Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam

Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam

Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính nhân dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của nền văn học viết.

Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng chữ Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn học ấy nối tiếp, kế thừa và phát triển cho thấy tinh thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức mạnh Việt Nam vô cùng to lớn.

Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v...

Các thời kỳ phát triển

Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:

1. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.

2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.

3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội dung cách mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ.

Mấy nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam

1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc

2. Tình nhân ái.

3. Thơ ca có một truyền thống lâu đời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát triển chậm: từ 1930 trở đi mới phát triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá.

- Tác phẩm văn học là sáng tác cụ thể, văn bản ngôn ngữ hoàn chỉnh, vừa có ý nghĩa vừa có tính thẩm mỹ.

- Một bài ca dao hai câu, một bài thơ tứ tuyệt, một truyện ngụ ngôn nửa trang, một truyện ngắn mi-ni, bộ Tam quốc chí,… đều là tác phẩm văn học.
 
Từ khóa Từ khóa
tho van văn học việt nam yeu nuoc
781
0
1
Trả lời
Bạn hiểu biết như thế nào về nội dung khái niệm tính nhân dân trong văn học? Liên hệ thực tế văn học.

BÀI LÀM

Tính nhân dân trong văn học thể hiện mối liên hệ giữa văn học và nhân dân.Nhân dân bao giờ cũng là những tầng lớp quần chúng lao động đông đảo nhất của dân tộc. Chính họ làm nên lịch sử, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất tinh thần cho xã hội. Họ là lực lượng lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nói đến nhân dân là nói đến những lực lượng xã hội đông đảo trong quần chúng lao động và những thành phần xã hội khác mang xu thế tiến bộ của một thời đại.

Tính nhân dân là phẩm chất văn học, một mặt nói lên ý thức và sự gắn bó của nhà văn với nhân dân và mặt khác phản tư tưởng, tình cảm, quyền lợi của nhân dân trong tác phẩm văn học.

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò lớn của nhân dân trong lịch sử, là động lực góp phần quyết định sự phát triển của lịch sử các dân tộc, do đso nghệ thuật phải gắn bó với nhân dân. Lênin đã từng chỉ rõ “Nghệ thuật là của nhân dân. Nó phải được họ hiểu và ưa thích. Nó phải thống nhất tư tưởng, tình cảm và ý chí của quần chúng và nâng họ lên một trình độ cao hơn”.

Như thế Lênin nhấn mạnh đến hai yêu cầu quan trọng của văn học. Văn học phải gắn bó và biết tiếp nhận những giá trị lớn lao trong nhân dân và góp phần nâng cao trình độ quần chúng. Tính nhân dân trong một tác phẩm văn học được biểu hiện dqua nhiều yếu tố.

Trước hết tác phẩm phải đề cập đến những vấn đề tha thiết của nhân dân, những vấn đề co bản của mọi thời đại mà nhân dân là người trực tiếp tham dự vào những cuộc đấu tranh xã hội đó. Chẳng hạn như chiến tranh và hoà bình,quyền sống, quyền tự do, đạo lí truyền thống dân tộc, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác....Những tác phẩm văn học có giá trị từ xưa đến nay đều phản ánh những vấn đề lớn có ý nghĩa thời đại. Tất nhiên điều ấy nó có ý nghĩa vô cùng với số phận của nhân dân, Tổ quốc. Lịch sử Việt Nam bốn nghìn năm chưa hề ngơi tắt ngọn đèn lửa chiến tranh, vì thế dòng văn học Việt Nam phần lớn là những áng thơ văn yêu nước. Số phận dân tộc lâm nguy, thì nó đe doạ số phận mỗi con người dân...Cho nên, dù là sáng tác bằng chữ Hán nhưng bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi... đều mang đậm tính nâhn dân. Lời thơ đanh thép hào sảng của Lí Thường Kiệt, cái trăn trở dằn vặtt , căm giận kẻ thù của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn...” và niềm tự hào dân tộc khi Nguyễn Trãi cất cao giọng đọc Bình Ngô đại cáo “Như nước Đại Việt ta từ trước “ của Nguyễn Trãi...Ai nói rằng nó không mang trong lòng nó những khao khát, ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc? Ai nói rằng đó là tâm sự riêng của một cá nhân. Dù không nói đến dân, chỉ nói đến “vua Nam” chỉ nhắc đến triều đại “từ Triệu, Đinh, Lí, Trần gây nên độc lập” nhưng các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta thấm sâu tính nhân dân. Chả trách mà trong cuốn hồi kí mới đây,cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc –na-ma-ra đã cho rằng một trong những nguyên nhân thất bại của Mĩ ở Việt Nam là do không hiểu về lịch sử nhân dân Việt Nam. “Ngày ra đi chốn biên cương, gió bấc lùa về lòng anh lạnh buốt. Nòng súng thép dán câu thơ, ý thơ tuyệt hay là thơ Lí Thường Kiệt. Lòng người Việt nam nào đadau thích gì bom đạn”....Lời bài hát t huở nào đã nói hộ lòng dân một thời.

