sắc dân gian và viết về đất nước trong một không gian và thời gian rộng. Từ chỗ cảm nhận đất nước ở ba chiều là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lí và chiều sâu về văn hóa phong tục nhà thơ đi đến khẳng định tư tưởng có tính then chốt: Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

1.3. Bố cục Đoạn trích gồm hai phần:
- 42 câu đầu: Cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn ở các phương diện nhiều mặt: địa lý, lịch sử, văn hoá, tâm hồn và lối sống.Từ đó nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước.
- 46 dòng cuối: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.

2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Giới thiệu đoạn thơ
Đoạn thơ gồm 9 câu thơ đầu này là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về Đất nước và để trả lời cho các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước tồn tại ở đâu? và quá trình lớn lên của đất nước như thế nào?

2.2. Hai câu thơ đầu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Cội nguồn thiêng liêng của Đất nước (Đất nước có tự bao giờ)
Trong hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước để trả lời cho câu hỏi "Đất nước có từ bao giờ?". Với cách mở đầu rất tự nhiên, nhà thơ khẳng định đất nước đã có từ trước khi ta sinh ra, khi ta lớn lên và biết nhận thức về thế giới quanh mình thì đất nước “đã có rồi”. Không thể trả lời chính xác rằng đất nước có tự bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm đã mượn cách mở đầu của truyện cổ tích "ngày xửa, ngày xưa" để nói về cội nguồn của đất nước. Vận dụng ngôn từ một cách độc đáo, sáng tạo, nhà thơ không chỉ cho thấy đất nước chắc chắn đã có từ cái thuở xa lắc xa lơ nào đó, từ rất lâu đời mà còn gợi ra một không gian cổ tích, thần thoại, khiến cội nguồn đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu. Đất nước mình là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với biết bao câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm tâm hồn cho ta để lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” và bốn chữ "ngày xửa, ngày xưa" vang lên đầy tự hào góp phần khẳng định sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)

2.3. Bảy câu thơ: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
... Đất nước có từ ngày đó
Đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người (Đất nước tồn tại ở đâu?)
Khi nói về đất nước người ta cũng thường đặt ra các câu hỏi như "Đất nước là gì?" và "Đất nước tồn tại ở đâu?" và rồi thường tự cho rằng đất nước là cái gì đó cao siêu, trừu tượng khó định nghĩa và khó nắm bắt. Nhưng ở đoạn thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã cho chúng ta thấy đất nước thiêng liêng, kì diệu nhưng không ở đâu xa, trái lại gần gũi, thân thiết đến bất ngờ.
* Đất nước là những người thân yêu nhất: Đất nước không ở đâu xa mà là những người thân yêu nhất như bà, cha và mẹ. Là hình ảnh người bà với "miếng trầu bà ăn", là hình ảnh người mẹ với "câu chuyện mẹ kể" và "tóc mẹ thì bới sau đầu", là cả cha và mẹ trong câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Không phải ngẫu nhiên khi viết về đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại ba lần nhắc đến hình ảnh người mẹ và nhiều nhà thơ khác cũng thường so sánh hình ảnh đất nước, tổ quốc với hình ảnh người mẹ. Hình ảnh tổ quốc trở thành mĩ từ thật đẹp trong thơ Chế Lan Viên khiến tác giả cho rằng mình đã đi nhưng cần vượt nữa để được gặp lại bà mẹ tổ quốc: "Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương". Nhà thơ Tố Hữu lại liên tưởng đất nước giống như hình ảnh bà mẹ gánh gồng, tảo tần:
Việt Nam, Ôi tổ quốc thương yêu!
Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều,
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng".
(Chào xuân 67 - Tố Hữu)
* Đất nước là những gì bình thường, bình dị nhất xung quanh cuộc sống của mỗi con người: Đất nước không cao siêu trừu tượng mà có thể đơn giản là câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, có trong những phong tục tập quán, trong cái kèo cái cột, thậm chí có trong những thứ nhỏ bé như hạt gạo...
- Đất nước gắn với những phong tục, tập quán từ bao đời của người Việt Nam như tục ăn trầu, tục bới tóc sau đầu:
+ Tục ăn trầu: Hình ảnh miếng trầu từ xưa đến nay rất quen thuộc với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. Người Việt Nam có câu "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Miếng trầu không chỉ xuất hiện trong các dịp ăn hỏi, cưới xin, hội hè, ma chay... mà còn được dùng mời khách đến nhà để tỏ lòng hiếu khách. Hình ảnh “miếng trầu” cũng là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, trong ca dao, thơ ca...
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Miếng trầu trở thành hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung, son sắc trong tâm hồn dân tộc. Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Như vậy, trong miếng trầu dung dị ấy là mấy ngàn năm văn hóa, văn hiến của đất nước. Từ phong tục ăn trầu, người Việt còn có tục nhuộm răng đen:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
+ Tục bới tóc sau đầu: Câu thơ "Tóc mẹ thì bới sau đầu" không chỉ gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục lâu đời của người Việt mà còn làm hiện lên hình ảnh người mẹ với búi tóc sau gáy, làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.
- Đất nước còn có trong đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc, có trong tình nghĩa sâu nặng của cha và mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Có lẽ câu thơ về tình nghĩa sâu nặng ấy được gợi ý từ một câu ca dao đẹp:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng son sắc, mặn nồng.

2.4. Hai câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
và: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất nước lớn lên, trưởng thành
- Không dừng lại ở ở việc tìm về cội nguồn, sự tồn tại mà nhà thơ còn nỗ lực hình dung quá trình lớn lên, trưởng thành của đất nước. Phải chăng, khởi thủy và quá trình lớn lên của Đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Để nói hết được những điều đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc đến hình ảnh cây tre, vốn từ lâu đã trở nên quen thuộc trong tâm thế của mỗi người Việt Nam:
"Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín"
(Cây tre Việt Nam - Thép Mới)
Hình ảnh cây tre đã đi vào truyền thuyết Thánh Gióng với người anh hùng nhổ tre đánh giặc. Hai chữ “lớn lên” gợi liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Ngà mới lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Cây tre vì thế đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước. Cây tre còn trở thành biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam thật thà chất phác, cần cù, chăm chỉ, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình... Bởi vì:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

Câu thơ "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" như vậy đã thể hiện quá trình lớn lên của đất nước. Đất nước lớn dần lên trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ bờ cõi, trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ của cha ông trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
- Đất nước còn bắt đầu và lớn mạnh dần lên trong quá trình lao động lam lũ, vất vả để làm ra hạt lúa, hạt gạo, làm ra những giá trị vật chất cho đất nước thể hiện rõ qua câu thơ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Thành ngữ "Một nắng, hai sương" đã cho thấy đất nước lớn lên trong nhọc nhằn, lam lũ. Các động từ “Xay - giã - giần - sàng” là những hoạt động trong quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
Cũng vì vậy mà nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và khái quát quá trình đi lên đầy gian lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)

