Mạng xã hội Văn học trẻ

"Sau bao nhiêu năm mới có ngày hòa bình
Dù hòa bình ấy cũng đã lấy đi bao máu xương dân mình..."

IMG_1887.jpeg


Những năm tháng khói lửa chiến tranh khốc liệt ấy đã có hàng triệu, hàng triệu thanh niên xung phong khắp ba miền tổ quốc xung phong "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Họ có thể là một người nông dân đến từ vùng quê nghèo "đất cày nên sỏi đá" như anh Tạ. Là những chàng thanh niên Hà thành "gác bút nghiêng theo việc đao cung" như Cường, Tấn... Và có cả những người lính còn rất trẻ như Tú - những con người không tiếc tuổi xuân xanh của mình, sẵn sàng khai gian tên tuổi để thực hiện lý tưởng độc lập non sông....

Mùa hè năm ấy hi sinh nhiều lắm, toàn là lính trẻ...

Một chuyến tàu lăn bánh là mang theo bao khát vọng hòa bình, tự do, mang theo những lý tưởng cao đẹp của biết bao con người nơi chiến trường khói lửa và cả những con người thầm lặng nơi hậu phương.

Thành cổ đã giữ được, đất nước đã trọn vẹn niềm vui thống nhất, hòa bình. Thế mà giờ đây... Có những tình yêu mãi mãi chia ly như mối tình vừa chớm nở đã vội lụy tàn của Cường và Hồng; như tình yêu của hai con người cùng lý tưởng nơi Xuân Dục, Đoài Đông...

"Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ có, con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!"

Những lời hứa hẹn “ngày hòa bình anh sẽ về”, “mẹ ơi, hãy đợi con trở lại…” Thế nhưng, chiến tranh qua đi, còn mấy người giữ trọn lời hứa ấy? Có những lời hẹn vĩnh viễn hóa thành gió bụi, bỏ lại phía sau những mái nhà chờ mỏi mắt, những trái tim rỉ máu, đau xót trong vô vọng

Mùa hè ấy, bao người ra đi với niềm tin giản dị: hòa bình rồi sẽ đến, và họ sẽ trở về tiếp tục cuộc sống thường ngày – làm ruộng, dạy học, xây cầu, hay đơn giản là chăm sóc cha mẹ già nơi làng quê. Thế nhưng, có những người đã trở về trong di ảnh, trên tấm bia khắc tên giữa nghĩa trang liệt sĩ lộng gió.

Hòa bình hôm nay là sự hiện hữu từ những mất mát không sao đong đếm. Là tiếng cười trẻ thơ trong buổi sáng yên bình, là nhịp sống phố phường không còn nặng nề bởi tiếng bom rơi đạn nổ. Nhưng sâu trong lòng đất, nơi mạch ngầm ký ức vẫn chảy, là bao điều còn bỏ ngỏ: những lời hứa không kịp thực hiện, những giấc mơ tuổi trẻ vĩnh viễn bị chôn vùi trong làn mưa đạn.

Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
85
1
2
Xem xong Mưa đỏ, thật sự mình ngồi lặng đi rất lâu. Bộ phim không chỉ tái hiện một trận đánh khốc liệt, mà còn đưa người trẻ như mình bước vào thế giới đầy máu lửa của cha ông, để cảm nhận rõ hơn cái giá của hòa bình hôm nay.


Những thước phim chiến trường rực lửa, những khuôn mặt lấm lem bùn đất, những đôi mắt sáng rực niềm tin của những người lính trẻ… tất cả như còn vang vọng đâu đây. Họ – những chàng trai đôi mươi, tuổi đời còn quá trẻ – đã bỏ lại sau lưng mái nhà, mẹ cha, người thương để cầm súng ra trận. Có người chưa kịp một lần nắm tay người mình yêu, chưa kịp thực hiện giấc mơ bình dị là cấy cày trên mảnh ruộng quê hương… nhưng đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Càng nghĩ, mình càng thấy vừa tự hào vừa nghẹn ngào.


Mưa đỏ không hề lý tưởng hóa hay lãng mạn hóa chiến tranh. Bộ phim đi vào những chi tiết chân thực, đau xót: cái chết bất ngờ, những thân xác ngã xuống, những tiếng gọi đồng đội giữa bom đạn… Nhưng giữa khung cảnh khốc liệt ấy, tình đồng chí, đồng đội lại hiện lên chan chứa, nâng đỡ con người đi qua ranh giới sống chết. Chính điều đó khiến mình – một người trẻ sinh ra trong hòa bình – càng trân trọng hơn giá trị của hai chữ “hòa bình” hôm nay.


Ngồi trong rạp, nhiều khoảnh khắc mình thấy cay mắt khi nghĩ: thế hệ chúng ta hôm nay có quá nhiều điều kiện hơn cha anh. Chúng ta có mạng xã hội để kết nối, có tự do để chọn nghề, chọn nơi đi học, chọn ước mơ để theo đuổi. Nhưng tất cả những điều tưởng như hiển nhiên ấy đều được đánh đổi bằng máu, bằng sự hi sinh thầm lặng của hàng triệu người. Mưa đỏ nhắc mình rằng hòa bình không bao giờ là điều tự nhiên có sẵn, mà là món quà vô giá được giữ gìn bằng máu và nước mắt.


Với tư cách một người trẻ, mình cảm thấy trách nhiệm của thế hệ hôm nay không chỉ là biết ơn, mà còn phải sống sao cho xứng đáng. Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với cộng đồng. Biết yêu thương, biết sẻ chia, biết trân trọng những điều giản dị của cuộc đời. Có lẽ, đó cũng là cách chúng ta “nối dài” tinh thần của thế hệ cha anh, trong một thời đại mới không còn tiếng súng, nhưng vẫn đầy thử thách.


Mưa đỏ cũng làm mình nghĩ nhiều đến sức mạnh của nghệ thuật trong việc khơi dậy tình yêu nước và ý thức lịch sử. Không chỉ là những trang sách hay những giờ học trên lớp, mà bằng ngôn ngữ điện ảnh, câu chuyện của quá khứ có thể chạm tới trái tim người trẻ nhanh hơn, sâu hơn. Khi những giọt nước mắt rơi cùng nhân vật, khi trái tim mình đập thình thịch theo từng cảnh bom rơi đạn nổ, thì lịch sử không còn xa lạ, khô khan nữa – nó sống động, gần gũi và thôi thúc chúng ta tự hỏi: “Mình có thể làm gì cho đất nước hôm nay?”


Có lẽ, cảm xúc lớn nhất mình mang theo sau bộ phim là niềm biết ơn và tự hào. Biết ơn những người đã ngã xuống, biết ơn những người đã sống sót để kể lại câu chuyện, và tự hào vì mình là con cháu của một dân tộc kiên cường đến thế.


Nếu một ngày nào đó, có bạn trẻ nào hỏi “Yêu nước là gì?”, mình nghĩ, chỉ cần dẫn họ đi xem Mưa đỏ, để trái tim họ tự trả lời.

st
 
Viết trả lời...
"Sau bao nhiêu năm mới có ngày hòa bình
Dù hòa bình ấy cũng đã lấy đi bao máu xương dân mình..."

IMG_1887.jpeg


Những năm tháng khói lửa chiến tranh khốc liệt ấy đã có hàng triệu, hàng triệu thanh niên xung phong khắp ba miền tổ quốc xung phong "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Họ có thể là một người nông dân đến từ vùng quê nghèo "đất cày nên sỏi đá" như anh Tạ. Là những chàng thanh niên Hà thành "gác bút nghiêng theo việc đao cung" như Cường, Tấn... Và có cả những người lính còn rất trẻ như Tú - những con người không tiếc tuổi xuân xanh của mình, sẵn sàng khai gian tên tuổi để thực hiện lý tưởng độc lập non sông....

Mùa hè năm ấy hi sinh nhiều lắm, toàn là lính trẻ...

Một chuyến tàu lăn bánh là mang theo bao khát vọng hòa bình, tự do, mang theo những lý tưởng cao đẹp của biết bao con người nơi chiến trường khói lửa và cả những con người thầm lặng nơi hậu phương.

Thành cổ đã giữ được, đất nước đã trọn vẹn niềm vui thống nhất, hòa bình. Thế mà giờ đây... Có những tình yêu mãi mãi chia ly như mối tình vừa chớm nở đã vội lụy tàn của Cường và Hồng; như tình yêu của hai con người cùng lý tưởng nơi Xuân Dục, Đoài Đông...

"Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung!

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ có, con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!"

Những lời hứa hẹn “ngày hòa bình anh sẽ về”, “mẹ ơi, hãy đợi con trở lại…” Thế nhưng, chiến tranh qua đi, còn mấy người giữ trọn lời hứa ấy? Có những lời hẹn vĩnh viễn hóa thành gió bụi, bỏ lại phía sau những mái nhà chờ mỏi mắt, những trái tim rỉ máu, đau xót trong vô vọng

Mùa hè ấy, bao người ra đi với niềm tin giản dị: hòa bình rồi sẽ đến, và họ sẽ trở về tiếp tục cuộc sống thường ngày – làm ruộng, dạy học, xây cầu, hay đơn giản là chăm sóc cha mẹ già nơi làng quê. Thế nhưng, có những người đã trở về trong di ảnh, trên tấm bia khắc tên giữa nghĩa trang liệt sĩ lộng gió.

Hòa bình hôm nay là sự hiện hữu từ những mất mát không sao đong đếm. Là tiếng cười trẻ thơ trong buổi sáng yên bình, là nhịp sống phố phường không còn nặng nề bởi tiếng bom rơi đạn nổ. Nhưng sâu trong lòng đất, nơi mạch ngầm ký ức vẫn chảy, là bao điều còn bỏ ngỏ: những lời hứa không kịp thực hiện, những giấc mơ tuổi trẻ vĩnh viễn bị chôn vùi trong làn mưa đạn.

Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
85
1
2
Đọc những dòng này, mình như thấy cả một mùa hè đỏ lửa ùa về trước mắt. Những gương mặt thanh xuân vừa rạng rỡ niềm tin, vừa hằn sâu vết khói súng. Người ta nói chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, nhưng với những câu chuyện như thế, mình nhận ra chiến tranh vẫn chưa bao giờ thật sự “qua đi”. Nó còn ở đây, trong từng nhịp thở của ký ức, trong từng mảnh đất Thành cổ thấm máu, trong những ánh mắt của mẹ già, của người vợ, người yêu chờ đợi mỏi mòn mà không còn ai trở lại.

Có lẽ, điều khiến thế hệ trẻ chúng mình nghẹn ngào nhất chính là cái giá mà cha anh phải trả cho hòa bình. Tuổi hai mươi đáng lẽ là những ngày tháng hồn nhiên nhất – tuổi để yêu, để mơ, để vẽ ra những con đường dài phía trước. Vậy mà, mùa hè ấy, tuổi hai mươi lại hóa thành ngọn đuốc cháy sáng, để soi lối cho đất nước đi qua những ngày đen tối. Những lời hẹn “ngày mai anh sẽ về” giờ hóa thành tượng đài bất tử. Và chính từ những mất mát ấy, hôm nay ta được sống trọn vẹn trong hòa bình.

Mình nghĩ, bổn phận của người trẻ hôm nay không chỉ là cúi đầu biết ơn, mà còn phải đứng thẳng người mà sống, mà cống hiến. Bởi nếu thế hệ trước có thể gửi trọn tuổi xuân vào bom đạn, thì thế hệ này cũng không được phép sống thờ ơ, vô nghĩa giữa hòa bình. Học tập, lao động, sáng tạo, giữ gìn và phát huy truyền thống – đó chính là cách chúng ta trả lời cho những lời hứa còn dang dở của cha anh.