Tư tưởng thần dân của Nguyễn Trãi đã trở thành nguồn máu nóng chảy trong huyết mạch các tác phẩm của ông tạo nên tính nhân dân đậm đà và đầy niềm tự hào xúc động.

Và... “Tố như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”. Tiếng khóc vĩ đại của Nguyễn Du , lòng nhân đạo vĩ đại của ông đã làm bao thế hệ người Việt Nam rơi lệ. Truyện Kiều huyền diệu có lẽ trước hết là tiếng nói đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc, quyền đựơc bảo vệ nhân phẩm tốt đẹp của con người...Nguyễn Du đã đứng trên lập trường nhân dân, đứng giẫm chân trong nỗi đau của nhân dân mà bênh vực cho những giá trị đạo đức nhân dân cũng như phẫn nộ với những thế lực mà nhân dân căm ghét. Có nhiều người đã bắt bẻ rằng Nguyễn Du vốn không phải là người lao động , nàng Kiều cũng thế và do đó mà truyện Kiều đâu có tính nhân đi trong chốn đoạn trường như cả dân tộc, nhân dân ta từng một thời “ma đưa lối quỷ đưa đường” sờ sẫm trong một xã hội ngạt thở...

Một tác phẩm văn học có tính nhân dân phải nói lên được tư tưởng tiến bộ nhất của nhân dân trong từng thời kì lịch sử, cách đánh giá của nhân dân với các hiện tượng xã hội. Tư tưởng yêu nước trọng dân của Nguyễn Trãi là tư tưỏng tiến bộ nhất thời kì lịch sử này.
Nguyễn Đình Chiểu qua những áng văn tế của mình, đặc biệt là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã ca ngợi nhân dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Họ chỉ có : “Một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông” nhưng vẫn hăng hái công đồn như vũ bão.

“Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắt đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.

Đây là bức tranh quần chúng nổi dậy, như thác đổ, không dễ có trong văn học thời trung đại. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong các sáng tác này cũng chính là đỉnh cao của tư tưởng yêu nước tiến bộ của giai đoạn lịch sử đau thương nhưng anh dũng này.
Một số tác phẩm không trực tiếp viết về nhân dân nhưng dù viết về những đề tài khác nhau mà bộc lộ cách nhìn và đánh giá của nhân dân thì cũng mang tính nhân dân. Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc là những khúc ngâm rất gần gũi với tâm tình của nhân dân mặc dù nhân vật trong các sáng tác không trực tiếp là người lao động.

Một tác phẩm có tính nhân dân phải có giá trị về mặt thẩm mĩ cao để cung cấp món ăn tinh thần cho quần chúng vốn nhu cầu thẩm mĩ hết sức phong phú, đa dạng. Nhân dân đòi hỏi văn học phản ánh được cái muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, cuộc đời, phải đề cập tới những niềm vui, nỗi buồn của con người. Nhân dân khong chấp nhận những tác phẩm giả tạo, hời hợt và vô dụng. Điều này giải thích tại sao đã hai trăm năm đại thi hào Nguyễn Du mất nhưng “thuở vui buồn Kiều sống giữa lòng dân”. Và đến nay “tiếng thươgn như tiếng mẹ ru những ngày” của Tố Như vẫn làm say lòng người.

