Baivanhay Phân tích bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân"

Baivanhay Phân tích bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân"

Một trong những đề tài tạo nên nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong thi ca Việt Nam là khắc họa nét đẹp của hình ảnh thiên nhiên. Và đoạn trích “Cảnh ngày xuân" chính là đoạn thơ đã làm nên nét biểu trưng riêng biệt cho bài thơ “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du bằng những hình ảnh miêu tả đặc sắc nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong tiết Thanh Minh. Thế nên, phải nói rằng, một trong điều làm nên thành công của Truyện Kiều là việc phát họa nên bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân".

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (16).png


Đề: Em hãy phân tích bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân"

DÀN Ý

Mở bài:

- Trích dẫn: Đoạn trích Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ miêu tả thiên nhiên tiêu biểu nhất trong Truyện Kiều.

- Vấn đề nghị luận: Bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân"

Thân bài:

- Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân vào lúc sáng sớm qua 4 câu thơ đầu.

- Bức tranh lễ hội trong tiết thanh minh qua 8 câu thơ tiếp theo.

- Bức tranh lúc chiều tà của con người trong lúc trở về qua 6 câu thơ còn lại.

Kết bài:

- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.


BÀI VĂN MẪU

Một trong những đề tài tạo nên nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong thi ca Việt Nam là khắc họa nét đẹp của hình ảnh thiên nhiên. Và đoạn trích “Cảnh ngày xuân" chính là đoạn thơ đã làm nên nét biểu trưng riêng biệt cho bài thơ “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du bằng những hình ảnh hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Thế nên, phải nói rằng, một trong điều làm nên thành công của Truyện Kiều là việc phát họa nên bức tranh mùa xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân".

“Cảnh ngày xuân” là đoạn trích nằm ở phần sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý Kiều. Cơn tai biến đối với gia đình Thuý Kiều chưa xảy ra. Họ đang sống những ngày tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh, ba chị em đi trẩy hội. Đoạn trích gồm mười tám câu, bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp ngày xuân, tám câu tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh, sáu câu cuối tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về.


“Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa…”

Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng. Không gian mùa xuân được gợi nên bởi hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khoắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba. Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: Cỏ non xanh tận chân trời. Sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra tận chân trời khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là vài bông bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. Ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội họa phương Đông, đó là bút pháp chấm phá. Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng. Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của ông. Nó gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên,


Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”

Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ.

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang,…”

Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về. Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đều là những từ láy có tính giảm nhẹ. Tà tà diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; thơ thẩn lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân, thanh thanh vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ nao nao trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ nho nhỏ gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: ngọn tiểu khê – dòng suối nhỏ, phong cảnh thanh thoát, dịp cầu nho nhỏ lại nằm ở cuối ghềnh ở phía xa xa,… Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mơ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.

Tóm lại, "Cảnh ngày xuân" là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Qua đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn có thể cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông. Thông qua đó, nhà thơ Nguyễn Du cũng thể hiện được nét tài hoa trong việc dựng nên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
 
Từ khóa
canh ngay xuan nguyen du truyen kieu
  • Like
Reactions: Vanhoctre
707
1
1

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top