Chiến tranh đã cướp đi nhiều điều, nhưng nó để lại cho chúng ta một di sản vô giá: niềm tin vào sức sống bất diệt của dân tộc, vào tình yêu thương, vào lý tưởng độc lập, tự do. Thế hệ trẻ hôm nay cần nâng niu ký ức ấy, không phải để chìm đắm trong quá khứ, mà để biết cách bước tiếp một cách xứng đáng, để mỗi bước đi đều in bóng dáng của những người đã nằm lại nơi Thành cổ, nơi chiến trường.

Hòa bình thật sự là món quà lớn nhất mà thế hệ đi trước đã gửi lại. Và nhiệm vụ của chúng ta – những người trẻ sinh ra trong hòa bình – là giữ cho món quà ấy mãi xanh, mãi đẹp, không bao giờ bị đánh mất.

#butnghien #vanhoctre #muado
 
Viết trả lời...
"Vợ nhặt" là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân. Truyện viết về đề tài người nông dân nghèo trong nạn đói 1945. Cùng Triều Anh tham khảo bài soạn sau:

84BDD629-3500-4447-9229-FD7FD0BE3F13.jpeg
Ảnh: sưu tầm

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả: 1920 – 2007.

- Tên thật: Nguyễn Văn Tài.
- Quê: huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Xuất thân: dân ngụ cư, chỉ được học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết văn.
- Là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người” với “thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Kim Lân nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
- Sở trường: chuyên viết truyện ngắn và thành công về đề tài nông thôn và người nông dân. Tác phẩm của ông thường đề cập đến cuộc sống của những con người nghèo khổ, thiếu thốn mà yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh.
- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962).

2. Tác phẩm Vợ nhặt

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

b. Bối cảnh xã hội của truyện
Đầu năm 1940 phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó Pháp tăng thuế và ra sức vơ vét, bóc lột. Mùa xuân năm 1945 từ Lạng Sơn đến Quảng Trị, nông dân ta lâm vào nạn đói chưa từng thấy trong lịch sử: hơn hai triệu người chết đói thê thảm.
=> Nỗi đau này làm xúc động sâu sắc giới văn nghệ sĩ, bằng tiếng nói riêng của mình Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn thành công: Vợ nhặt. Tác phẩm được hoàn thành khá lâu sau nạn đói, nhưng cảm quan về cái đói, có thể nói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật.

c. Tóm tắt truyện
Tràng là một người dân ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Chỉ nhờ bốn bát bánh đúc, anh đã nhặt được vợ giữa những ngày đói, người chết như ngả rạ. Khi Tràng đưa vợ qua xóm ngụ cư, mọi người bàn tán xôn xao. Tràng đưa vợ về nhà ra mắt mẹ. Bà cụ Tứ tuy ban đầu xót xa, ai oán nhưng rồi cũng mừng lòng chấp nhận nàng dâu mới. Sáng hôm sau, cả nhà ăn bữa cháo rau giữa tiếng hờ khóc từ nhà có người chết và tiếng trống thúc thuế dồn dập. Họ vẫn hi vọng vào một tương lai khá hơn, tất cả họ đều hướng đến cuộc sống mới. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đi phá kho thóc dưới lá cờ đỏ bay phấp phới.

d. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”
- “Vợ nhặt” là một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên, dễ dàng như người ta nhặt một thứ đồ vật.
+ Nhan đề đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc về giá trị con người. Giá trị con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào.
+ Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Chính nạn đói khủng khiếp năm 1945 của XHTD nửa PK đã gây ra điều đó. Tuy nhiên, người “vợ nhặt” lại là người đem đến hạnh phúc cho gia đình Tràng.
- Nhan đề “Vợ nhặt” vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của con người. Dù cho con người có ở trong tình cảnh nghiệt ngã nhất, họ vẫn không nguôi khát vọng và niềm tin về hạnh phúc gia đình.

II. Đọc – hiểu văn bản

1. Tình huống truyện

- Tràng là một chàng trai sống ở xóm ngụ cư nghèo mà lại xấu xí, dở hơi, tưởng không thể nào lấy được vợ. Thế mà Tràng lại nhặt được vợ chỉ bằng mấy câu bông đùa “tầm phơ tầm phào” và bốn bát bánh đúc.
- Tình huống nhặt vợ của Tràng diễn ra trong một khoảnh khắc đặc biệt: nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang đe dọa cuộc sống từng con người trong mỗi gia đình, mỗi làng xóm và chính Tràng cũng đang trong tình cảnh bấp bênh đó.
- Tình huống Tràng nhặt được vợ đã đem lại sự ngạc nhiên cho nhiều người: Trẻ con và cả người lớn trong xóm ngụ cư; mẹ của Tràng và bản thân Tràng cũng không ngờ được, cứ ngỡ ngàng như không phải.
=> Một tình huống éo le, giàu kịch tính và rất độc đáo.
- Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Nó thể hiện giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
+ Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
+ Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái cưu mang đùm bọc lẫn nhau, khát vọng hướng tới cuộc sống và hạnh phúc. Điều mà Kim Lân muốn nói là trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn muốn cứ được là con người.
+ Giá trị nghệ thuật: Tình huống đã tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật đồng thời bộc lộ chủ đề tác phẩm. Tràng nhặt vợ còn kích thích sự tò mò của người đọc, buộc người đọc phải suy ngẫm về một tình huống vừa bi thảm vừa cảm động.

2. Bức tranh hiện thực về cảnh ảm đạm, thê lương của nạn đói

a. Cảnh vật

- Không gian
+ Cái đói đã tràn vào xóm ngụ cư. Con đường vì cái đói mà khẳng khiu, gầy guộc. Xóm chợ thì xơ xác, heo hút.
+ Từ những cánh đồng, gió thổi vào ngăn ngắt.
+ “hai bên dãy phố, úp xúp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”.
- Thời gian
Vào buổi chiều chạng vạng của một ngày, như sự kết thúc đi dần vào đêm tối.
- Không khí
“vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Âm thanh
“tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”
=> Khung cảnh nạn đói gợi sự ám ảnh, rợn lạnh đầy âm khí.

b. Con người
- Người sống
+ Trẻ con
Ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người lớn
Đội chiếu lũ lượt, bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và năm ngổn ngang khắp lều chợ, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
- Người chết
“như ngả rạ”, ngày nào cũng có “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”.
* Nhận xét: Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa. Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng queo bên đường” ngày mai. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối sầm lại vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống như một đám ma khổng lồ mà bản nhạc huyên luôn ám ảnh, chỉ chực cất lên khi có thêm một ma đói.

3. Vẻ đẹp của người dân lao động trong nạn đói

a. Nhân vật Tràng

- Xuất thân: nghèo khổ sống ở xóm ngụ cư cùng với người mẹ già. Làm nghề kéo xe thóc cho liên đoàn tỉnh.
- Ngoại hình: xấu xí, ngờ nghệch.
+ Hai con mắt nhỏ tí.
+ Mặt thô kệch, hai bên quai hàm bạnh ra.
+ Thân hình vậm vạp, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng to rộng như lưng gấu.
+ Có tật vừa đi vừa nói một mình. Lời nói cộc cằn, thô lỗ.
=> Gợi liên tưởng về các nhân vật chàng ngốc trong truyện cổ dân gian, hiện thân cho một số phận bất hạnh. Có thể sẽ không bao giờ có được vợ.
- Tính cách, phẩm chất: vô tư thích trêu đùa với trẻ con, có một tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng san sẻ miếng ăn trong lúc đói kém, chấp nhận người vợ theo.
* Diễn biến tâm trạng của Tràng khi chấp nhận người vợ theo:
- Lúc đầu: có sự phân vân, lo lắng: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”.
- Rồi quyết định đưa người phụ nữ kia về nhà: “chậc, kệ!”
=> Không phải là sự quyết định liều lĩnh mà là một sự cưu mang, chứa đựng tình thương của con người trong cảnh khốn cùng.
- Trên đường về nhà: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
=> Niềm khao khát hạnh phúc gia đình đã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và chết. “Trong một lúc hình như Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày. Quên cả cái đói và khát đang đe dọa quên cả những tháng ngày trước mặt.” Lúc bấy giờ trong lòng Tràng chỉ có tình nghĩa với người đàn bà đi bên cạnh. Và một cảm cảm giác thật lạ đang “ôm ấp, mơn man,...tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
- Việc Tràng mua cho vợ một số vật dụng thiết yếu, mua dầu thắp, chủ động giới thiệu vợ với mẹ để tránh cho người phụ nữ có cảm giác ngượng ngùng, mặc cảm. => Người đàn ông tế nhị, biết trân trọng người bạn đời của mình mặc dù người vợ có được một cách dễ dàng.
- Tâm trạng và hành động của Tràng sau một ngày có vợ: sự ám ảnh về cái đói thoáng chốc bay biến để chỉ còn cảm giác hạnh phúc.
+ “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, “việc có vợ còn ngỡ ngàng như không phải”, “hắn thấy thương yêu và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “hắn thấy hắn nên người”, “hắn thấy hắn có trách nhiệm lo lắng cho vợ con sau này”.
=> Bài học nhân sinh: Giá trị của hạnh phúc.
- Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người, giá trị con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất đi.
- Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu thương giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.
- Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực của người nông dân giữa năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của họ.

b. Nhân vật Thị - người vợ nhặt
- Xuất hiện trong tác phẩm: không có đến cả cái tên, không nhà cửa, không người thân, không quê quán.
- Là nạn nhân bị cái đói giày vò một cách dữ dội. Cái đói đã làm Thị biến dạng từ ngoại hình đến nhân cách, không còn cả lòng tự trọng.
- Ngoại hình: héo hon, tàn tạ.
+ Lần thứ nhất Tràng gặp: Thị đang ngồi chờ nhặt hạt rơi hạt vãi bên kho thóc, hay chờ người đến thuê làm. Nói năng thì chao chát, chỏng lỏn.
=> Thị vẫn còn tươi tỉnh.
+ Lần thứ hai Tràng gặp: Thị đã biến đổi đến thảm hại khiến Tràng không thể nhận ra: “Hôm nay thị rách quá áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sộp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
=> Cái đói tàn phá hình hài của Thị.
- Tính cách: liều lĩnh, chao chát, chỏng lỏn.
+ Thị còn trơ trẽn, cố ý gặp Tràng gợi ý để xin ăn và “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Trong cơn đói đang hành hạ, chỉ qua câu nói nửa đùa nửa thật mà Thị đã chấp nhận theo Tràng về nhà.
=> Thân phận trôi dạt, cỏ rác, thành thứ có thể nhặt được. Hoàn cảnh của Thị thật tội nghiệp, đáng thương. Vì đói quá nên liều, sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ để tìm một chỗ bấu víu, một chốn nương tựa trong những ngày đói.
- Sau khi chấp nhận làm vợ Tràng: Thị hoàn toàn thay đổi trở thành người phụ nữ tinh tế, hiền hậu.
+ Đi bên cạnh Tràng về xóm ngụ cư Thị có vẻ rón rén, e thẹn.
+ Về đến nhà: khép nép, ngượng ngập, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”.
+ Sáng hôm sau: Thị quét dọn nhà cửa, “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là một người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn có vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
+ Khi ăn bát chè khoán “đắng chát và nghẹn bứ” Thị vẫn “thản nhiên và vào miệng”.
=> Hạnh phúc giúp con người sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của mình. Chính cái mái ấm gia đình, chính cuộc sống tuy nghèo khổ nhưng đậm đà tình nghĩa ấy đã thắp sáng trong Thị một niềm hạnh phúc, một niềm tin yêu ở cuộc sống.

c. Bà Cụ Tứ - một mẹ nghèo từng trải đôn hậu.
- Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình, con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê gớm.
- Khi biết con có vợ theo về, tâm trạng bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú:
+ Nghĩ đến hoàn cảnh túng thiếu đói khát của gia đình mình, cụ thấy tủi thân, tủi phận.
+ Cụ biết vì đâu mà Thị phải theo con mình “bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót” và nói với vợ chồng Tràng: “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.
+ Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi lo vừa là niềm vui mừng của bà cụ Tứ. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo, vì lấy gì để nuôi nhau, liệu có sống qua nạn đói này hay không. Tuy vậy dẫu sao ở cụ niềm vui mừng vẫn nhiều hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Cụ cố giấu cái lo để động viên các con. Nhưng nghĩ mãi, bà cụ nghẹn lời, nước mắt chảy ròng ròng. Thì ra cho dù bị cái đói, cái chết đe doạ, con người ta vẫn hướng tới tương lai, vẫn khát khao cuộc sống gia đình.
=> Tâm trạng của bà cụ Tứ đã được diễn tả một cách sắc sảo và chân thật, góp phần tô đậm chủ đề của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Truyện ngắn “Vợ nhặt” thể hiện được thảm cảnh của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 nên mang giá trị hiện thực sâu sắc: Lên án tội ác của Pháp và Nhật đã đẩy dân ta vào cái chết khổ nhục nhất.
- Đặc biệt tác phẩm còn thể hiện được tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn khao khát tình thương, khao khát có một tổ ấm gia đình, luôn hướng về sự sống, luôn tin tưởng ở tương lai, mà tương lai gắn liền với cách mạng.