3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết(Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng rung cảm mãnh liệt, sự tâm huyết và tài năng nghệ thuật đặc biệt đã sử dụng một cách đầy sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian như: sử dụng cách mở đầu của chuyện cổ tích, sử dụng thành ngữ, nhắc đến các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, hình ảnh ca dao, phong tục tập quán để thể hiện quan niệm đất nước rất gần gũi thân thiết với mỗi con người. Những cấu trúc được lặp đi lặp lại như "Đất nước có từ...", "Đất nước có trong...", "Đất nước bắt đầu...", "Đất nước lớn lên..." góp phần thể hiện quá trình sinh thành, tồn tại và lớn lên của đất nước, trải qua thời gian và trong tiềm thức của con người. Cùng với thể thơ tự do, phóng túng, câu thơ dài ngắn không đều; ngôn từ, hình ảnh giản dị, gần gũi; nhịp điệu linh hoạt; chất trữ tình kết hợp với chất chính luận, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã tạo nên những câu thơ hấp dẫn, cảm động... Những đặc sắc nghệ thuật này đã tạo ra vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và thể hiện sâu sắc hơn những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ, độc đáo của ông về đất nước. Đoạn trích "Đất nước" giúp chúng ta thấy yêu và gắn bó hơn với quê hương, đất nước mình. Từ đó ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình với đất nước.

St
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
2K
1
0
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”

Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…

Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”

Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng "Đất Nước" thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

"À... thì ra đất nước lại gần ta đến như thế...", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo. Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:

“Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”

(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)

Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm...

Đối với câu hỏi hồn hậu: “Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.

Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi...
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:

“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”

(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)

Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm… Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:

“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”

(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)

Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.

Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:

“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”.

Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.

Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:

“ Cái kèo cái cột thành tên”

Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.

Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…

Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ... Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:

“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua ... Vậy là:

“Đất Nước có từ ngày đó…”

Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.

Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.

Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.

Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.

Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng, thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” (Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “Dù đi đâu... Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
---------------
Cre:st
Thêm
1K
0
0
Để hiểu và làm bài nghị luận hay thì chúng ta cần nhớ nhiều dữ liệu văn học. Bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có chiều sâu và rất hợp với những cây viết hiểu biết sâu, dẫn chứng nhiều. Dưới đây là một số dẫn chứng hay mọi người cùng tham khảo nhé.

Từ câu thơ “Khi ta...” đến câu thơ “... hóa núi sông ta”.

- Đoạn :
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Liên hệ với câu ca dao :

“Tay bưng dĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.

- Đoạn :

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”.

Liên hệ với câu ca dao :

“Cày bừa đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

- Đoạn :

“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”.
Vì đây là lời khẳng định sự đoàn kết ruột thịt và gắn kết của nhân dân cho nên có thể liên hệ với ca dao :
+ “Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

+ “Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.”

- Đoạn :

“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

Liên hệ với ca dao :

+ “Dẫu ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười”.

+ “Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”.

Liên hệ với “Tiếng hát sang xuân” của Tố Hữu để nói đến việc bao thế hệ đã sống, chiến đấu và truyền lại tình yêu Tổ quốc cho cháu con :

“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành...”.

- Đoạn :

“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”.

Liên hệ với bài thơ “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên :

“Ôi Tổ quốc ! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc ! Nếu cần ta chết :
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.

- Đoạn :

“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”.

Lời nhắn nhủ tăng tiến dần từ gắn bó đến san sẻ và cao nhất là “hóa thân” có nghĩa là cống hiến hi sinh cho đất nước. Giống như hình ảnh của chú bé Lượm trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu:

“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “Thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo ?”.

Hay hình ảnh của nữ thanh niên xung phong trong bài “Khoảng trời, hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ :

“Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yêu trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hóa thành những làn mây trắng ?”,

Hoặc liên hệ với “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân :

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đứng bắn
Máu Anh phun theo lưa đạn cầu vồng.”

- Đoạn :

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”.

Có thể liên hệ với “Đất nước” của Bằng Việt để nói đến các thế hệ đã nối tiếp nhau cống hiến cuộc đời mình để dựng xây đất nước :

“Những thế hệ chiến tranh sẽ còn nguyên âm hưởng
Trong thế hệ hòa bình nối tiếp lớn theo nhau
Gió lại thổi vào thu... Qua tất thảy
khổ đau và vui sướng,
Vị ngọt vẫn theo ta, từ Tháng Tám ban đầu !”.
Hay liên hệ với hai câu thơ khác của Bằng Việt :
“Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai”.

- Đoạn :

“Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

Liên hệ với câu tục ngữ :

“Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

Hoặc bài thơ “Mỗi người dân Việt Nam – một cọc nhọn Bạch Đằng” của Phạm Xuân Dũng :

“Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Sóng biển kia dìm xác giặc bao lần”.

- Đoạn :

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

Liên hệ với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi :

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;”.

Liên hệ với câu thơ của Phan Bội Châu :

“Dân là dân nước
Nước là nước dân”.

Nếu bạn có những dẫn chứng hay hơn, dễ nhớ hãy bổ sung cùng mình nhé!
Thêm
462
0
0
Đề bài:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét về phong cách trữ tình, triết luận của Nguyễn Khoa Điềm.


Bài làm tham khảo:

Từ khi chập chững bước vào nghề văn đến khi quần thảo mọi ngóc ngách của địa hạt thơ ca, những vần thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn giữ vẹn nguyên chất trữ tình triết luận riêng biệt. Một trong số những tác xuất sắc của Nguyễn Khoa Kiềm khiến độc giả nhớ mãi là trường ca “Mặt đường khát vọng”, đặc biệt là đoạn trích “Đất Nước” mà đặc sắc trong đó có đoạn:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Nhưng họ đã làm ra đất nước.”

Đoạn trích này đã để lại những cảm xúc và tư tưởng sâu sắc về một Đất Nước của nhân dân. Đồng thờ đoạn trích cũng cho thấy rõ nét phong cách sáng tác trữ tình, triết luận vốn có của Nguyễn Khoa Điềm.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức vì đất nước, con người Việt Nam. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Đó là thời điểm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang trải qua những năm tháng đầy thử thách, khốc liệt. Tác giả đã thể hiện sâu sắc sự thức tỉnh của tuổi trẻ các vùng bị tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của kẻ thù, hướng về nhân dân, sẵn sàng và tự nguyện gánh vác sứ mệnh đấu tranh giải phóng dân tộc. Trường ca gồm chín chương, đoạn trích "Đất nước" là phần đầu chương V. Đoạn trích đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ về Đất Nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra Đất Nước.

Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất Nước của nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất Nước gắn liền với các bậc quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi. Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc”. Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với Đất Nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất Nước đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc, tuy nhiên chỉ đến chương “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước của nhân dân mới được lý giải một cách thấu đáo, toàn diện trên các bình diện lịch sử, địa lý và văn hóa. Bước vào những trang thơ “Đất Nước” ta thấy Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa soi ngắm thật kỹ thật sâu vào các tầng địa lý, lịch sử và văn hóa của Đất Nước. Trước hết nhân dân là người làm nên không gian địa lý của dân tộc:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm đẫm những huyền thoại, mỗi một hiện tượng văn học dân gian đều nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất Nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều chứa đựng những ước mơ của con người. Đằng sau tình yêu với Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa lý không còn là những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác mà đó là “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của tổ quốc bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích huyền thoại nhằm giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa núi sông, huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một Đất Nước thủy chung, tình nghĩa. Đó còn là sự hiện thân của những người học trò nghèo thành núi Bút non Nghiên làm nên một Đất Nước nghìn năm văn hiến. Những ao đầm để lại như dấu tích của đứa trẻ lên ba là tiếng nói của lòng yêu nước, tiếng nói đòi đi đánh giặc.... Đó là những địa danh lấy tên của những cá nhân bình dị nhưng là tấm gương sáng đầy nhân văn: Bà Đen, Bà Điểm, Ông Đốc, Ông Trang. Trên khắp Đất Nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những cái tên bất tử. Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí Nam, trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng liêng, cao cả vừa gần gũi. Trong không gian địa lý Đất Nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam. Điệp từ “góp” và thán từ “ôi” được sử dụng là sự nhấn mạnh, trân trọng của nhà thơ nhằm ghi nhận và ca ngợi những đóng góp của nhân dân trong hình hài đất nước. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm thắng cảnh thiên nhiên. Nhân dân thổi hồn vào cảnh vật vô tri để thiên nhiên lưu giữ câu chuyện về phần đời của họ. Tự hào và hãnh diện, trân trọng và ngợi ca, từng ý thơ bật lên từ tấm lòng của một người con đang chiêm nghiệm về quê hương xứ sở, góp thêm vào mảng thơ đề tài Đất Nước những phát hiện mới mẻ và giàu tính nhân văn.

“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” (Nguyễn Khải) Nguyễn Khoa Điềm đã đưa được tình cảm vào quá trình sáng tác của mình bằng cách chuyển sang giọng điệu tâm tình với “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta:

“Em ơi em
Hãy nhìn từ rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”

Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự đóng góp của những con người bình dị, vô danh trong việc làm nên Đất Nước muôn đời. “Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình, trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là biểu tượng cho đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều mang những đức tính chung của con người lao động như sự cần cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Những con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị, lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm thì chính họ trở thành những người anh hùng cứu nước. Khi có giặc người con trai ra trận, người con gái ở hậu phương cũng góp sức lực, đảm đang nuôi con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ mái nhà và bảo vệ quê hương. Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam: sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này sang đời khác. Chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử - truyền thống lâu đời của đất nước. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước:

“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những con người anh hùng vô danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết bình tâm, cống hiến và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước. Họ không mong cầu lưu danh sử sách nhưng công lao của họ to lớn, để lại ý nghĩa muôn đời như Nguyễn Trọng tạo từng khẳng định:

“Sức nhân dân xẻ núi lấp sông
Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa
Con đường mở qua lòng dân rộng mở
Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che...”

Như Huy Văn từng nhận xét: “Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý.” Nhận định đã khẳng định phong cách nghệ thuật đậm chất trữ tình, triết luận vốn có của Nguyễn Khoa Điềm. Triết luận có thể hiểu đơn giản là triết lý và lý luận. Người nghệ sĩ này đã khai tác, bổ xẻ Đất Nước trên nhiều phương diện khác nhau, ở đây là địa lý và lịch sử để phân tích và chinh phục trái tim bạn đọc bằng những đoạn liệt kê địa danh, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Các dòng thơ của Nguyễn Khoa điềm cũng có kết cấu rất chặt chẽ, câu trước khái quát, câu sau làm rõ hoặc làm rõ trước rồi khẳng định ở cuối đoạn thơ (liệt kê các địa danh gắn văn văn hoá, con người rồi khẳng định triết lý Đất Nước của nhân dân ở hai câu: “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”). Một đặc điểm nữa trong phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm là chất trữ tình, tức là sự mềm mại, uyển chuyển, tình cảm của thơ. Chất chữ tình thể hiện rõ ở một số yếu tố như nhân vật “em”, những câu cảm thán: “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy”, những câu gọi: “Em ơi em” tạo nên những cảm xúc lồng ghép tránh sự khô cứng của tính triết luận. Như vậy, phong cách của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới độ chín của sự cân bằng giữa cảm xúc và lý trí, tạo nên những vần thơ vừa thắm đượm cái tình vừa đầy sự thuyết phục và tin tưởng. Có phải chăng sự khẳng khái của một người chiến sĩ đã cho Nguyễn Khoa Điềm những tư duy và đường hướng triết luận rõ ràng trong thơ ca, và cũng có phải vì là người con xứ Huế, mang tâm hồn của mộng mơ nên ông vẫn da diết trong những trang thơ của mình?

Bằng những câu thơ dài ngắn đan xen, nhà thơ đã cho ta thấy một sự khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân. Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng”...cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình. Với kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do, câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thơ giàu sức gợi cảm và khái quát cao, thủ pháp liệt kê cùng với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình...đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi...Nhưng, có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc. Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Từ đó, đoạn thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý, lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.

Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước" của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại.
Thêm
832
0
0
Đề bài:

Đọc đoạn trích:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những ngày tháng mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)

Phân tích đoạn trích. Từ đó, làm rõ tình yêu quê hương đất nước và tình yêu đôi lứa luôn đan xen hài hòa qua trích đoạn “Đất Nước” nói chung và trong đoạn thơ trên nói riêng.


Bài làm:

Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ”. Và ai đó cũng từng tự hỏi: “Có mối tình nào nặng sâu hơn mối tình Tổ quốc?”. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng mũi Cà Mau”. Đặc biệt, vào cuối năm 1971 từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài đất nước qua trích đoạn “Đất Nước”. Từ những cảm nghĩ về Đất Nước, tác giả đi đến những suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi cá nhân, qua đó làm rõ tình yêu quê hương đất nước và tình yêu đôi lứa được thể hiện trong đoạn trích:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những ngày tháng mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước, sớm tham gia cách mạng và từng bị địch bắt giam. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải kể đến “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn ác liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng” để góp thêm tiếng thơ hay về đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.
Tiếp tục với dòng chảy của cảm xúc, Nguyễn Khoa Điềm có viết trong những áng thơ của mình:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Tác giả đã có những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà hiện diện trong mỗi chúng ta. Điệp ngữ “cầm tay” được nhắc lại hai lần, thể hiện một tình cảm đẹp: khi hai đứa “cầm tay” là khi hai đứa hiểu nhau, yêu thương nhau và Đất Nước cũng như đẹp thêm, hài hòa thêm “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Nói cách khác, tình yêu của anh và em đã hòa vào tình yêu Tổ quốc.

