[ VĂN HỌC DÂN GIAN - “CÁI NÔI” CỦA VĂN HỌC VIẾT ]
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.”
Đó là những lời tâm tình sâu sắc mà Nguyễn Khoa Điềm viết về Đất Nước, về nguồn cội, về nơi ông sinh ra và lớn lên. Không chỉ với nhà thơ mà biết bao thế hệ nhân dân Việt Nam đã lớn lên từ những lời ru điệu hò, những câu chuyện gắn với bà, với mẹ. Thứ văn chương gần gụi yêu thương ấy đã cùng ta trưởng thành theo năm tháng. Văn học dân gian luôn chắp cánh cho những kỉ niệm hồn nhiên, tươi đẹp nhất của mỗi người; nhưng ít ai biết rằng nó cũng chính là nguồn cội, là mầm ươm cho sự phát triển của nền Văn học viết sau này.
Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Giáo trình Văn học dân gian khi nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam cũng đã từng nhận định:“ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Hồ Chí Minh,…) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” .
Quả thực nhân định nói trên đã thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà. Văn học dân gian chính là nền tảng của văn học viết và có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển, là nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm hứng sáng tạo cho văn học viết.
VỀ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách con người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,...
VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng nhân vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu dân gian,...
Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ kế thừa và phát triển nét độc đáo ấy để đưa vào tác phẩm của mình như một chất liệu đặc biệt gắn với dân tộc Việt Nam. Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngoài, còn có một số tác phẩm văn học viết cũng được sử dụng thể thơ dân tộc này : “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), “Lỡ bước sang ngang” (Nguyễn Bính),....
Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào tác phẩm của mình như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,...
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Nguyễn Trãi)
Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ : “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Miệng ăn núi lở”.
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.”
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Gợi liên tưởng đến bài ca dao:
“Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Anh lấy em từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám em đà năm con...”
Quả thực không sai khi nói rằng Văn học dân gian là cái nôi, sữa mẹ, là nguồn cội của Văn học viết. Và nguồn sữa mẹ bình dị ấy sẽ tưới mát tâm hồn cho thế hệ muôn đời sau.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.”
Đó là những lời tâm tình sâu sắc mà Nguyễn Khoa Điềm viết về Đất Nước, về nguồn cội, về nơi ông sinh ra và lớn lên. Không chỉ với nhà thơ mà biết bao thế hệ nhân dân Việt Nam đã lớn lên từ những lời ru điệu hò, những câu chuyện gắn với bà, với mẹ. Thứ văn chương gần gụi yêu thương ấy đã cùng ta trưởng thành theo năm tháng. Văn học dân gian luôn chắp cánh cho những kỉ niệm hồn nhiên, tươi đẹp nhất của mỗi người; nhưng ít ai biết rằng nó cũng chính là nguồn cội, là mầm ươm cho sự phát triển của nền Văn học viết sau này.
Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Giáo trình Văn học dân gian khi nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam cũng đã từng nhận định:“ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc (Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Hồ Chí Minh,…) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” .
Quả thực nhân định nói trên đã thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong suốt tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà. Văn học dân gian chính là nền tảng của văn học viết và có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển, là nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu và cảm hứng sáng tạo cho văn học viết.
VỀ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách con người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,...
VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng nhân vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu dân gian,...
Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ kế thừa và phát triển nét độc đáo ấy để đưa vào tác phẩm của mình như một chất liệu đặc biệt gắn với dân tộc Việt Nam. Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác phẩm “Truyện Kiều”. Ngoài, còn có một số tác phẩm văn học viết cũng được sử dụng thể thơ dân tộc này : “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu), “Lỡ bước sang ngang” (Nguyễn Bính),....
Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào tác phẩm của mình như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,...
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.”
(Nguyễn Trãi)
Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ : “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Miệng ăn núi lở”.
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.”
(Mời trầu - Hồ Xuân Hương)
Gợi liên tưởng đến bài ca dao:
“Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Anh lấy em từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám em đà năm con...”
Quả thực không sai khi nói rằng Văn học dân gian là cái nôi, sữa mẹ, là nguồn cội của Văn học viết. Và nguồn sữa mẹ bình dị ấy sẽ tưới mát tâm hồn cho thế hệ muôn đời sau.