2. Nghệ thuật
- Kết cấu truyện: Truyện mở ra vào một buổi chiều chạng vạng và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa”, mở đầu tác phẩm ta bắt gặp một anh Tràng cô độc, kết thúc truyện Tràng đã có một gia đình...
- Dựng truyện: Tự nhiên, đơn giản làm nổi bật hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
- Giọng văn: Mộc mạc giản dị.
- Nhân vật: Tiêu biểu cho những người lao động cơ cực nhưng vẫn tươi đẹp tấm lòng nhân hậu trong sáng....
- Tình huống truyện độc đáo.​
Thêm
7K
2
2
Bài làm phân tích: TRUYỆN NGẮN VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN

Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân được nhớ đến như một cây bút mộc mạc, giản dị mà chân thành. Ông sinh năm 1920, mất năm 2007, tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Xuất thân từ dân ngụ cư nghèo, chỉ học hết bậc tiểu học, ông vừa làm thợ, vừa viết văn. Chính hoàn cảnh ấy đã hun đúc nên một ngòi bút gắn bó tha thiết với “đất”, với “người”, với vẻ đẹp thuần hậu, nguyên sơ của nông thôn Việt Nam. Kim Lân dành cả đời sáng tác cho mảng truyện ngắn, đặc biệt là đề tài người nông dân lam lũ, nghèo khổ nhưng yêu đời, thật thà mà thông minh, hóm hỉnh. Các tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)… Với những cống hiến bền bỉ, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001.

Trong sự nghiệp sáng tác ấy, Vợ nhặt là tác phẩm để đời, in trong tập truyện Con chó xấu xí (1962). Truyện vốn dựa trên tiểu thuyết Xóm ngụ cư mà ông viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị thất lạc bản thảo. Sau hòa bình lập lại năm 1954, ông dựa lại cốt truyện cũ để viết nên thiên truyện ngắn này.

Tác phẩm lấy bối cảnh một trong những thảm họa bi thương nhất của dân tộc – nạn đói năm 1945. Khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, cùng với thực dân Pháp, nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”. Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, Pháp tăng sưu thuế, bóc lột tận cùng khiến từ Lạng Sơn đến Quảng Trị, hơn hai triệu đồng bào chết đói thê thảm. Trước hiện thực ấy, nhiều văn nghệ sĩ đã cất tiếng nói tố cáo và thương xót. Bằng cái nhìn nhân đạo sâu xa, Kim Lân đã góp vào nền văn học một áng truyện lay động lòng người – Vợ nhặt.

Câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng – một anh dân ngụ cư nghèo, làm nghề kéo xe bò thuê. Trong những ngày đói khát, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc rẻ rúng, Tràng bất ngờ “nhặt” được vợ – một người đàn bà tội nghiệp, đói khát đến mức bám lấy anh. Khi Tràng dắt vợ về, cả xóm ngụ cư xôn xao bàn tán, vừa mừng vừa lo. Mẹ Tràng – bà cụ Tứ, lúc đầu bàng hoàng, xót xa, rồi cuối cùng cũng đón nhận nàng dâu mới bằng tấm lòng cưu mang, thương cảm. Sáng hôm sau, cả nhà có một bữa cơm thảm đạm với cháo loãng và rau dại, trong không khí vẫn văng vẳng tiếng hờ khóc và trống thúc thuế dồn dập. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm trí Tràng bỗng sáng lên hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ phấp phới – một niềm hi vọng mơ hồ nhưng mãnh liệt về sự đổi thay của cuộc đời.

Nhan đề Vợ nhặt trước hết gây ấn tượng mạnh cho người đọc. “Nhặt” vốn là từ chỉ hành động tùy tiện, ít coi trọng, như nhặt một món đồ bỏ đi. Ấy vậy mà trong truyện, Tràng lại “nhặt” được vợ – một sự kiện vốn trọng đại trong đời người. Hai chữ giản dị mà ám ảnh ấy đã phơi bày thảm cảnh bi thương của nạn đói: con người bị rẻ rúng đến mức có thể trở thành một món đồ “nhặt” được. Giá trị, nhân phẩm tưởng như bị chà đạp, đánh mất trong cơn đói khủng khiếp. Nhưng đồng thời, từ “vợ nhặt” lại gợi ra tia sáng nhân bản: dù được “nhặt” về, người đàn bà ấy vẫn bước vào gia đình Tràng, trở thành điểm tựa tinh thần, mang lại niềm hạnh phúc và hi vọng. Nhan đề do đó vừa phản ánh bi kịch vừa tôn vinh khát vọng sống mãnh liệt của con người.

Đọc Vợ nhặt, ta không chỉ xót xa trước cảnh đói nghèo mà còn rung động trước tấm lòng nhân hậu của những con người cùng khổ. Tràng – một kẻ nghèo đến mức bản thân còn chưa lo nổi – vậy mà vẫn cưu mang người đàn bà lạ. Bà cụ Tứ – trong cảnh già nua, nghèo đói – vẫn mở rộng vòng tay đón nhận con dâu, nuôi dưỡng một niềm tin mơ hồ vào ngày mai. Người vợ nhặt – từ chỗ rách rưới, đói khát, khi bước vào gia đình Tràng, cũng trở nên e thẹn, biết vun vén, biết hi vọng. Ở những con người ấy, giữa bóng tối của cái chết vẫn bừng lên ngọn lửa của tình thương, của khát vọng được sống, được làm người.

Đặc biệt, đoạn kết của truyện để lại dư âm sâu sắc. Hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí Tràng không chỉ là chi tiết nghệ thuật mà còn là biểu tượng của tương lai. Nó cho thấy trong cảnh ngộ bi đát nhất, con người vẫn hướng về ánh sáng, về cách mạng, về một cuộc đời mới.

Có thể nói, Vợ nhặt không chỉ tái hiện hiện thực đau thương của dân tộc trong nạn đói 1945, mà quan trọng hơn, nó khẳng định niềm tin vào sức sống mãnh liệt, vào tình thương và khát vọng hạnh phúc của những con người nghèo khổ. Nghệ thuật dựng cảnh chân thực, ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi, cùng khả năng miêu tả tâm lí tinh tế đã làm nên một truyện ngắn xúc động, giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.

Khi gấp lại trang văn, ta càng thấm thía hơn nỗi đau khổ mà dân tộc đã trải qua, đồng thời cũng tin yêu hơn vào vẻ đẹp nhân hậu, vào sức sống bền bỉ của người Việt Nam. Vợ nhặt vì thế mãi mãi là một trong những áng văn tiêu biểu của văn học hiện đại, vừa là tiếng khóc thương vừa là khúc hát ngợi ca con người trong khổ đau.
 
Viết trả lời...
"Vợ nhặt" là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân. Truyện viết về đề tài người nông dân nghèo trong nạn đói 1945. Cùng Triều Anh tham khảo bài soạn sau:

84BDD629-3500-4447-9229-FD7FD0BE3F13.jpeg
Ảnh: sưu tầm

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả: 1920 – 2007.

- Tên thật: Nguyễn Văn Tài.
- Quê: huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Xuất thân: dân ngụ cư, chỉ được học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết văn.
- Là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người” với “thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Kim Lân nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
- Sở trường: chuyên viết truyện ngắn và thành công về đề tài nông thôn và người nông dân. Tác phẩm của ông thường đề cập đến cuộc sống của những con người nghèo khổ, thiếu thốn mà yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh.
- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962).

2. Tác phẩm Vợ nhặt

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

b. Bối cảnh xã hội của truyện
Đầu năm 1940 phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc nước ta Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, trong khi đó Pháp tăng thuế và ra sức vơ vét, bóc lột. Mùa xuân năm 1945 từ Lạng Sơn đến Quảng Trị, nông dân ta lâm vào nạn đói chưa từng thấy trong lịch sử: hơn hai triệu người chết đói thê thảm.
=> Nỗi đau này làm xúc động sâu sắc giới văn nghệ sĩ, bằng tiếng nói riêng của mình Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn thành công: Vợ nhặt. Tác phẩm được hoàn thành khá lâu sau nạn đói, nhưng cảm quan về cái đói, có thể nói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật.

c. Tóm tắt truyện
Tràng là một người dân ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Chỉ nhờ bốn bát bánh đúc, anh đã nhặt được vợ giữa những ngày đói, người chết như ngả rạ. Khi Tràng đưa vợ qua xóm ngụ cư, mọi người bàn tán xôn xao. Tràng đưa vợ về nhà ra mắt mẹ. Bà cụ Tứ tuy ban đầu xót xa, ai oán nhưng rồi cũng mừng lòng chấp nhận nàng dâu mới. Sáng hôm sau, cả nhà ăn bữa cháo rau giữa tiếng hờ khóc từ nhà có người chết và tiếng trống thúc thuế dồn dập. Họ vẫn hi vọng vào một tương lai khá hơn, tất cả họ đều hướng đến cuộc sống mới. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đi phá kho thóc dưới lá cờ đỏ bay phấp phới.

d. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”
- “Vợ nhặt” là một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên, dễ dàng như người ta nhặt một thứ đồ vật.
+ Nhan đề đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc về giá trị con người. Giá trị con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào.
+ Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Chính nạn đói khủng khiếp năm 1945 của XHTD nửa PK đã gây ra điều đó. Tuy nhiên, người “vợ nhặt” lại là người đem đến hạnh phúc cho gia đình Tràng.
- Nhan đề “Vợ nhặt” vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của con người. Dù cho con người có ở trong tình cảnh nghiệt ngã nhất, họ vẫn không nguôi khát vọng và niềm tin về hạnh phúc gia đình.

II. Đọc – hiểu văn bản

1. Tình huống truyện

- Tràng là một chàng trai sống ở xóm ngụ cư nghèo mà lại xấu xí, dở hơi, tưởng không thể nào lấy được vợ. Thế mà Tràng lại nhặt được vợ chỉ bằng mấy câu bông đùa “tầm phơ tầm phào” và bốn bát bánh đúc.
- Tình huống nhặt vợ của Tràng diễn ra trong một khoảnh khắc đặc biệt: nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang đe dọa cuộc sống từng con người trong mỗi gia đình, mỗi làng xóm và chính Tràng cũng đang trong tình cảnh bấp bênh đó.
- Tình huống Tràng nhặt được vợ đã đem lại sự ngạc nhiên cho nhiều người: Trẻ con và cả người lớn trong xóm ngụ cư; mẹ của Tràng và bản thân Tràng cũng không ngờ được, cứ ngỡ ngàng như không phải.
=> Một tình huống éo le, giàu kịch tính và rất độc đáo.
- Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Nó thể hiện giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
+ Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.
+ Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái cưu mang đùm bọc lẫn nhau, khát vọng hướng tới cuộc sống và hạnh phúc. Điều mà Kim Lân muốn nói là trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn muốn cứ được là con người.
+ Giá trị nghệ thuật: Tình huống đã tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật đồng thời bộc lộ chủ đề tác phẩm. Tràng nhặt vợ còn kích thích sự tò mò của người đọc, buộc người đọc phải suy ngẫm về một tình huống vừa bi thảm vừa cảm động.