“Anh yêu em như anh yêu Đất Nước
Vất vả gian lao tươi thắm vô ngần”
(Nguyễn Đình Thi)

Trong anh, trong em, trong mọi người đều có một phần đất nước. Để rồi khi chúng ta cầm tay mọi người thì “Đất Nước vẹn tròn to lớn” một đất nước lớn lao, cao cả, thiêng liêng và cũng chính đất nước đã gắn kết cả một cuộc đời dân tộc “nơi dân mình đoàn tụ”. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm khiến đất nước gắn kết, tạo mối quan hệ thân thiết giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng với cái chung và lớn hơn nữa là cả các thế hệ với nhau. Như vậy đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm mà ẩn sâu trong đó là lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc.

Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm đến khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”

Giọng thơ tha thiết, sâu lắng với tiếng gọi “Em ơi em” như một hình thức tâm tình của đôi lứa yêu nhau tạo những lời thơ bay bổng, thấm thía mà cũng chính là lời tự nhủ, lời tự dặn mình. Nguyễn Khoa Điềm đã thơ hóa những vấn đề chính trị, khiến cho tính chính luận không hề khô khan, không còn mang màu sắc giáo huấn mà là lời tự nhủ, tự dặn chân thành xuất phát từ trái tim. Tác giả lại đưa ra những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước trong câu thơ: “Đất Nước là máu xương của mình”. Có những tượng đài bất tử về đất nước xuất hiện trong thi ca nhưng khi nói đất nước về đời người thì có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước không ở đâu xa, đất nước hóa thân kết tinh, hiện diện trong sự sống, cuộc đời của mỗi người. Chính vì thế, nghệ thuật điệp cấu trúc “phải biết” đã nhấn mạnh, khắc sâu ý thức về trọng trách của mỗi người. Tuy nhiên, với lời thơ ngân vang, giọng thơ tha thiết, tác giả khiến cho người đọc cảm thấy rằng đây không phải là mệnh lệnh mà chính là tinh thần tự giác một cách cao nhất, mệnh lệnh từ trái tim của “những người biết yêu thương tha thiết” nhưng cũng rực lửa căm thù. Hàng loạt những động từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” xuất hiện dồn dập ở mức độ tăng tiến lại càng khơi dậy khát vọng, lí tưởng sống, lẽ sống cao đẹp đối với đất nước: Phải biết cống hiến, hy sinh, hóa thân vào dáng hình xứ sở, quê hương, đất nước để tạo nên một đất nước trường tồn đến ngàn đời sau. Tới đây ta chợt nhớ đến tình cảm của Xuân Diệu, một tình yêu Tổ quốc đến tột cùng tồn tại nơi “dòng huyết chảy”:

“Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy”
(Xuân Diệu)

Hay ở thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”

Đọc những vần thơ của Nguyễn Khoa điềm ta cảm nhận được tình yêu quê hương Đất Nước và tình yêu đôi lứa luôn đan xen hài hòa. Ở trong thi phẩm Đất Nước Nguyễn Khoa điềm đã thể hiện tình yêu của mình đối với quê hương Đất Nước trên nhiều bình diện: Không gian địa lý, thời gian lịch sử, bề dày văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng cốt lõi Đất Nước của Nhân Dân đồng thời gửi gắm một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt đối với Đất Nước. Tình yêu Đất Nước không phải một cái gì đó quá to lớn thể hiện bằng những giá trị vật chất mà đôi khi chỉ là những điều bình dị, thân thuộc gắn bó trong cuộc sống hàng ngày, tình cảm gia đình, tình yêu cội nguồn: “Cái kèo, cái cột, hạt gạo, miếng trầu, gừng cay, muối mặn, bà, cha mẹ, dân mình……”. Tình yêu Đất Nước còn gắn liền với tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh sắc quê hương Đất Nước từ không gian hẹp cho đến không gian rộng lớn, từ những cảnh sắc đời thường cho đến những di tích, danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền: “nơi anh đến trường, nơi em tắm, nơi dân mình đoàn tụ, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, Núi Bút, non Nghiên, Cửu Long….”. Ngoài ra tình yêu nước còn gắn liền với niềm tự hào về lịch sử, truyền thống cha ông, vẻ đẹp văn hóa, tâm hồn, cốt cách dân tộc thấm nhuần nhận thức Nhân Dân - chủ thể sáng tạo giữ gìn và bảo vệ Đất Nước qua trường kì lịch sử: “truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, truyền thuyết vua Hùng vào ngày giỗ tổ, sự hóa thân của nhân dân vào hình sông hình bể….”. Tình yêu đất nước còn được thể hiện trong việc vận dụng hiệu quả, sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian: tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, cổ tích… ngoài ra còn tình yêu nước ấy còn gắn liền với ý thức trách nhiệm với tổ quốc, tinh thần đoàn kết sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của dân tộc:

“...Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.

Tình yêu đất nước và tình yêu lứa đôi đan xen hài hòa tạo nên tình yêu cao đẹp của con người Việt Nam trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Chủ thể trữ tình trong Đất Nước là tiếng lòng của người con trai nói với người con gái, một người yêu nói với một người yêu, người chồng nói với người vợ nên lời trái tim chạm đến trái tim đọng lại tâm hồn và xốn xang nơi xúc cảm. Giọng điệu tâm tình thủ thỉ, vì thế triết luận về đất nước mà không khô khan, triết luận về đất nước mà vẫn đậm đà chất trữ tình. Đất Nước hiện lên vừa lớn lao, cao cả vừa bình dị gần gũi, Đất Nước có trong anh, trong em, trong mỗi chúng ta, trong mỗi kỉ niệm của tình yêu đôi lứa...:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”

Sự sống của mỗi cá nhân luôn là sự thể hiện cụ thể sinh động hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam luôn thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của cộng đồng từ hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, ngôn ngữ ta trò chuyện tâm tình, những đạo lý nghĩa tình khi ứng xử….Cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó máu thịt với đất nước, hài hòa, gắn kết giữa tôi và ta, riêng và chung, cá nhân và cộng đồng:

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn”

Hình ảnh cầm tay là sự biểu hiện cụ thể của mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Tiếp nhận những giá trị bền vững thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm mấy nghìn năm của Đất Nước, tình yêu lứa đôi của anh và em luôn hài hòa nồng thắm thủy chung son sắt gắn kết với tình cảm cộng đồng tạo nên sự vẹn tròn to lớn. Tương lai hạnh phúc của lứa đôi nằm trong tương lai hạnh phúc của Đất Nước:

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa”

Để làm nên những thành công trong đoạn thơ trên Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng rất nhiều những thủ pháp nghệ thuật mà tiêu biểu như bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “cầm tay”, “phải biết - phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người nhất là thế hệ trẻ về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ.