Hình thức của tác phẩm phải bình dị, gần gũi với người đọc, tránh lối viết cầu kì, xa lạ. Có như thế, nhưng thông điệp tư tưởng, tình cảm của nhà văn mới đến trái tim quần chúng bằng con đường ngắn nhất. Các nhà văn, nhà thơ phải biết tiếp thu, nhuần nhĩ trong tác phẩm của m ình. Mặt khác, nhà văn phải góp phần không ngừng nâng cao trình độ thưởng thức văn học của quần chúng.

Có nhiều người ham hố trở về với nhân đân để học lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tuy nhiên, có lúc cực đoan sẽ dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Ông hoàng Thơ mới Xuân Diệu có những kinh nghiệm học tập rất đáng quý nhưng khi tự nguyện “ cùng xương thịt với nhân dân của tôi, cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu’’ với quần chúng Xuân Diệu cũng có những bài, những câu thơ quá dễ dãi và mờ nhạt. Thủ tướng Phạm Văn đồng trước đây khi nói về hai câu thơ Kiều trong như ánh sáng: “Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” thì thán phục vô cùng. Ông cho rằng, đó là ngôn ngữ của nhân dân rất trong sáng và đã qua bàn tay của một người thợ, người nghệ sĩ thiên tài mài giũa. để viết về lòng căm thù giặc của người nghệ sĩ – nhân dân, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Tưởng như khó có thể diễn đạt hay hơn nếu không dùng cái so sánh bình dị này.

Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ

Nhân dân vốn là Mẹ của Hồn thơ, hào hiệp cho ta những vầng trăng nghệ thuật. Không nên và không thể dùng ngôn ngữ của nhân dân mà lại không mài giũa sáng tạo.

Có lẽ để thay cho lời kết luận ta hãy đọc lời của nhà phê bình văn học Nga bê –ê – lin- xki : “ Nhân dân với nghệ thuật đúng là dầu với lửa, dầu xuôi ngọn lửa thành ánh sáng hoặc hơn nữa như đất với cây cối, đát cấp thức ăn cho cây cối”.

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng, văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ. Những nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Trong lao động nghệ thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ về ngôn ngữ.
Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ toàn dân để sang tác tác phẩm văn học, để sang tạo ra ngôn ngữ văn học. Giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo Go-rơ-ki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được nhứng người thợ tinh xảo nhào luyện.

Ngôn ngữ văn học chính xác, tinh luyện. Thường thì một khái niệm có nhiều từ để diễn tả, nhưng chỉ một từ là đúng, là chính xác với điều nhà văn muốn nói. Trong khi viết văn, nhà văn phải lựa chọn từ nào là chính xác nhất. Các nhà văn cổ điển đã giác ngộ về ngôn ngữ sâu sắc, vì vậy, tác phẩm của họ có giá trị bền lâu.
Nguyễn Du tả Thúy Vân:
“… Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Và tả Thúy Kiều:
“… Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
“Thua” và “nhường”, “ghen” và “hờn” là những từ “định mệnh” của hai nhân vật, chính xác một cách tuyệt đối.
Tản Đà đã cân nhắc từ “tuôn” và “khô” cho câu thơ:
“Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày”
Và: “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”
Cuối cùng, tác giả đã chọn từ “khô” vì nó sâu hơn, chính xác hơn, tinh luyện hơn.
Nói đến đặc điểm này, chúng ta cũng nên nhớ đến một ý kiến của Vích to Huy-Go. Ông nói: “Trong tiếng Pháp không có từ nào hay, từ nào dở, từ nào đặt đúng chỗ là từ đó hay”.
Thật vậy, chúng ta hãy thưởng thức cái hay của sự “đặt đúng chỗ” đó:
“Lúa níu anh trật dép”
(Trần Hữu Thung)
Từ “níu” rất quen thuộc, được đặt vào văn cảnh này ý nghĩa trở nên mênh mông.
“Mình đi mình có nhớ mình”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Từ “mình” rất cũ, Tố Hữu đã dung với ý nghĩa mới để diễn đạt nội dung tư tưởng cách mạng.
Đúng như Mai-a-cốp-xki nói “làm thơ là cân từ 1/1000 mg quặng chữ”.