2. Bức tranh hiện thực về cảnh ảm đạm, thê lương của nạn đói

a. Cảnh vật

- Không gian
+ Cái đói đã tràn vào xóm ngụ cư. Con đường vì cái đói mà khẳng khiu, gầy guộc. Xóm chợ thì xơ xác, heo hút.
+ Từ những cánh đồng, gió thổi vào ngăn ngắt.
+ “hai bên dãy phố, úp xúp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”.
- Thời gian
Vào buổi chiều chạng vạng của một ngày, như sự kết thúc đi dần vào đêm tối.
- Không khí
“vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Âm thanh
“tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”
=> Khung cảnh nạn đói gợi sự ám ảnh, rợn lạnh đầy âm khí.

b. Con người
- Người sống
+ Trẻ con
Ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người lớn
Đội chiếu lũ lượt, bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và năm ngổn ngang khắp lều chợ, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
- Người chết
“như ngả rạ”, ngày nào cũng có “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”.
* Nhận xét: Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa. Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng queo bên đường” ngày mai. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối sầm lại vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống như một đám ma khổng lồ mà bản nhạc huyên luôn ám ảnh, chỉ chực cất lên khi có thêm một ma đói.

3. Vẻ đẹp của người dân lao động trong nạn đói

a. Nhân vật Tràng

- Xuất thân: nghèo khổ sống ở xóm ngụ cư cùng với người mẹ già. Làm nghề kéo xe thóc cho liên đoàn tỉnh.
- Ngoại hình: xấu xí, ngờ nghệch.
+ Hai con mắt nhỏ tí.
+ Mặt thô kệch, hai bên quai hàm bạnh ra.
+ Thân hình vậm vạp, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng to rộng như lưng gấu.
+ Có tật vừa đi vừa nói một mình. Lời nói cộc cằn, thô lỗ.
=> Gợi liên tưởng về các nhân vật chàng ngốc trong truyện cổ dân gian, hiện thân cho một số phận bất hạnh. Có thể sẽ không bao giờ có được vợ.
- Tính cách, phẩm chất: vô tư thích trêu đùa với trẻ con, có một tấm lòng nhân hậu, sẵn sàng san sẻ miếng ăn trong lúc đói kém, chấp nhận người vợ theo.
* Diễn biến tâm trạng của Tràng khi chấp nhận người vợ theo:
- Lúc đầu: có sự phân vân, lo lắng: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”.
- Rồi quyết định đưa người phụ nữ kia về nhà: “chậc, kệ!”
=> Không phải là sự quyết định liều lĩnh mà là một sự cưu mang, chứa đựng tình thương của con người trong cảnh khốn cùng.
- Trên đường về nhà: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
=> Niềm khao khát hạnh phúc gia đình đã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và chết. “Trong một lúc hình như Tràng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày. Quên cả cái đói và khát đang đe dọa quên cả những tháng ngày trước mặt.” Lúc bấy giờ trong lòng Tràng chỉ có tình nghĩa với người đàn bà đi bên cạnh. Và một cảm cảm giác thật lạ đang “ôm ấp, mơn man,...tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
- Việc Tràng mua cho vợ một số vật dụng thiết yếu, mua dầu thắp, chủ động giới thiệu vợ với mẹ để tránh cho người phụ nữ có cảm giác ngượng ngùng, mặc cảm. => Người đàn ông tế nhị, biết trân trọng người bạn đời của mình mặc dù người vợ có được một cách dễ dàng.
- Tâm trạng và hành động của Tràng sau một ngày có vợ: sự ám ảnh về cái đói thoáng chốc bay biến để chỉ còn cảm giác hạnh phúc.
+ “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, “việc có vợ còn ngỡ ngàng như không phải”, “hắn thấy thương yêu và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “hắn thấy hắn nên người”, “hắn thấy hắn có trách nhiệm lo lắng cho vợ con sau này”.
=> Bài học nhân sinh: Giá trị của hạnh phúc.
- Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người, giá trị con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất đi.
- Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu thương giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.
- Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực của người nông dân giữa năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của họ.

b. Nhân vật Thị - người vợ nhặt
- Xuất hiện trong tác phẩm: không có đến cả cái tên, không nhà cửa, không người thân, không quê quán.
- Là nạn nhân bị cái đói giày vò một cách dữ dội. Cái đói đã làm Thị biến dạng từ ngoại hình đến nhân cách, không còn cả lòng tự trọng.
- Ngoại hình: héo hon, tàn tạ.
+ Lần thứ nhất Tràng gặp: Thị đang ngồi chờ nhặt hạt rơi hạt vãi bên kho thóc, hay chờ người đến thuê làm. Nói năng thì chao chát, chỏng lỏn.
=> Thị vẫn còn tươi tỉnh.
+ Lần thứ hai Tràng gặp: Thị đã biến đổi đến thảm hại khiến Tràng không thể nhận ra: “Hôm nay thị rách quá áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sộp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”
=> Cái đói tàn phá hình hài của Thị.
- Tính cách: liều lĩnh, chao chát, chỏng lỏn.
+ Thị còn trơ trẽn, cố ý gặp Tràng gợi ý để xin ăn và “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Trong cơn đói đang hành hạ, chỉ qua câu nói nửa đùa nửa thật mà Thị đã chấp nhận theo Tràng về nhà.
=> Thân phận trôi dạt, cỏ rác, thành thứ có thể nhặt được. Hoàn cảnh của Thị thật tội nghiệp, đáng thương. Vì đói quá nên liều, sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ để tìm một chỗ bấu víu, một chốn nương tựa trong những ngày đói.
- Sau khi chấp nhận làm vợ Tràng: Thị hoàn toàn thay đổi trở thành người phụ nữ tinh tế, hiền hậu.
+ Đi bên cạnh Tràng về xóm ngụ cư Thị có vẻ rón rén, e thẹn.
+ Về đến nhà: khép nép, ngượng ngập, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”.
+ Sáng hôm sau: Thị quét dọn nhà cửa, “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là một người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn có vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
+ Khi ăn bát chè khoán “đắng chát và nghẹn bứ” Thị vẫn “thản nhiên và vào miệng”.
=> Hạnh phúc giúp con người sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của mình. Chính cái mái ấm gia đình, chính cuộc sống tuy nghèo khổ nhưng đậm đà tình nghĩa ấy đã thắp sáng trong Thị một niềm hạnh phúc, một niềm tin yêu ở cuộc sống.

c. Bà Cụ Tứ - một mẹ nghèo từng trải đôn hậu.
- Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình, con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê gớm.
- Khi biết con có vợ theo về, tâm trạng bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú:
+ Nghĩ đến hoàn cảnh túng thiếu đói khát của gia đình mình, cụ thấy tủi thân, tủi phận.
+ Cụ biết vì đâu mà Thị phải theo con mình “bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót” và nói với vợ chồng Tràng: “chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”.
+ Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi lo vừa là niềm vui mừng của bà cụ Tứ. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo, vì lấy gì để nuôi nhau, liệu có sống qua nạn đói này hay không. Tuy vậy dẫu sao ở cụ niềm vui mừng vẫn nhiều hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Cụ cố giấu cái lo để động viên các con. Nhưng nghĩ mãi, bà cụ nghẹn lời, nước mắt chảy ròng ròng. Thì ra cho dù bị cái đói, cái chết đe doạ, con người ta vẫn hướng tới tương lai, vẫn khát khao cuộc sống gia đình.
=> Tâm trạng của bà cụ Tứ đã được diễn tả một cách sắc sảo và chân thật, góp phần tô đậm chủ đề của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Truyện ngắn “Vợ nhặt” thể hiện được thảm cảnh của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 nên mang giá trị hiện thực sâu sắc: Lên án tội ác của Pháp và Nhật đã đẩy dân ta vào cái chết khổ nhục nhất.
- Đặc biệt tác phẩm còn thể hiện được tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn khao khát tình thương, khao khát có một tổ ấm gia đình, luôn hướng về sự sống, luôn tin tưởng ở tương lai, mà tương lai gắn liền với cách mạng.

2. Nghệ thuật
- Kết cấu truyện: Truyện mở ra vào một buổi chiều chạng vạng và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa”, mở đầu tác phẩm ta bắt gặp một anh Tràng cô độc, kết thúc truyện Tràng đã có một gia đình...
- Dựng truyện: Tự nhiên, đơn giản làm nổi bật hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
- Giọng văn: Mộc mạc giản dị.
- Nhân vật: Tiêu biểu cho những người lao động cơ cực nhưng vẫn tươi đẹp tấm lòng nhân hậu trong sáng....
- Tình huống truyện độc đáo.​
Thêm
7K
2
2
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VỢ NHẶT – KIM LÂN

1. Tác giả
Kim Lân (1920 – 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân từ tầng lớp dân ngụ cư nghèo khổ, chỉ học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết văn. Là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, Kim Lân được coi là “người một lòng một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”. Ông viết nhiều về người nông dân nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác nhưng thông minh và hóm hỉnh.
Các tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)… Với những cống hiến ấy, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2001.

2. Tác phẩm Vợ nhặt

a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu nhất của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tác phẩm được viết dựa trên tiểu thuyết Xóm ngụ cư mà ông sáng tác sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị mất bản thảo. Đến khi hòa bình lập lại (1954), ông viết lại thành truyện ngắn Vợ nhặt.

b. Bối cảnh xã hội
Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945. Dưới ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp, nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”. Lúa bị bắt nhổ đi để trồng đay, thuế khóa nặng nề, bóc lột tận xương tủy, dẫn đến nạn đói từ Lạng Sơn đến Quảng Trị, cướp đi sinh mạng hơn hai triệu người.
Đứng trước hiện thực đau thương ấy, Kim Lân đã bằng cái nhìn nhân đạo sâu sắc viết nên Vợ nhặt. Dù ra đời sau nhiều năm, nhưng tác phẩm vẫn thấm đẫm cảm quan về cái đói, ám ảnh đến từng chi tiết.

c. Tóm tắt truyện
Nhân vật chính là Tràng – một người dân xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Trong những ngày đói, chỉ với bốn bát bánh đúc, anh bất ngờ “nhặt” được vợ – một người đàn bà đói rách, tội nghiệp. Khi Tràng đưa vợ về xóm, dân tình bàn tán xôn xao. Mẹ anh – bà cụ Tứ, ban đầu ngạc nhiên, tủi buồn nhưng rồi cũng chấp nhận, bởi bà hiểu con trai mình đã có một điểm tựa. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đạm bạc chỉ có cháo loãng và rau dại, cả nhà vẫn nhen nhóm niềm tin vào tương lai. Trong tâm trí Tràng hiện lên hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ phấp phới – biểu tượng cho khát vọng đổi đời.

d. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”
Nhan đề gây ấn tượng mạnh bởi sự đối lập:

“Vợ nhặt” là cách nói giản dị, gợi sự rẻ rúng về giá trị con người trong nạn đói – con người có thể được “nhặt” dễ dàng như đồ vật bỏ đi. Qua đó, tác phẩm phản ánh hiện thực đau xót: nạn đói khiến nhân phẩm bị chà đạp đến tận cùng.

Tuy nhiên, người “vợ nhặt” ấy lại mang ý nghĩa thiêng liêng, đem đến hạnh phúc, gắn kết và hi vọng cho gia đình Tràng.

Vì thế, nhan đề vừa phơi bày thảm cảnh bi thương của nhân dân trong nạn đói, vừa tôn vinh khát vọng sống, tình thương và sự đùm bọc giữa những con người cùng khổ.