“Đất Nước” là một đoạn trích hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Đặc biệt là đoạn thơ trên đã nhắc nhở ta ý thức trách nhiệm đối với Đất Nước. Những năm tháng hào hùng của dân tộc gắn bó trong những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm đến vậy. Và tư tưởng mà Nguyễn Khoa Điềm truyền tải đến người đọc chẳng phải giống như Nguyễn Đình Thi đã từng ghi lại trong một thi phẩm của mình hay sao:

“Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.”

Nguồn: Sưu tầm
Thêm
651
0
0
Mỗi tác giả có một phong cách viết riêng biệt tạo nên dấu vân tay trong sáng tác của bản thân mình. Chất liệu dân gian trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là dấu vân tay ấy, là cá tính sáng tạo- nét phong cách nghệ thuật của tác giả, góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn ở thơ ông. Cùng tìm hiểu bài viết: Chất liệu dân gian trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để khám phá sâu nét đặc sắc riêng biệt ấy.

chất liệu dân gian trong đất nước.jpg

(Bài viết: Chất liệu dân gian trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm| Hữu Sơn)
Xem thêm các bài viết liên quan tới bài thơ Đất nước:
Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích tác phẩm "Đất nước” mới nhất
Ôn tập tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất
Quan điểm mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước qua bài thơ cùng tên
Bình giảng Đất nước

Bình luận về phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ tài năng thời chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta .Đọc các bài thơ được đưa vào học trong chương trình phổ thông vài thập niên gần đây của ông như: Mẹ và Quả; Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ; đặc biệt là bài thơ Đất Nước trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (Ngữ văn 12), có thể khẳng định rằng: khai thác chất liệu văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian là “dấu vân tay”, là cá tính sáng tạo- nét phong cách nghệ thuật của tác giả, góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn ở thơ ông bởi: “sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam”.

Bài thơ Đất nước trích phần đầu chương V bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, được sáng tác tại chiến khu Trị -Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo ,tư tưởng bao trùm bài thơ là: “ĐẤT NƯỚC LÀ CỦA NHÂN DÂN”. Theo đó bài thơ được sáng tác theo phương thức trữ tình- chính luận, có kết cấu 3 phần:
  • phần 1: Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?
  • phần 2: Đất Nước là gì?
  • phần 3: Đất Nước do ai làm ra?
Khác với các nhà thơ khác viết về Đất nước -Tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và quy chiếu Đất Nước dưới 3 phương diện: thời gian (chiều dài) ; không gian (chiều rộng); văn hoá (chiều sâu), nhất là chiều sâu văn hoá dân tộc.

Trước hết, cần hiểu về khái niệm chất liệu văn hoá dân gian, theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa.Theo đó, chất liệu văn hoá dân gian là những giá trị, những sản phẩm cả vật chất lẫn tinh thần (văn hoá vật thể và phi vật thể ,đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc .

Từ khái niệm ấy, soi chiếu vào bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy nhà thơ đã rất ý thức và có nhiều tìm tòi, khai thác vận dụng sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hoá để làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước là của Nhân Dân, chứ không phải của các vương triều như quan niệm phong kiến ngày xưa .

Ở phần đầu bài thơ (Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì? ), nhà thơ tập trung khai thác chất liệu văn hoá dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hoá về phong tục, sản xuất , đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Cụm từ “ngày xữa ngày xưa” là mô tuýp mở đầu quen thuộc của truyện dân gian. Hai hình ảnh “miếng trầu” bà ăn và “búi tóc” sau đầu của mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ là tập tục lâu đời ở người Việt khác xa với người Hán, mà còn gợi ra bao giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt . Gắn với mái tóc người phụ nữ có bao nhiêu câu tục ngữ ca dao: “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừ chừng em búi/ Để chi dài bối rối lòng anh”… Hay tục ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong nó bao nhiêu giá trị sâu xa .Miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu trong các nghi lễ trang trọng: hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao: “miếng trầu là đầu câu chuyện”; miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em: “miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; miếng trầu còn là vật giao duyên tình chồng –vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phụng, trầu mình lấy ta…” Chúng ta có cả một “văn hoá trầu” ! Các hình ảnh “cái kèo cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hoá vật chất gắn với thói quen ở- ăn của người Việt và cả nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay- muối mặn” không chỉ phản ánh văn hoá “ẩm thực” của dân tộc ta mà còn gợi ra lối sống tình nghĩa thuỷ chung, được khai thác qua các câu ca dao- dân ca: “Tay bưng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay, muối măn xin đừng quên nhau”; hoặc: “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn / Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”. Thật là xúc động và thấm thía .

Sang phần 2 “ Đất Nước là gì?” nhà thơ lại có cách khai thác ,tìm tòi các chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp các giá trị văn hoá truyền thống với hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của chúng ta hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu: “Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..” nhà thơ muốn chuyển tải thông điệp: Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người, và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi”. Hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc; con cá ngư ông mống nước biển khơi” không chỉ bộc lộ tình yêu với quê hương Bình –Trị -Thiên của mình, mà còn để chỉ ra rằng: đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược; rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em .

Đáng chú ý là ở đoạn cuối phần thơ này, tác giả tập trung khai thác các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân- Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt là “con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên”. Câu thơ : “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”, không chỉ nhắc nhớ về các thế hệ vua Hùng (18 đời) có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua câu tục ngữ: “Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha.

Sang phần 3 –phần thể hiện tập trung cảm hứng chủ đạo bài thơ : “Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm lại có cách khai thác, tìm tòi sáng tạo .

Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ đã tập trung tìm tòi khám phá sự giao thoa hoà quyện các truyền thuyết dân gian với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá. Truyện Sự tích đá Vọng Phu vả chăng được dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước, và để dân gian thổi vào đó tấm lòng thuỷ chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Rồi “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy . Chủ ý là khẳng định vẽ đẹp trong tình cảm vợ chồng luôn gắn bó son sắt bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng; đất Tổ Hùng Vương” lại khái thác các truyền thuyết dân gian : truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước và giữ nước .Một loạt tên các người dân: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ (cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen, chợ bà Điểm…)

Để khẳng định nhân dân là người gánh đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc, nhà thơ chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn này ông lặp lại hai lần con số 4000 năm (bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người). Thông điệp ngắn gọn nhân dân là người viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 ngàn năm của dân tộc . Câu thơ “Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc bài câu ca dao: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ ra đời thời Lê – Mạc tương tàn. Câu thơ: “Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng ,bất khuất của phụ nữ Việt Nam…

Ở đoạn khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên . Đó là nên văn minh nông nghiệp : “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ;họ chuyền lửa qua mỗi nhà., họ đặp đập be bờ…” Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng ,tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Đoạn thơ cuối nhà thơ khai thá chiều sâu ý nghĩa trong nhiều bài ca dao –dân ca. Cụm từ “yêu em từ thuở trong nôi” lấy từ bài ca dao : “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” để khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thuỷ chung của người Việt . Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” muốn nhắn nhủ với chúng ta phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “Biết trồng tre…Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao: “Thù này ắt hẵn còn lâu/ Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què” là để nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù ta đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Tất cả góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta.