Đặc điểm thứ hai của ngôn ngữ văn học là tính hình tượng. Ngôn ngữ văn học không trừu tượng như ngôn ngữ triết học, chính trị, cũng không phải là ngôn ngữ kí hiệu hóa như một số môn khoa học.

Ngôn ngữ văn học trực tiếp xây dựng hình tượng trong tác phẩm nên nó không trừu tượng mà mang tính chất cảm tính cụ thể.
Ngôn ngữ gợi màu sắc:
“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.”
(Hàn Mặc Tử)
“Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
(Xuân Diệu)
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
(Nguyễn Du)
Ngôn ngữ gợi đường nét:
“Lơ thơ tơ liễu buông mành”
Ba âm “ơ” (lơ, thơ, tơ) gợi đường nét thưa thớt của những chiếc lá liễu buông mành.
“Súng bên sung đầu sát bên đầu”
(Chính Hữu)
Hình ảnh của tình đồng chí: nét thẳng (súng) của ý chí hòa hợp với nét cong (đầu) của tình cảm.
Ngôn ngữ gợi hình khối:
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Hồ Chí Minh)
“Cổ thụ” là một khối to đậm tiêu biểu cho sự hung vĩ của núi rừng. “Hoa” là một nét nhỏ, nhẹ tiêu biểu cho vẻ thơ mộng của núi rừng. Tất cả đều nhuốm ánh trăng thật là huyền ảo.
“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa.”

Từ “đùn” miêu tả sự vận động của những khối mây như núi bạc. Bên cạnh khối mấy khổng lồ đó, cánh chim đã nhỏ lại càng nhỏ hơn. Huy Cận đã diễn tả tài tình tâm trạng cô lieu trong tâm hồn thi nhân.

Nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả tâm trạng của ông khi trở về thăm người mẹ nuôi xưa với ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và nhạc tĩnh:
Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa
Mát rượi long ta ngân nga tiếng hát

Nhà thơ Tố Hữu nói: “Nhịp điệu của hai câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu của náo nức xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình”.

Đặc điểm thứ ba của ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm. Ngông ngữ văn học chẳng những phải chính xác, phải có tính hình tượng mà còn có giá trị biểu cảm. Văn học trực tiếp bộc lộ cảm xúc của nhà văn qua ngôn ngữ văn học. Nhà nghệ sĩ giàu cảm xúc nên ngôn ngữ văn học giàu tính biểu cảm. Tất nhiên, tính biểu cảm có thể bộc lộ dưới nhiều dạng thức: trực tiếp, gián tiếp, có hình ảnh hoặc là ngôn từ thuần túy.

Khi Nguyễn Trãi viết: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” thì từ “nướng” đã chứa chất cả tinh thần phẫn nộ của ông đối với giặc Minh.

Khi Tú Xương viết: “Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông” thì từ “lèn” vữa diễn tả chính xác hành vi của kẻ cướp, lại vừa bộc lộ thái độ châm biếm, chế giễu tên quan tuần phủ.

Khi Xuân Diệu viết: “Con cò trên ruộng cánh phân vân” thì cánh cò ấy là cánh cò đầy tâm trạng của trái tim đang yêu của thi sĩ.
Khi Chế Lan Viên viết: “Ta là ta mà vẫn cứ mê ta” là ông quá say mê với cuộc sống, quá tự hào về thời đại và dân tộc mà ông đã diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ trần trụi như thế.

Nói đến ngôn ngữ văn học, không thể quên được lời nhận xét tinh tường của Pau-tốp-xki (Nga): “Thi ca có một đặc tính kì lạ. Nó trả lại cho chữ cái tươi mát, trinh bạch ban đầu. Những chữ tả tơi nhất mà chúng ta đã nói cạn đến cùng, mất sạch tính chất hình tượng, đối với chúng còn lại chẳng khác gì một cái vỏ chữ. Những chứ ấy trong thi ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương.

st
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.