3. Kết luận
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, vừa phản ánh hiện thực tàn khốc của nạn đói 1945, vừa ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của người lao động nghèo. Qua hình ảnh “vợ nhặt”, nhà văn khẳng định: dù trong cảnh ngộ bi đát nhất, con người vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn nhen nhóm niềm tin vào sự sống và một tương lai tươi sáng.
 
Viết trả lời...
[NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM]

Đất nước bốn nghìn năm đứng dậy từ bùn đen, vùng lên giành lấy độc lập, hòa bình từ tay giặc, chuyển mình và phát triển theo nhịp sống toàn cầu. Theo dòng chảy lịch sử ấy, văn chương xuất hiện như một bức tranh siêu thực phản ánh toàn bộ những năm tháng hưng thịnh suy vong của đất nước Việt Nam. Lịch sử văn học cũng chính là lịch sử tâm hồn của quốc gia ấy, con người ấy. Bởi vậy, thấu hiểu dòng chảy văn học nước nhà cũng là cách để thấm đằm những kinh nghiệm, cảm xúc của cha ông ta xưa.

Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Văn học dân gian ra đời và tồn tại trước thế kỉ X. Ở thời điểm đó, chữ viết chưa ra đời nên truyền miệng là phương thức truyền bá chủ đạo. Các sáng tác dân gian sau khi hoàn thiện thành một chỉnh thể thống nhất sẽ được lưu truyền qua nhiều thế hệ, nhiều tư tưởng cảm nhận khác nhau. Bởi thế, văn học dân gian thường tồn tại nhiều dị bản với những đặc điểm riêng. Đặc trưng nổi bật của giai đoạn văn học này là tính tập thể, không mang dấu ấn cá nhân của riêng ai. Các tác giả sáng tạo nên văn học dân gian được gọi là tác giả dân gian. Vì là sản phẩm của nhân dân quần chúng lao động, các sáng tác trong thời kỳ này không “nói chí” hay “chở đạo”. Chúng chỉ đơn thuần thể hiện tâm tư của người dân lao động, phục vụ cho những hoạt động sinh hoạt cộng đồng. Các sáng tác dân gian cũng là sự phản ánh văn hóa, tín ngưỡng của một thời, tạo tiền đề cho bước đi văn học của mọi thời. Đó là phương tiện gửi gắm những quan niêm của cha ông ta về lẽ sống, đức tin vào những giá trị có thực ở đời.

Văn học dân gian gồm nhiều thể loại như tục ngữ, câu đố, ca dao, đồng dao, hát ru, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn,... Mỗi thể loại đều mang một đặc trưng riêng, phản ánh được góc nhìn nghệ thuật riêng. Sản phẩm do quần chúng lao động sáng tạo theo phương thức truyền miệng nhưng chưa bao giờ mất đi tính hoàn chỉnh và nghệ thuật. Văn học dân gian là nền tảng thúc đẩy, phát triển những giá trị của văn học viết. Bởi vậy, trong các tác phẩm văn học viết thường kế tục những motif, tư tưởng hoặc cổ mẫu trong văn nghệ dân gian.

Văn học viết có sự phân hóa phức tạp theo từng thời kỳ, mỗi thời kỳ chịu sự ảnh hưởng của một hệ tư tưởng khác nhau. Nhìn chung, văn học viết gồm văn học trung đại (Thế kỉ X - XIX) và văn học hiện đại (Thế kỷ XX - nay). Văn học trung đại chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Văn học hiện đại mang sức ảnh hưởng từ phương Tây. Nhưng quan trọng hơn cả, văn học viết cũng chịu sự chi phối của văn học dân gian, khai thác đề tài, thi liệu, ngôn ngữ,.. trong tâm thế bổ sung và sáng tạo. Văn học viết mang theo hơi thở thời đại, bộc lộ rõ nét hơn cái “tôi” cá nhân thoát ra khỏi tính tập thể xưa cũ. Dù xuất hiện muộn vào thế kỉ X nhưng văn học viết lại nắm vai trò chủ đạo, giữ vị trí thống trị trong nền văn học nước nhà.

Văn học trung đại đặc trưng bởi tính phi ngã, sùng cổ, trang nhã, uyên bác, quy phạm, ước lệ, gắn liền với quan niệm văn - sử - triết bất phân. Những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này thường mang âm hưởng hào hùng, giàu khí thế, khẳng định ý chí tung hoành Nam Bắc của bậc trí thức nước Nam.

Văn học hiện đại thể hiện nỗ lực cách tân, đào thải tư tưởng bảo thủ, phát huy những tư tưởng hợp thời, tái sáng tạo theo một cách rất riêng. Ở giai đoạn này, văn học cho phép người sáng tạo thể hiện rõ cái “tôi” cá nhân. Người sáng tạo không nhất thiết phải là người trí thức. Văn chương hiện đại chịu sự chi phối bởi văn học phương Tây, nhưng không làm mờ đi bản sắc Việt Nam.

Dù là văn học ở thời kì hay giai đoạn nào, dù là văn học dân gian hay văn học viết, chúng đều tồn tại trong mạch chảy văn chương Việt Nma, làm nền hình thái nền văn học nước nhà. Bốn nghìn năm xây dựng và phát triển cũng kéo theo một mốc thời gian dài văn chương ra đời và phát triển.
Thêm
  • VĂN HỌC TRẺ.png
    VĂN HỌC TRẺ.png
    1.6 MB · Lượt xem: 13
66
0
1
Văn học Việt Nam là một dòng chảy liên tục, phong phú và đa dạng, phản ánh sâu sắc lịch sử, văn hóa và tư tưởng của dân tộc. Dòng chảy này được chia thành hai bộ phận chính là văn học dân gian và văn học viết, song song tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau.

Văn học dân gian

Đây là bộ phận văn học lâu đời nhất, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, ra đời từ thời kỳ thượng cổ. Văn học dân gian là tiếng nói chung của nhân dân, thể hiện tâm tư, tình cảm, ước mơ và kinh nghiệm sống của người Việt. Các thể loại tiêu biểu bao gồm:

Truyền thuyết: Kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử, ví dụ như Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh.

Cổ tích: Kể về cuộc sống và số phận con người, thể hiện ước mơ về công lý và hạnh phúc, ví dụ như Tấm Cám, Thạch Sanh.

Truyện cười: Phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, ví dụ như Tam đại con gà.

Ca dao, tục ngữ, thành ngữ: Những câu nói vần, ngắn gọn, chứa đựng kinh nghiệm sống và triết lý dân gian.

Văn học viết ✍️

Văn học viết bắt đầu phát triển mạnh từ thế kỷ X, khi nước Đại Việt giành được độc lập. Dòng chảy này được chia thành hai giai đoạn lớn:

1. Văn học trung đại (thế kỷ X - hết thế kỷ XIX)

Đặc điểm chính của giai đoạn này là sự phát triển của văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.

Văn học chữ Hán: Thường do vua, quan, nhà nho sáng tác. Nội dung chủ yếu là ngợi ca đất nước, thể hiện tinh thần yêu nước và tư tưởng Nho giáo. Tác phẩm tiêu biểu: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn).

Văn học chữ Nôm: Xuất hiện và phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XV, đặc biệt là vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Chữ Nôm là chữ viết do người Việt sáng tạo, dựa trên chữ Hán, để ghi âm tiếng Việt. Văn học chữ Nôm thường phản ánh đời sống nội tâm, số phận con người và tình yêu đôi lứa. Tác phẩm tiêu biểu: Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm).

2. Văn học hiện đại (đầu thế kỷ XX - nay)

Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của văn học Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây và sự ra đời của chữ Quốc ngữ.

Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: Văn học hiện đại hóa, xuất hiện nhiều trào lưu mới.

Thơ Mới: Nổi bật với việc đề cao cái "tôi" cá nhân, phá vỡ lối thơ cũ. Tiêu biểu: Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ.

Văn xuôi hiện thực phê phán: Phản ánh hiện thực xã hội tàn khốc, lên án bất công và sự tha hóa con người. Tiêu biểu: Nam Cao (Chí Phèo), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Vũ Trọng Phụng (Số đỏ).

Văn học lãng mạn: Tập trung vào cảm xúc cá nhân, thoát ly hiện thực. Tiêu biểu: Nhất Linh, Khái Hưng (nhóm Tự Lực Văn Đoàn).

Giai đoạn từ năm 1945 đến hết thế kỷ XX: Văn học chủ yếu đi theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, phản ánh cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Nổi bật với cảm hứng sử thi và lãng mạn cách mạng. Tác phẩm tiêu biểu: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Vợ nhặt (Kim Lân), Việt Bắc (Tố Hữu).

Giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến nay: Văn học đa dạng hơn về đề tài, phong cách và thể loại. Các tác giả trẻ mạnh dạn khám phá những góc nhìn mới về con người và xã hội, không còn bị gò bó bởi những khuôn mẫu cũ.

#vanhoc #vanhocvietnam #vanhoctre
 
Viết trả lời...
"Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trong trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn điểm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời" (Nguyễn Văn Thạc).

Người suốt đời đi tìm cái đẹp Nguyễn Tuân từng cảm khái "Đã là văn chương thì phải đẹp". Văn học nghệ thuật lấy cái đẹp làm khuôn vàng thước ngọc, biến những giá trị nhân văn trở thành tuyên ngôn ngàn đời. Nhưng nếu giá trị nhân văn chỉ hướng đến cái đẹp, liệu nó có trở nên đối nghịch với giá trị thực sự của văn chương - nghệ thuật vị nhân sinh?

Nam Cao là nhà văn lớn bậc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông hướng đến những phận người nhỏ bé, những số kiếp mỏng manh bị ngoại biên hóa, bị những thế lực chà đạp và làm cho câm tiếng. Nam Cao không chủ trương đi theo cái đẹp, không biến văn chương trở thành chốn bồng lai tiên cảnh, cách xa với cuộc sống lầm than của người đời. Trong những trang văn của ông, cái chết hiện lên như một cách để giải thoát, để thanh tẩy. Chết không đồng nghĩa với đầu hàng hay trốn tránh sự đời. Chết với Nam Cao là hành động duy nhất để đấu tranh để đòi lại quyền sống, để nói lên tiếng nói của những kiếp "người cùng khổ".

Có lẽ, cái chết đau đáu nhất trong văn ông phải nói đến cái chết của Chí Phèo. Từ một anh canh điền lương thiện, từng mơ đến cái cuộc sống bình dị "chồng cày cuốc vợ dệt vải", xã hội nhà tù thực dân đã khiến Chí đánh mất đi hoàn toàn phần người mình có. Chí cũng muốn được sống lương thiện như một người bình thường, nhưng "ai cho tao lương thiện"? Hở "ai cho tao lương thiện"? Chút nhân tính cuối cùng vừa nhen nhóm, giọt nước mắt truy nguyên hình hài quỷ dữ vừa lộ diện cũng là lúc loài người đẩy Chí đến ranh giới cuối cùng. Và cuối cùng, tác phẩm khép lại với hai cái chết của Chí và Bá Kiến. Không phải chết vì không muốn sống, mà bởi còn sống để làm gì khi đâu còn ai muốn mình lương thiện? Hoá ra, tên quỷ dữ của làng Vũ Đại lại là kẻ mang đầu óc tỉnh táo nhất. Cái chết của Chí Phèo đồng thời gây ra cái chết của tên Bá Kiến. Hắn phải chết vì đã tước đi quyền sống của bao người, Chí Phèo chết để cất lên tiếng nói của những kẻ bị bần cùng hoá, bị tha hoá, để xã hội biết câm đi tiếng nói vị kỷ cá nhân mà lắng nghe tiếng nói của những kẻ "cùng đường lạc lối".

Chết - để đòi quyền sống.
Thêm
209
2
2
Ý nghĩa cái chết của Chí Phèo

Cái chết của Chí Phèo là một bi kịch của người nông dân bị dồn vào bước đường cùng. Đó là cái chết để bảo vệ nhân tính vừa được thức tỉnh.

