Đoàn Giỏi là nhà văn đa tài. Ông vừa làm thơ, viết văn, vừa viết kịch và biên khảo. Nổi bật trong các sáng tác của Đoàn Giỏi là những trang văn chân thành, rung động trước vẻ đẹp bình dị của quê hương xứ sở. Để tìm hiểu về nhà văn Đoàn Gỏi, VHT mời các em học sinh cùng đọc bài tham khảo ngắn gọn về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của một nhà văn suốt đời gắn bó với mảnh đất Phương Nam.
Ảnh sưu tầm* Cuộc đời
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày17/05/1925 mất ngày 02/04/1989. Ông sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (Nay thuộc xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Đoàn Gỏi xuất thân trong một gia đình địa chủ giàu lòng yêu nước. Say mê hội hoạ ngay từ nhỏ, nhưng Đoàn Giỏi phải từ bỏ đam mê hội hoạ vì sự phản đối của gia đình. Sau đó ông tập trung vào niềm đam mê văn chương và thành công ở lĩnh vực này.
Năm 1945 cách mạng tháng 8 thành công, ông tham gia kháng chiến và trở thành Đảng viên Cộng sản. Chiến dịch Điện Biên Phủ thành công, năm 1954, Đoàn Giỏi được tập kết ra Bắc và công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam. Sau đó, ông chuyển sang làm việc ở hội nhà văn Việt Nam. Năm 1975, đất nước thống nhất, nhà văn Đoàn Giỏi về Sài Gòn và đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 02/04/1989, ông qua đời bởi chứng bệnh hiểm nghèo.
*Tác phẩm chính:
- Tập truyện dài: Cá bống mú (1956), Đất rừng phương Nam (1957), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962),...
- Truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960), Người tù chính trị năm tuổi (1973), Đồng Tháp Mười (1987),...
- Truyện ký: Trần Văn Ơn (1955), Ngọn tầm vông (1956), Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày,...
- Kịch thơ: Người Nam thà chết không hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười (1949);
- Thơ: Giữ vững niềm tin (1954), Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi;
- Biên khảo: Những chuyện lạ về cá (1981), Tê giác giữa ngàn xanh (1982).
* Phong cách nghệ thuật
Tác phẩm của Đoàn Giỏi là các bức tranh sinh động về thiên nhiên và con người Nam Bộ.
- Tái hiện vẻ đẹp của vùng đất Phương Nam trù phú và con người Nam Bộ chất phác, hiền hoà, thẳng thắng, bộc trực và giàu ân nghĩa.
- Nghệ thuật miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình.
- Ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ.
Năm 1945 cách mạng tháng 8 thành công, ông tham gia kháng chiến và trở thành Đảng viên Cộng sản. Chiến dịch Điện Biên Phủ thành công, năm 1954, Đoàn Giỏi được tập kết ra Bắc và công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam. Sau đó, ông chuyển sang làm việc ở hội nhà văn Việt Nam. Năm 1975, đất nước thống nhất, nhà văn Đoàn Giỏi về Sài Gòn và đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 02/04/1989, ông qua đời bởi chứng bệnh hiểm nghèo.
*Tác phẩm chính:
- Tập truyện dài: Cá bống mú (1956), Đất rừng phương Nam (1957), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962),...
- Truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960), Người tù chính trị năm tuổi (1973), Đồng Tháp Mười (1987),...
- Truyện ký: Trần Văn Ơn (1955), Ngọn tầm vông (1956), Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày,...
- Kịch thơ: Người Nam thà chết không hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười (1949);
- Thơ: Giữ vững niềm tin (1954), Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi;
- Biên khảo: Những chuyện lạ về cá (1981), Tê giác giữa ngàn xanh (1982).
* Phong cách nghệ thuật
Tác phẩm của Đoàn Giỏi là các bức tranh sinh động về thiên nhiên và con người Nam Bộ.
- Tái hiện vẻ đẹp của vùng đất Phương Nam trù phú và con người Nam Bộ chất phác, hiền hoà, thẳng thắng, bộc trực và giàu ân nghĩa.
- Nghệ thuật miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình.
- Ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ.
Xem thêm các bài saonj, bài văn hay, đề thi Ngữ văn 10 tại đây.