Tìm hiểu chất liệu VHDG trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giả qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời khẳng định một chân lí “ VHDG là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ.

Hữu Hợp
Thêm
Chất liệu dân gian trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
839
2
0
Đất nước là một đề tài muôn thưở trong thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước được khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp khác nhau từ đa dạng góc nhìn. Tố Hữu tìm thấy hình hài đất nước qua bóng dáng người anh hùng, người mẹ; Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh kính yêu; Nguyễn Trãi lại tự hào về triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”,... Còn đối với Nguyễn Khoa Điềm vẻ đẹp của đất nước lại nằm trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Đó cũng chính là nét mới trong cách xây dựng hình tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm hướng tới trong tác phẩm “Đất Nước”.

✅ Phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm (dàn ý + 5 mẫu) ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐.png

Đất Nước. Ảnh Pinterest.

Đề: Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

Hướng dẫn phân tích chi tiết:
Bài làm cần phải đảm bảo đủ 4 luận điểm chính sau đây:

1. Câu thơ mở đầu, nhà thơ đã hồi đáp cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ? ” bằng cách khẳng định:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

- Đất nước có từ bao giờ? Đất nước bắt đầu từ đâu? - Nguồn gốc của Đất Nước vẫn luôn là một dấu hỏi lớn thử thách những nhà khoa học, lịch sử học, khảo cổ học. Không ai trong chúng ta biết được đất nước có từ bao giờ hay ai là người khởi thủy ra nó. Song, luôn tồn tại một sự thật hiển nhiên rằng: khi ta lớn lên thì “đất nước đã có rồi”.

- Nhà thơ khẳng định sự hình thành đất nước qua ba chữ “đã có rồi” khiến hình ảnh đất nước hiện lên sừng sững trước mắt người đọc. Theo Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác”. Nhà thơ tự hào, khẳng định sự lâu đời, trường tồn vĩnh hằng của đất nước “Từ vũ trụ đã có giang san” (Trương Hán Siêu), cách diễn đạt ấy còn mang đến ý niệm: Đất Nước là nguồn cội thiêng liêng, là máu thịt của mỗi con người.

- Hai chữ “Đất Nước” vang lên khẳng khái trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Không riêng gì câu thơ mà xuyên suốt cả tác phẩm hai chữ “Đất Nước” đều được viết hoa. Bàn về vấn đề này Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ rằng với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri mà đó là một nhân vật, là sinh thể có linh hồn và với cách viết này nhà thơ mới có thể bộc lộ hết nỗi niềm trân trọng với đất nước thiêng liêng.

- Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về yếu tố chính luận nhưng lại mang giọng điệu trữ tình qua cách xưng hô “ta” đầy thắm thiết. “Ta” ở đây vừa là nhân vật trữ tình vừa là chúng ta bao hàm cho cả dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô đã khiến cho vấn đề mang tính trừu tượng, lớn lao như đất nước trở nên thân thuộc, gần gũi. Lời thơ mở đầu thật giản dị mà trang trọng, tự hào biết bao.

2. Ba câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Điệp ngữ “Đất Nước” nhắc lại liên tiếp trong ba dòng thơ vừa thiêng liêng, trang trọng vừa tạo nên nhạc tính ngân nga, chất chính luận, trữ tình chắp cánh thăng hoa bay bổng diệu kỳ. Từ điệp ngữ này tác giả mở ra chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.

a. Đầu tiên nhà thơ đã sử dụng chất liệu dân gian để diễn tả sự ra đời của đất nước: đất nước có trong truyện cổ.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” như tấm vé thông hành, như con đò đưa ta quay về vùng đất tuổi thơ, làm sống dậy những kỉ niệm đẹp. Nơi đó có hình ảnh cô Tấm dịu hiền, có chàng Thạch Sanh dũng cảm, những ông bụt bà tiên với phép màu kì diệu sẵn sàng cứu giúp những con người lương thiện,... Những câu chuyện ấy như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng tới những vẻ đẹp “chân- thiện- mĩ” trân quý, để con người ta biết tin vào cái thiện, thêm yêu quê hương đất nước. Bởi truyện cổ nước ta hay lắm, nhân văn lắm mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động viết lên những vần thơ thật đẹp:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”​

Nhắc tới “ngày xửa ngày xưa” còn là nhắc tới cách lí giải hồn nhiên của nhân dân về sự hình thành và phát triển đất nước, về quá trình dựng nước và giữ nước. Vì “ngày xửa ngày xưa” là một trạng từ chỉ thời gian vô định, đâu ai biết được đó là ngày hôm nào, là năm bao nhiêu, điều duy nhất chúng ta biết là nó đã có từ rất lâu. Và đất nước có từ trong những câu chuyện xa xưa ấy nghĩa là đất nước còn xuất hiện từ xa hơn, lâu hơn. Qua đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống ông cha, về bề dày lịch sử, về kho tàng văn học văn hóa dân gian đặc sắc.

b. Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa”, Đất Nước trong Nguyễn Khoa Điềm còn được xác định qua một nét sống giản dị mà đậm đà bản sắc dân tộc của những bà, những mẹ với phong tục ăn trầu:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ phi lý nhưng lại cực kỳ hợp lý khi xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhắc về “Sự tích trầu cau” – một câu chuyện nhân văn về tình yêu đôi lứa và tình anh em keo sơn, được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Hai chữ “bây giờ’ chỉ thời điểm hiện tại, cũng là cách lí giải thật bình dị: Lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống không chỉ hiện diện trong chiều dài lịch sử mà cho đến tận bây giờ vẫn còn “miếng trầu bây giờ bà ăn”.

Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu không chỉ mang giá trị vật chất mà còn trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Đối với tuổi trẻ miếng trầu là biểu tượng cho tình yêu: giao duyên, miếng trầu cưới hỏi ... Đối với người già miếng trầu là biểu tượng của nghĩa tình. Và hơn thế nữa miếng trầu còn là nhịp cầu giao cảm giữa cháu con và cha ông, là biểu tượng tâm linh để hậu nhân bày tỏ tấm lòng thành kính với bậc tiền nhân. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:

“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Hoàng Cầm)​

c. Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc​

Một đất nước không thể thiếu đi những truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước như Bác từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.” Đến với thơ Nguyễn Khoa Điềm truyền thống ấy được gợi nhắc qua hình ảnh cây tre và truyền thuyết Thánh Gióng. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:

“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Nguyễn Duy)​

Hình ảnh cây tre song hành cùng thời gian, cùng con người Việt Nam trải qua bao thăng trầm từ thuở xa xưa đến nay. Dân tộc Việt Nam tự hào khi mang những phẩm chất đẹp như tre: giàu sức sống, thật thà, chất phác, bất khuất, kiên trung,... Cây tre ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường đánh đuổi giặc Ân khỏi bờ cõi Việt:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”
(Tố Hữu)​

Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Việt Nam khỏe khoắn, kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết quản ấm nóng cuộn trào trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Hai chữ “lớn lên” là cách nói gợi hình về quá trình trưởng thành của đất nước và hình ảnh Thánh Gióng lớn vụt lớn lên, là biểu tượng cho một dân tộc bé nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng. Đất nước kì vĩ, tráng lệ, lãng mạn, hào hùng đã được tái hiện như vậy đấy!

3. Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mĩ tục dân tộc Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

a. Đầu tiên là nếp sống giản dị trong đời sống người phụ nữ Việt Nam với phong tục búi tóc sau đầu

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Phong tục này bắt nguồn từ công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc thành búi sau gáy cho gọn gàng. Trải qua một thời gian dài, điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp mộc mạc, nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”​
b. Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy, sắt son:

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Lối sống coi trọng nghĩa tình, sống ân nghĩa thủy chung là vẻ đẹp truyền thống ngàn đời của dân tộc. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”​

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Gừng càng già càng cay, muối càng để lâu càng mặn, vợ chồng sống với nhau càng lâu thì nghĩa tình càng đong đầy. Qua gian nan, cơ cực tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc, khăng khít, bền chặt. Có lẽ vì vậy mà đất nước đã ghi lại dấu ấn của cha, của mẹ bằng “Hòn Trống Mái”, “núi Vọng Phu”,... như một cách riêng để khẳng định nghĩa tình son sắt ấy, là suối nguồn yêu thương chảy qua bao thế hệ.

c. Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động để sinh tồn

Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Câu thơ gợi nhắc truyền thống dựng nhà “kèo-cột” -một đặc trưng văn hóa Việt. Cái kèo có dạng tam giác cân là hệ thống gỗ kết nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc. Cột đẩy mái nhà lên cao còn kèo giữ chặt các cột lại với nhau tạo sự vững chãi cho căn nhà. Và từ ngôi nhà “kèo cột” ấy ngôn ngữ dân gian được hình thành thông qua cách lấy tên các vật dụng đơn giản đặt tên con với quan niệm tên càng xấu càng dễ nuôi. Những quan niệm gần gũi ấy là thành tố cấu tạo nên “Đất Nước”.

Hơn thế là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”​

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.

4. Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:

Đất Nước có từ ngày đó

“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Không ai biết chính xác ngày đó là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều đó là ngày có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục, là ngày dân ta có truyền thống đánh giặc giữ nước, có tập quán làm nhà kèo cột và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Tất cả đều là những biểu hiện cao đẹp của bề dày văn hóa. Mà văn hóa truyền thống lại là hiện thân của chiều sâu đất nước. Đúng như nhân xét của tác giả Huy Văn: “Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý”.

“Đất Nước” là một chương thơ hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm mà cũng là đoạn thơ hay nhất viết về đề tài Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. “Đất Nước” không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt “như máu xương của mình”. Từ gợi ý trên các bạn hãy thử luyện tập bằng cách viết một bài văn hoàn chỉnh ngay nhé.
Thêm
Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
3K
1
0
“Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá.” (Vũ Quần Phương) Đó là những giá trị có sức công phá cả thời gian và không gian mà tác phẩm “Đất nước” mang đến cho thế hệ Việt Nam hiện tại lẫn mai sau.

dn.png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm "Đất nước”

BÀI LÀM MẪU

“Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá.” (Vũ Quần Phương) Đó là những giá trị có sức công phá cả thời gian và không gian mà tác phẩm “Đất nước” mang đến cho thế hệ Việt Nam hiện tại lẫn mai sau.

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc.

Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi


Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn.

Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.

“Đất là nơi anh đến trường


Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví “Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc... Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.

“Đất là nơi Chim về


Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng.

“Trong anh và em hôm nay


Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

Tóm lại, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm chẳng những gần gũi, thân thương mà còn mang nhiều giá trị về truyền thống văn hóa của dân tộc. Thông qua đó, niềm tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc ngày càng được thấm nhuần, nuôi dưỡng và tiếp nối cho các thế hệ trẻ Việt Nam.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm "Đất nước” mới nhất
  • Like
Reactions: Vanhoctre
2K
1
0
“Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm như tiếng vọng từ sâu thẳm trái tim mỗi người con đất Việt. Ở nơi đó, tình yêu thương dân tộc và niềm tự hào về truyền thống nghìn năm văn hiến của cha ông ta đã góp phần hun đúc tinh thần yêu nước mãnh liệt.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (35).png



Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm

Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Nguyễn Khoa Điềm?

Trả lời


- Năm sinh: 1943;

- Quê quán: thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế;

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1955: Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc học tại trường học sinh miền Nam;

+ Năm 1964: ông tốt nghiệp khoa Văn của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Sau đó, ông về Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ,… cho đến năm 1975.

+ Năm 1975: ông trở thành hội viên hội nhà văn 1975;

+ Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin;

+ Năm 1995: Ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V;

+ Năm 1996: Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin;

+ Năm 2001: Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương;

+ Sau Đại hội Đảng lần thứ X, ông về Huế và tiếp tục làm thơ.

+ Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.

+ Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được con người Việt Nam và bản chất anh hùng bất khuất của chiến sĩ Việt Nam;

+ Các tác phẩm chính:

. Đất ngoại ô (thơ, 1973);

. Cửa thép (ký, 1972);

. Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974);

. Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986);

. Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990).


Câu 2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác của bài thơ “Đất nước”?

Trả lời


- Nằm trong tập Mặt đường khát vọng;

- Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược;

- Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu chương V của trường ca.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Đất nước”?

Trả lời


- Nhan đề đoạn trích trong SGK được đặt là "Đất Nước" nhằm nhấn mạnh vào đối tượng chính mà nhà thơ muốn nói đến: Đất nước.

- Đồng thời khẳng định một triết lý đúng đắn mà sâu sắc: “Đất Nước của Nhân Dân”. Đối với nhà thơ, đất nước chính là của nhân dân, do nhân dân tạo ra. Qua đó thể hiện tình yêu đất nước của tác giả cũng như đánh thức lòng yêu nước trong mỗi người dân.

Câu 4. Viết một bài văn ngắn trình bày của cảm nhận của bản thân về bài thơ “Đất nước”

Đoạn văn mẫu


“Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm như tiếng vọng từ sâu thẳm trái tim mỗi người con đất Việt. Ở nơi đó, tình yêu thương dân tộc và niềm tự hào về truyền thống nghìn năm văn hiến của cha ông ta đã góp phần hun đúc tinh thần yêu nước mãnh liệt. Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…

Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước, tiếp nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước. Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.

Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

Tóc mẹ thì búi sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỷ niệm:

Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…

Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt.

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”:

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng…

Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân – cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con người, giọng thơ tâm tình thấm thía:

Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời.

Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.

Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn.

Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Ôn tập tác phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất
1K
0
0
“Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá… Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân dân, yêu những con người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến địa lý mà mở rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ”. Đó là lời khẳng định về của Vũ Quần Phương về bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã vô cùng khéo léo trong việc truyền tải những quan niệm mới mẻ về Đất Nước của mình.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (15).png


Đề: Em hãy chứng minh quan điểm mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước qua bài thơ cùng tên.


DÀN Ý

Mở bài:

- Trích dẫn: “Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá… Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân dân, yêu những con người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến địa lý mà mở rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ”. – Vũ Quần Phương

- Vấn đề nghị luận: Quan điểm mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước qua bài thơ cùng tên.

Thân bài:

- Quan niệm: “Nhân dân tạo nên phương diện ĐỊA LÍ cho Đất Nước”:

+ Cách nhìn mới mẻ về chiều sâu của địa lý.

+ Mối quan hệ tác động hai chiều giữa địa lí của Đất nước và Nhân dân.

- Quan niệm: "Nhân dân tạo nên phương diện LỊCH SỬ cho Đất Nước":

+ Nhìn vào 4000 năm lịch sử, nhà thơ khẳng định Đất Nước của Nhân dân.

+ Nhân dân là những bình dân trong lao động và trong đấu tranh giữ nước.

- Quan niệm: "Nhân dân tạo nên phương diện VĂN HÓA cho Đất Nước":

+ Những người anh hùng vô danh tạo nên văn hóa cho Đất Nước.

+ Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Kết bài:

- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

BÀI VĂN MẪU

“Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá… Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân dân, yêu những con người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến địa lý mà mở rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ”. Đó là lời khẳng định về của Vũ Quần Phương về bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã vô cùng khéo léo trong việc truyền tải những quan niệm mới mẻ về Đất Nước của mình.

Trước hết, nhân dân tạo nên phương diện ĐỊA LÍ cho Đất Nước:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta,...”

Nhà thơ cho thấy cách nhìn mới mẻ về chiều sâu của địa lý. Thủ pháp liệt kê liên tiếp đã tái hiện hình ảnh Đất Nước thơ mộng, mênh mông, độc đáo với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa: “Những danh lam thắng cảnh (Vịnh Hạ Long); những di tích văn hóa (núi Vọng Phu, hòn Trống mái,…) những di tích lịch sử (Làng Gióng, đất Tổ Hùng Vương)”. Bên cạnh đó, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê kết hợp với nhân hóa, cường điệu độc đáo thể hiện phát hiện mới rất thú vị: “Những danh lam, thắng cảnh, những di tích văn hóa,...”. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông mà còn có cả những người vợ Việt Nam chung thủy, mòn mỏi. Truyền thuyết Hùng Vương nói về địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng đã tạo nên di tích lịch sử “Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng đã hóa thành thắng cảnh tên gọi Cửu Long. Truyền thống hiếu học của những học trò nghèo Việt Nam bao đời đã được tạc ghi trong tên gọi “núi Bút, non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoang với dân, với nước nên đã đặt tên cho núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Hình ảnh con vật gần gũi, thân thương “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” thành Đất Nước dung dị mà tươi đẹp. Mối quan hệ tác động hai chiều giữa địa lí của Đất nước và nhân dân. Ở khắp nơi, trên khắp ruộng đồng gò bãi , địa lí Đất Nước đều mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống của nhân dân. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, ta đều thấy cuộc đời của nhân dân đều gắn với phương diện địa lí, đã hóa thân vào hình ảnh núi sông.

Tiếp đến, nhà thơ cho rằng nhân dân tạo nên phương diện LỊCH SỬ cho Đất Nước:


“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Nhà thơ kêu gọi mỗi chúng ta hãy nhìn vào lịch sử trong bốn ngàn năm Đất Nước để cảm nhận, đánh giá. Lời hô gọi “Em ơi em” rất trìu mến, nhẹ nhàng, thiết tha tạo sự sâu lắng để mọi người tĩnh tâm đánh giá về lịch sử. Nhân dân là tầng lớp bình dân trong lao động và trong đấu tranh giữ nước. Về số lượng, khi nói về lịch sử Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm ko nhắc đến các triều đại tên tuổi như: Đinh, Lý, Trần, Lê,.. cũng ko nhắc đến những anh hùng đã từng được khắc tên trong sử sách, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con người bình dân. Đó là “họ”, “lớp lớp, “con gái, con trai”, “nhiều người” đã lao động và chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước. Họ là Nhân dân. Về đối tượng, nhà thơ tập trung bốn nghìn năm lịch sử với hai đối tượng: “Những người bình dân đã trở thành anh hùng được lưu danh trong sử sách và những người cần cù làm ăn trong cuộc sống đời thường. Khi có giặc ngoại xâm, nhà thơ liệt kê liên tiếp, cách kể chuyện chậm rãi nhưng đầy cảm xúc trân trọng, tự hào đã khẳng định vẻ đẹp của lòng yêu lao động, lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong đời thường và đấu tranh chống giặc của những người bình dân. Những người bình dân vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ góp công sức làm nên Đất Nước.

Cuối cùng, nhà thơ quan niệm rằng nhân dân tạo nên phương diện VĂN HÓA cho Đất Nước. Những người anh hùng vô danh tạo nên văn hóa cho Đất Nước.


“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng


Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Biện pháp lặp “họ” có tác dụng nhấn mạnh công lao của các thế hệ nhân dân và khẳng định vai trò của nhân dân trong việc sáng tạo nên văn hóa, phong tục, lối sống,… làm nên cốt cách riêng của con người Việt Nam. Hàng loạt những động từ được liệt kê: “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ Việt Nam. Nhà thơ đã liệt kê những danh từ: “hạt lúa, hòn than, tiếng nói” đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống của mỗi cá nhân, sự sống của cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Đất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại, nhân dân sáng tạo nên nền văn hóa dân gian. Mạch cảm xúc dâng lên thành cao trào, nhà thơ đã khẳng định một chân lí: “Đất Nước của Nhân dân” cũng chính là “Đất Nước của ca dao thần thoại” vì: “Nói đến Nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thoại”. Hay nói cách khác, “ca dao thần thoại”chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của nhân dân. Say đắm trong tình yêu đôi lứa: “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Quý trọng lối sống tình nghĩa: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Bền bỉ, kiên cường trong chiến đấu giữ nước: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Đoạn thơ khép lại bằng hình thức cảm thán dài . Kết thúc bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã có từ truyền thống, chỉ đến văn học hiện đại mới được nâng lên đến đỉnh cao vì chỉ khi nào nhân dân thực sự làm chủ đời mình thì mới làm chủ Đất Nước.

Với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ như lối trò chuyện thân mật tự nhiên gần gũi, đặc biệt là việc sử dụng chất liệu văn học, văn hóa dân gian mang tính chất gợi mở đã làm cho những cảm nhận trong quan niệm mới mở về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm được phát hiện ra dung dị đời thường nhưng không kém phần cao cả.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Quan điểm mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước qua bài thơ cùng tên
  • Like
Reactions: Vanhoctre
755
1
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top