Sự thức tỉnh và khát khao làm người: Sau khi được Thị Nở đánh thức "bản chất lương thiện" bằng bát cháo hành và tình yêu, Chí Phèo khao khát trở lại cuộc sống bình thường. Hắn nhận ra mình không còn là con "quỷ dữ của làng Vũ Đại" mà là một con người với những ước mơ giản dị: một gia đình, một cuộc sống lương thiện.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Khi bà cô Thị Nở cấm cản mối quan hệ này, cánh cửa trở về thế giới loài người của Chí Phèo bị đóng sập. Câu hỏi day dứt "Ai cho tao lương thiện?" thể hiện sự tuyệt vọng tột cùng. Chí Phèo nhận ra mình không thể quay lại làm người lương thiện vì những vết sẹo trên mặt, những tội lỗi đã gây ra, và hơn hết là sự từ chối của xã hội.

Hành động của một người tỉnh táo: Việc Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát không phải là hành động của một kẻ say rượu mà là hành động của một người hoàn toàn tỉnh táo, ý thức rõ về bi kịch của mình. Hắn nhận ra Bá Kiến chính là kẻ đã đẩy mình vào con đường tha hóa, biến mình thành con quỷ dữ. Hắn giết Bá Kiến để trả thù và để chứng minh rằng mình không còn bị lợi dụng. Cái chết là cách duy nhất để hắn giải thoát khỏi kiếp sống tha hóa, để bảo toàn bản chất lương thiện vừa tìm thấy.

Ý nghĩa cái chết của Bá Kiến

Cái chết của Bá Kiến là sự trừng phạt tất yếu dành cho một kẻ thống trị tàn bạo, đại diện cho giai cấp địa chủ, cường hào ác bá.

Sự sụp đổ của quyền lực: Bá Kiến chết dưới lưỡi dao của chính kẻ mà hắn đã nhào nặn ra, kẻ mà hắn tưởng chừng có thể dễ dàng kiểm soát. Cái chết của hắn cho thấy sự sụp đổ của quyền lực độc ác, bóc lột, cho thấy "gieo gió thì gặt bão".

Lời tố cáo xã hội: Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo cùng lúc là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm, cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện.

Suy nghĩ của Nam Cao

Qua hai cái chết này, Nam Cao gửi gắm những suy nghĩ sâu sắc về con người và xã hội:

Tư tưởng nhân đạo: Nam Cao khẳng định rằng thiên lương (bản chất tốt đẹp của con người) không bao giờ mất đi, ngay cả trong những con người tưởng chừng như đã "tha hóa" hoàn toàn. Hắn tin vào khả năng "hồi sinh" của con người và bày tỏ niềm xót thương cho những số phận bất hạnh.

Hiện thực tàn khốc: Cái kết bi kịch cho thấy Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn hiện thực tàn khốc về xã hội đương thời. Ông nhận thấy rằng trong xã hội đó, con người không có đường sống, không có lối thoát, và cái chết là cách giải thoát duy nhất khi không còn cơ hội để được sống và làm người.

Tiếng nói "kêu cứu": Cái chết của Chí Phèo còn là một "tiếng kêu cứu" đau đớn cho quyền được làm người. Nó thôi thúc người đọc phải đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của xã hội đối với số phận của những con người bị tha hóa.
 
  • Like
Reactions: Dieu Hoee
Viết trả lời...
"Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trong trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn điểm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời" (Nguyễn Văn Thạc).

Người suốt đời đi tìm cái đẹp Nguyễn Tuân từng cảm khái "Đã là văn chương thì phải đẹp". Văn học nghệ thuật lấy cái đẹp làm khuôn vàng thước ngọc, biến những giá trị nhân văn trở thành tuyên ngôn ngàn đời. Nhưng nếu giá trị nhân văn chỉ hướng đến cái đẹp, liệu nó có trở nên đối nghịch với giá trị thực sự của văn chương - nghệ thuật vị nhân sinh?

Nam Cao là nhà văn lớn bậc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông hướng đến những phận người nhỏ bé, những số kiếp mỏng manh bị ngoại biên hóa, bị những thế lực chà đạp và làm cho câm tiếng. Nam Cao không chủ trương đi theo cái đẹp, không biến văn chương trở thành chốn bồng lai tiên cảnh, cách xa với cuộc sống lầm than của người đời. Trong những trang văn của ông, cái chết hiện lên như một cách để giải thoát, để thanh tẩy. Chết không đồng nghĩa với đầu hàng hay trốn tránh sự đời. Chết với Nam Cao là hành động duy nhất để đấu tranh để đòi lại quyền sống, để nói lên tiếng nói của những kiếp "người cùng khổ".

Có lẽ, cái chết đau đáu nhất trong văn ông phải nói đến cái chết của Chí Phèo. Từ một anh canh điền lương thiện, từng mơ đến cái cuộc sống bình dị "chồng cày cuốc vợ dệt vải", xã hội nhà tù thực dân đã khiến Chí đánh mất đi hoàn toàn phần người mình có. Chí cũng muốn được sống lương thiện như một người bình thường, nhưng "ai cho tao lương thiện"? Hở "ai cho tao lương thiện"? Chút nhân tính cuối cùng vừa nhen nhóm, giọt nước mắt truy nguyên hình hài quỷ dữ vừa lộ diện cũng là lúc loài người đẩy Chí đến ranh giới cuối cùng. Và cuối cùng, tác phẩm khép lại với hai cái chết của Chí và Bá Kiến. Không phải chết vì không muốn sống, mà bởi còn sống để làm gì khi đâu còn ai muốn mình lương thiện? Hoá ra, tên quỷ dữ của làng Vũ Đại lại là kẻ mang đầu óc tỉnh táo nhất. Cái chết của Chí Phèo đồng thời gây ra cái chết của tên Bá Kiến. Hắn phải chết vì đã tước đi quyền sống của bao người, Chí Phèo chết để cất lên tiếng nói của những kẻ bị bần cùng hoá, bị tha hoá, để xã hội biết câm đi tiếng nói vị kỷ cá nhân mà lắng nghe tiếng nói của những kẻ "cùng đường lạc lối".

Chết - để đòi quyền sống.
Thêm
209
2
2
Trong truyện ngắn "Chí Phèo", cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến không chỉ đơn thuần là sự kết thúc bi kịch cá nhân mà còn mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc, thể hiện tư tưởng hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.
 
Viết trả lời...
Không có sự bén duyên giữa tôi với sự viết, đây có lẽ là sự chọn lựa lẫn nhau. Văn chương chẳng bao giờ lựa chọn ai dù làm người hầu hay ông chủ của mình, mỗi người tự ướm mình vào cõi thiêng liêng này. Tôi chọn việc viết văn vì tôi là kẻ phù phiếm, thích nghĩ ngợi, tưởng tượng và bằng đủ mọi cách ném mình khỏi lốt trần tục, qua những giấc mơ. Đọc sách với tôi cũng là một phương pháp để trí tưởng được mở ra, loại bỏ hết ấn phong, khiến mọi lỗ chân lông giãn nở, tiếp nhận hết sức mạnh từ thiên nhiên, vũ trụ. Tôi từng cầm cọ, để vẽ. Sau này tôi thôi cây cọ để cầm bút viết, nhưng cọ hay cây viết cũng là bút, viết văn hay vẽ cũng đều là nghệ thuật. Chọn lấy việc viết, tức là tôi đã tự chọn cho mình một số phận khác, khó khăn, đầy bất trắc.

Trong đầu tôi luôn sinh sôi đủ thứ kỳ quái, những hình khối hỗn độn, các khuôn mặt mờ tỏ cắm xuyên vào nhau đòi hỏi được lên tiếng. Tôi cũng nghĩ rằng nếu mình chỉ sống cuộc đời duy nhất, sẽ thật thiệt thòi dù có thọ trăm năm. Cái tôi này cần phải đi thêm nhiều con đường, sống nhiều cuộc người, thỏa chí trong mọi vai diễn trên sân khấu cuộc đời này. Mộng mơ chưa đủ, tưởng tượng chưa đủ, tôi viết. Sáng tạo ra những hình hài mới từ mình vẫn chỉ là một phần nhỏ trong việc viết của tôi. Đam mê và lớn hơn thế, là sự lên tiếng, nhát búa công lý giáng xuống kết án đủ thứ tội lỗi của mình. Đời sống này, ai cũng thế thôi, luôn có những tội lỗi bằng nhiều lý do khác nhau, chúng ta phủ nhận. Làm sao để có trách nhiệm với không chỉ những người mình thân, quen biết hoặc có cảm tình. Khi cứu một người trên đường, sẽ thiệt hại đến thời gian, lắm khi mất đi công việc béo bở, để cứu một con chim dưới móng vuốt mèo, ta sẽ phải đánh đuổi con mèo mà không biết rằng đã khiến con vật bị đói. Vừa rồi trên mạng xã hội có phát tán một video, đám người mổ trâu giữa đường lớn sau khi con vật chết vì tai nạn xe tải. Phải đánh giá vấn đề này thế nào? Một bầy người đói khát, man rợ giữa đường lớn. Tôi không nghĩ những người này thích/đã quen chuyện này, có thể họ đói thật hoặc không biết làm gì với con trâu đã chết nên đành xẻ xác để giao thông không ách tắc. Con vật thì chết rồi, còn đám đông này, liệu sẽ kết tội họ thế nào đây? Hô hoán đừng làm thế hay xông xáo vào đám người, đoạt lại từng miếng thịt còn nóng để đắp lại cho con vật, mong nó được toàn thây? Tôi đã không biết phải ứng phó thế nào, thế thôi, đành viết xuống. Những dòng dài, như điếu văn cho chú trâu tội nghiệp, những dòng dài để kết tội mình đã im lặng và những dòng dài hơn như một lời sám hối cho đám người đã “không biết việc mình làm”.

Rất nhiều người khuyên tôi bỏ viết, tôi vẫn viết. Cũng nhiều người bảo tôi đừng viết như thế này nữa, tôi vẫn viết theo ý mình. Có lẽ viết đã trở thành công việc của riêng tôi. Một trách nhiệm khó rũ bỏ chăng? Tôi cũng quên mình bắt đầu viết từ bao giờ. Rõ ràng không từ việc đọc quá nhiều sách hay từng học ở nơi có liên quan đến văn chương (thời gian đấy, viết với tôi chỉ là sự trả bài, tôi không quan trọng, chẳng quan tâm cho đến khi rời khỏi môi trường đấy). Có lẽ, hãy vứt béng sự kiểm thảo về thời gian, hoàn cảnh hay những thôi thúc dẫn dắt. Quan trọng là tôi đang cầm bút và chưa lúc nào lười biếng.
Thêm
  • Like
Reactions: Thích Văn Học
485
1
1
Viết trả lời...
Bài tùy bút "Đong tấm lòng" của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm giàu cảm xúc và chất trữ tình, thể hiện những suy tư sâu sắc của tác giả về con người, cuộc sống và giá trị tình cảm chân thành trong xã hội hiện đại.

1. Hoàn cảnh và cảm hứng sáng tác

Nguyễn Ngọc Tư viết "Đong tấm lòng" xuất phát từ những quan sát và cảm nhận rất tinh tế trong cuộc sống đời thường. Bài viết không kể một câu chuyện cụ thể, mà là sự đan xen của nhiều lát cắt cuộc sống, từ những người bán hàng đến những người sống giản dị mà giàu tình cảm.

2. Nội dung chính

Tác phẩm đặt ra câu hỏi về giá trị đích thực của con người và những chuẩn mực đạo đức đang mai một trong xã hội hiện đại. Trong đó, "tấm lòng" trở thành một đơn vị đo lường mới – một cách nhìn nhân văn, sâu sắc về phẩm chất con người.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa châm biếm nhẹ, vừa tha thiết yêu thương.

Lối viết giàu chất thơ, hình ảnh giản dị mà đầy biểu tượng.

Sử dụng thủ pháp đối lập giữa hình thức và nội dung, giữa giá trị vật chất và tinh thần để nhấn mạnh thông điệp nhân văn.

4. Thông điệp sâu sắc

Cuộc sống hiện đại khiến nhiều người trở nên thực dụng, đánh mất những giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, sự tử tế.

Điều quan trọng nhất không phải là vật chất hay địa vị mà là tấm lòng, cách người ta sống và đối đãi với nhau.

Tác giả như muốn nhắn gửi: “Người ta sống bằng tấm lòng, chứ không phải bằng hình thức.”

5. Giá trị tư tưởng

Tác phẩm khơi dậy trong người đọc niềm tin vào điều tử tế, vào lòng tốt và sự chân thành. Trong một thế giới nhiều đổi thay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tha thiết đi tìm và bảo vệ "tấm lòng" – như một giá trị không thể thay thế.
Thêm
1K
0
2
Nghị luận phân tích tùy bút "Đong tấm lòng" của Nguyễn Ngọc Tư dạng khoảng 400 chữ

---

Trong cuộc sống hiện đại đầy biến động, khi con người dần bị cuốn theo vòng xoáy của vật chất và lợi ích, việc sống tử tế, sống bằng “tấm lòng” càng trở nên quý giá. Tùy bút “Đong tấm lòng” của Nguyễn Ngọc Tư là một tiếng nói nhân văn, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, nhắc nhở con người về giá trị cốt lõi trong cách sống và đối nhân xử thế.

Không kể chuyện cụ thể, bài viết là chuỗi những suy nghĩ, quan sát đầy tinh tế của tác giả về những con người bình dị trong cuộc sống: người bán hàng biết nghĩ cho khách, người làm nghề biết giữ đạo đức... Họ không có địa vị cao hay tài sản lớn, nhưng khiến người khác quý trọng bởi chính tấm lòng chân thành, tử tế. Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư đặt ra một thước đo khác cho con người – không phải là vật chất hay hình thức bên ngoài, mà là sự tử tế, lòng tốt, sự quan tâm chân thành dành cho nhau.

Bên cạnh việc tôn vinh giá trị nhân văn, tác giả cũng bày tỏ nỗi buồn và sự tiếc nuối khi xã hội hiện đại đang dần đánh mất chuẩn mực đạo đức ấy. Trong mắt tác giả, "tấm lòng" là điều giản dị nhưng thiết yếu, là nền tảng để con người sống đẹp, sống có ý nghĩa hơn giữa một thế giới đầy biến động và bon chen.

Với giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh gần gũi và cách thể hiện giàu chất trữ tình, Nguyễn Ngọc Tư đã khơi dậy trong lòng người đọc sự thức tỉnh và mong muốn sống tốt hơn mỗi ngày. “Đong tấm lòng” là một lời nhắc nhở lặng lẽ nhưng sâu sắc: con người đáng quý không phải vì có gì trong tay, mà vì họ biết sống bằng tấm lòng.
 
Viết trả lời...
Bài tùy bút "Đong tấm lòng" của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm giàu cảm xúc và chất trữ tình, thể hiện những suy tư sâu sắc của tác giả về con người, cuộc sống và giá trị tình cảm chân thành trong xã hội hiện đại.

1. Hoàn cảnh và cảm hứng sáng tác

Nguyễn Ngọc Tư viết "Đong tấm lòng" xuất phát từ những quan sát và cảm nhận rất tinh tế trong cuộc sống đời thường. Bài viết không kể một câu chuyện cụ thể, mà là sự đan xen của nhiều lát cắt cuộc sống, từ những người bán hàng đến những người sống giản dị mà giàu tình cảm.

2. Nội dung chính

Tác phẩm đặt ra câu hỏi về giá trị đích thực của con người và những chuẩn mực đạo đức đang mai một trong xã hội hiện đại. Trong đó, "tấm lòng" trở thành một đơn vị đo lường mới – một cách nhìn nhân văn, sâu sắc về phẩm chất con người.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa châm biếm nhẹ, vừa tha thiết yêu thương.

Lối viết giàu chất thơ, hình ảnh giản dị mà đầy biểu tượng.

Sử dụng thủ pháp đối lập giữa hình thức và nội dung, giữa giá trị vật chất và tinh thần để nhấn mạnh thông điệp nhân văn.

4. Thông điệp sâu sắc

Cuộc sống hiện đại khiến nhiều người trở nên thực dụng, đánh mất những giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, sự tử tế.

Điều quan trọng nhất không phải là vật chất hay địa vị mà là tấm lòng, cách người ta sống và đối đãi với nhau.

Tác giả như muốn nhắn gửi: “Người ta sống bằng tấm lòng, chứ không phải bằng hình thức.”

5. Giá trị tư tưởng

Tác phẩm khơi dậy trong người đọc niềm tin vào điều tử tế, vào lòng tốt và sự chân thành. Trong một thế giới nhiều đổi thay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tha thiết đi tìm và bảo vệ "tấm lòng" – như một giá trị không thể thay thế.
Thêm
1K
0
2
Bài nghị luận văn học: "Đong tấm lòng" – Giá trị của sự tử tế và nhân văn

Mở bài

Trong nhịp sống hiện đại, khi con người ngày càng bị cuốn vào guồng quay của vật chất và lợi ích cá nhân, thì những giá trị nhân văn tưởng như giản dị như lòng tốt, sự tử tế, tấm lòng chân thành lại trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Với ngòi bút tinh tế và giàu cảm xúc, Nguyễn Ngọc Tư – cây bút nổi bật của văn học đương đại Việt Nam – đã gửi gắm những suy tư sâu sắc về điều ấy trong tùy bút "Đong tấm lòng". Tác phẩm không chỉ là một lời nhắn nhủ, mà còn là một hồi chuông thức tỉnh tâm hồn người đọc về cách "đong đếm" con người bằng tình cảm, lòng yêu thương chứ không chỉ bằng những chuẩn mực vật chất khô khan.

Thân bài

1. Khái quát về tác phẩm

"Đong tấm lòng" không có cốt truyện cụ thể, mà là chuỗi những mảnh ghép cuộc sống, những nhân vật đời thường được khắc họa bằng cái nhìn tinh tế và đầy yêu thương. Qua đó, Nguyễn Ngọc Tư bày tỏ nỗi trăn trở khi xã hội ngày càng coi trọng hình thức và giá trị vật chất hơn là "tấm lòng" – thứ vốn vô hình nhưng lại là bản chất của con người.

2. Phân tích nội dung và thông điệp chính

Nguyễn Ngọc Tư mở đầu bằng một cách nói đầy biểu tượng: “Người ta đong nhau bằng tấm lòng”. Câu nói giản dị nhưng giàu sức gợi, thể hiện quan điểm của tác giả: giá trị con người không nên được đo bằng danh vị, tiền bạc hay những gì bề ngoài, mà bằng thái độ sống và cách họ đối xử với người khác.

Tác giả nhắc đến nhiều nhân vật bình dị: người bán bún biết quan tâm khách hàng, người nông dân chân chất, những người sống có tâm với nghề... Những con người ấy không nổi bật, không giàu sang, nhưng trong họ chứa đầy sự chân thành và tử tế – chính là thứ "tấm lòng" mà tác giả đề cao.

Nguyễn Ngọc Tư cũng lên tiếng phê phán một cách nhẹ nhàng mà sâu cay: xã hội ngày nay quá coi trọng lợi ích, khiến cho lòng tốt bị xem là “màu mè”, sự tử tế trở nên hiếm hoi, và “tấm lòng” dường như không còn được nhìn nhận đúng đắn.

Đọc “Đong tấm lòng”, ta cảm nhận rõ một niềm tin lặng lẽ nhưng vững vàng: rằng tình người vẫn còn, và nó hiện diện ở những điều giản dị nhất. Đó là cái nhìn đầy nhân ái, vừa hiện thực vừa lãng mạn của một người viết sống gần với đất và người.

3. Nghệ thuật thể hiện

Giọng văn trữ tình, pha chút châm biếm nhẹ nhàng, đầy tinh tế nhưng không kém phần sâu sắc.

Hình ảnh đời thường, gần gũi nhưng mang tính biểu tượng cao.

Lối viết tùy bút linh hoạt, chuyển mạch mềm mại giữa các suy nghĩ, mang lại sự tự nhiên cho cảm xúc người đọc.

Kết bài

“Đong tấm lòng” không chỉ là một tùy bút, mà còn là một bản nhạc trầm buồn, sâu lắng về giá trị con người trong thời hiện đại. Bằng cách đặt “tấm lòng” làm đơn vị đo, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ nhắc nhở chúng ta sống tử tế hơn, mà còn khơi dậy niềm tin vào điều tốt đẹp. Trong một thế giới dễ bị tổn thương bởi vô cảm, sự trở về với lòng nhân ái như lời mời gọi thiết tha nhất mà tác phẩm gửi gắm.
 
Viết trả lời...
Bài tùy bút "Đong tấm lòng" của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm giàu cảm xúc và chất trữ tình, thể hiện những suy tư sâu sắc của tác giả về con người, cuộc sống và giá trị tình cảm chân thành trong xã hội hiện đại.

1. Hoàn cảnh và cảm hứng sáng tác

Nguyễn Ngọc Tư viết "Đong tấm lòng" xuất phát từ những quan sát và cảm nhận rất tinh tế trong cuộc sống đời thường. Bài viết không kể một câu chuyện cụ thể, mà là sự đan xen của nhiều lát cắt cuộc sống, từ những người bán hàng đến những người sống giản dị mà giàu tình cảm.

2. Nội dung chính

Tác phẩm đặt ra câu hỏi về giá trị đích thực của con người và những chuẩn mực đạo đức đang mai một trong xã hội hiện đại. Trong đó, "tấm lòng" trở thành một đơn vị đo lường mới – một cách nhìn nhân văn, sâu sắc về phẩm chất con người.

3. Đặc sắc nghệ thuật

Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, vừa châm biếm nhẹ, vừa tha thiết yêu thương.

Lối viết giàu chất thơ, hình ảnh giản dị mà đầy biểu tượng.

Sử dụng thủ pháp đối lập giữa hình thức và nội dung, giữa giá trị vật chất và tinh thần để nhấn mạnh thông điệp nhân văn.

4. Thông điệp sâu sắc

Cuộc sống hiện đại khiến nhiều người trở nên thực dụng, đánh mất những giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, sự tử tế.

Điều quan trọng nhất không phải là vật chất hay địa vị mà là tấm lòng, cách người ta sống và đối đãi với nhau.

Tác giả như muốn nhắn gửi: “Người ta sống bằng tấm lòng, chứ không phải bằng hình thức.”

5. Giá trị tư tưởng

Tác phẩm khơi dậy trong người đọc niềm tin vào điều tử tế, vào lòng tốt và sự chân thành. Trong một thế giới nhiều đổi thay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tha thiết đi tìm và bảo vệ "tấm lòng" – như một giá trị không thể thay thế.
Thêm
1K
0
2
Nghị luận phân tích tùy bút "Đong tấm lòng" của Nguyễn Ngọc Tư dạng khoảng 400 chữ

---

Trong cuộc sống hiện đại đầy biến động, khi con người dần bị cuốn theo vòng xoáy của vật chất và lợi ích, việc sống tử tế, sống bằng “tấm lòng” càng trở nên quý giá. Tùy bút “Đong tấm lòng” của Nguyễn Ngọc Tư là một tiếng nói nhân văn, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, nhắc nhở con người về giá trị cốt lõi trong cách sống và đối nhân xử thế.

Không kể chuyện cụ thể, bài viết là chuỗi những suy nghĩ, quan sát đầy tinh tế của tác giả về những con người bình dị trong cuộc sống: người bán hàng biết nghĩ cho khách, người làm nghề biết giữ đạo đức... Họ không có địa vị cao hay tài sản lớn, nhưng khiến người khác quý trọng bởi chính tấm lòng chân thành, tử tế. Từ đó, Nguyễn Ngọc Tư đặt ra một thước đo khác cho con người – không phải là vật chất hay hình thức bên ngoài, mà là sự tử tế, lòng tốt, sự quan tâm chân thành dành cho nhau.

Bên cạnh việc tôn vinh giá trị nhân văn, tác giả cũng bày tỏ nỗi buồn và sự tiếc nuối khi xã hội hiện đại đang dần đánh mất chuẩn mực đạo đức ấy. Trong mắt tác giả, "tấm lòng" là điều giản dị nhưng thiết yếu, là nền tảng để con người sống đẹp, sống có ý nghĩa hơn giữa một thế giới đầy biến động và bon chen.

Với giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh gần gũi và cách thể hiện giàu chất trữ tình, Nguyễn Ngọc Tư đã khơi dậy trong lòng người đọc sự thức tỉnh và mong muốn sống tốt hơn mỗi ngày. “Đong tấm lòng” là một lời nhắc nhở lặng lẽ nhưng sâu sắc: con người đáng quý không phải vì có gì trong tay, mà vì họ biết sống bằng tấm lòng.
 
Viết trả lời...
"Nói với em" là một bài thơ nhẹ nhàng, sâu lắng của nhà thơ Vũ Quần Phương, viết về những kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu thiên nhiên và sự gắn bó với gia đình. Bài thơ sử dụng hình ảnh giản dị, gần gũi để truyền tải thông điệp về sự trân trọng những giá trị đích thực trong cuộc sống .

Phân tích chi tiết

1. Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh thiên nhiên sống động:
"Nếu nhắm mắt trong vườn lộng gió,
Sẽ được nghe nhiều tiếng chim hay,
Tiếng lích rích chim sâu trong lá,
Con chìa vôi vừa hót vừa bay."

- Âm thanh thiên nhiên:Tiếng chim "lích rích," tiếng hót của chìa vôi tạo nên bức tranh sinh động, gợi cảm giác yên bình, hạnh phúc.
- Biện pháp tu từ: Sử dụng từ láy "lích rích" và hình ảnh "vừa hót vừa bay" làm tăng sức gợi cảm, giúp người đọc dễ dàng hình dung khung cảnh .

2. Ký ức tuổi thơ qua lời bà kể chuyện
Khổ thơ thứ hai đưa người đọc vào thế giới cổ tích:
"Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện,
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên,
Thấy chú bé đi hài bảy dặm,
Quả thị thơm, cô Tấm rất hiền."

- Hình ảnh cổ tích:"Bà tiên," "chú bé đi hài bảy dặm," "quả thị thơm" gợi nhớ về những câu chuyện dân gian quen thuộc, thể hiện sự gắn bó giữa tình cảm gia đình và văn hóa dân tộc.
- Ý nghĩa giáo dục:Những câu chuyện bà kể không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ mà còn dạy các em về lòng nhân hậu, đức hy sinh .

3. Tình cảm gia đình và lòng biết ơn cha mẹ
Khổ cuối bài thơ hướng về công lao của cha mẹ:
"Nếu nhắm mắt, nghĩ về cha mẹ,
Đã nuôi em khôn lớn từng ngày,
Tay bồng bế sớm khuya vất vả,
Mắt nhắm rồi, lại mở ra ngay."

- Hình ảnh lao động: "Tay bồng bế sớm khuya vất vả" khắc họa sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ.
- Thông điệp sâu sắc: Câu thơ cuối "Mắt nhắm rồi, lại mở ra ngay" như lời nhắc nhở phải luôn ghi nhớ công ơn cha mẹ và sống có trách nhiệm .

Nghệ thuật đặc sắc
- Thể thơ 7 chữ, nhịp điệu nhẹ nhàng, phù hợp với giọng điệu tâm tình.
- Điệp cấu trúc "Nếu nhắm mắt…"tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các khổ thơ.
- Ngôn từ giản dị, giàu hình ảnh, giúp bài thơ dễ đi vào lòng người .

Kết luận
"Nói với em" là bài thơ giàu cảm xúc, khơi gợi tình yêu thiên nhiên, gia đình và những giá trị nhân văn. Vũ Quần Phương đã thành công trong việc sử dụng ngôn từ mộc mạc để truyền tải thông điệp sâu sắc về lòng biết ơn và cách sống đẹp .

Bài thơ không chỉ dành cho thiếu nhi mà còn là lời nhắn nhủ ý nghĩa với mọi lứa tuổi.
Thêm
828
0
0
Viết trả lời...
Nhà tôi gần một sân ga tỉnh lẻ
Thỉnh thoảng tôi ra chơi cho đỡ nhớ người
Ai cũng bận rộn không xuôi thì ngược
Có lẽ lững lờ chỉ có mình tôi

file-KC4vKEcTYHtCRFNFoaQ1Ki.webp
Tạo ảnh bởi AI.

Từng con tàu xuôi theo ray mộng tưởng
Bỏ lại những buồn vui, hội ngộ sân ga
Từng ô cửa sổ, như từng trang sách
Người đọc lững lờ, có lẽ là tôi...

Tôi lững lờ thương nhớ tuổi đôi mươi
Đã nghẹt thở trong toa tàu "Đổi mới"
Nơi bạn bè tôi ai cũng đi rất vội
Hai mươi năm sau có đứa vẫn không về

Tôi lững lờ thương nhớ những đêm khuya
Hun hút gió chạy ngược về khe núi
Nơi tuổi thơ đã cháy như cành củi
Bếp lửa Xuân ngày cũ đã nguội tàn

Tôi lững lờ trên đỉnh tuyết tan
Khe khẽ tách những tảng băng, chảy xuống
Con tàu hoá dòng sông qua đồng ruộng
Bóng tôi đổ thành một bóng ngày đi ...

29/01/2015.
"Ga Tỉnh lẻ"- Nguyễn Vĩnh Tiến.
Thêm
  • Like
Reactions: Thúy Vũ
246
1
0
Viết trả lời...
TẾT NGUYÊN TIÊU - NGÀY LỄ QUAN TRỌNG TRONG VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI VIỆT

Rằm tháng Giêng hay còn gọi là Tết Nguyên tiêu là ngày chính rằm rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam. Nguyên tiêu nghĩa là đêm trăng đầy nhất của tháng đầu tiên trong năm, tức rằm tháng Giêng. Đêm trăng sáng khởi đầu của một năm mới với hương khí tinh nguyên của tiết trời ấm lành, tràn đầy sức sống mùa xuân.

Năm nay, Rằm tháng Giêng vào ngày 12/2/2025.
Thêm
334
0
0
Viết trả lời...
Tham khảo, ôn thi

I. PHẦN ĐỌC – HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:

NHÀ MẸ LÊ
(…) Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.
Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khỏang rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.(…)
Nhưng mọi người biết bác Lê quí con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hi hơn cả, nó là con thứ chín, và ốm yếu xanh xao nhất nhà. Bác thường bế nó lên lòng, hôn hít, rồi khoe với hàng xóm: nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm.

(Trích truyện ngắn Nhà mẹ Lê - Thạch Lam - NXB Hội Nhà văn 2008)

* Chú thích:
- Thạch Lam (1910-1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh sau đổi tên là Nguyễn Tường Lân. Là cây bút truyện ngắn tài hoa trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác thường hướng vào cuộc sống cơ cực của những người dân thành thị nghèo và vẻ đẹp nên thơ của cuộc sống thường nhật.

- “Nhà mẹ Lê” là tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc được xuất bản lần đầu năm 1942. Truyện ngắn không chỉ tái hiện tình cảm mẹ con xúc động mà còn dựng nên cả bức tranh toàn cảnh làng quê Việt Nam Cách mạng tháng Tám.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể trong đoạn trích.

Câu 2 (0,5 điểm). Trong đoạn trích, ngoại hình nhân vật bác Lê được miêu tả qua các chi tiết nào?

Câu 3 (1,0 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu văn “Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết” để làm sáng tỏ chủ đề của câu chuyện.

Câu 4 (1,0 điểm). Qua cách miêu tả hoàn cảnh sống cơ cực, tác giả thể hiện thái độ, tình cảm gì đối với gia đình bác Lê?

Câu 5 (1,0 điểm). Từ câu chuyện về nhà mẹ Lê, em rút ra bài học gì có ý nghĩa nhất đối với bản thân? Vì sao?

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) cảm nhận về nhân vật bác Lê.

Câu 2 (4,0 điểm). Những bữa cơm gia đình không chỉ là nơi nuôi dưỡng thể chất mà còn là "bến đỗ tinh thần," nơi lưu giữ những giá trị cốt lõi của gia đình và cuộc sống. Em hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trình bày ý kiến của mình về giá trị của những bữa cơm gia đình trong cuộc sống hiện đại.
Thêm
782
0
0
Viết trả lời...
Đề bài: “Tác phẩm văn học còn lại với đời sau chủ yếu không phải như những cứ liệu mà nhân chứng về cách nghĩ, cách cảm của con người trong một thời". (Đề văn lớp 9 thi HSG tỉnh Thanh Hoá)

Bằng trải nghiệm văn học, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
---

Bài làm

Nguyễn Du trong “Độc Tiểu Thanh ký” đã từng suy tư về chính cuộc đời của mình như sau:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Với những vần thơ của mình, đại thi hào Nguyễn Du đã thể hiện những băn khoăn, trăn trở về nghiệp văn chương, về sự tri âm, tri kỉ ở đời sau. Bởi lẽ, nàng Tiểu Thanh sau bao năm tháng đằng đẵng vẫn có người tri âm thì liệu rằng, Tố Như theo dòng chảy thời gian thì còn ai vương vấn? Và câu trả lời cũng đã được thể hiện rõ ở những áng văn chương bất hủ, phơi phới sức xuân, trường tồn theo năm tháng của cụ Nguyễn. Để có được sức sống ấy là bởi con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời và suy rộng ra trong văn chương chính là ở cách nghĩ, cách cảm của con người trong một thời đại nhất định. Bàn về vấn đề sức sống, cách nghĩ, cách cảm trong văn chương, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm văn học còn lại với đời sau chủ yếu không phải như những cứ liệu mà nhân chứng về cách nghĩ, cách cảm của con người trong một thời".

Văn chương là lĩnh vực của sự độc đáo và mỗi người nghệ sĩ qua quá trình va chạm với cuộc đời mà sáng tạo nên những tác phẩm văn học kiệt xuất, bền vững với thời gian. “Tác phẩm văn học” cũng là một yếu tố quan trọng làm nên giá trị cho người sáng tác nói riêng và cho kho tàng văn chương nói chung. Mỗi câu chữ trong tác phẩm đều được những người nghệ sĩ thai nghén, gạn lọc và chứa đựng biết bao tâm tư, tình cảm, trăn trở, đối thoại về cuộc đời, về con người. Và “tác phẩm văn học còn lại với đời sau chủ yếu không phải như những cứ liệu” tức là tác phẩm không phải là sự ghi chép đơn thuần những thông tin của đời sống như một tấm gương mà là “nhân chứng về cách nghĩ, cách cảm của con người trong một thời”. “Cách nghĩ” có thể hiểu là cách nhìn cuộc sống, cách suy tư trăn trở còn “cách cảm” chính là cách xúc cảm, rung động của người nghệ sĩ. Trong “một thời” ở đây là một giai đoạn, thời kỳ hiện thực xã hội nhất định hay nói cách khác là những biến thiên của hiện thực cuộc sống. Suy cho cùng, ý kiến muốn nhấn mạnh đặc điểm của một tác phẩm văn học đúng nghĩa và có giá trị bền vững. Đó là một tác phẩm không phải chỉ đơn thuần là phản ánh hiện thực trần trụi mà phải là một cách nghĩ - cách suy tư, trăn trở và cách cảm - cách rung động của con người trong một thời.

Chế Lan Viên đã từng quan niệm rằng:

“Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe.”
(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…”, )

Văn chương vốn là người thư kí trung thành của thời đại nhưng mỗi con chữ được thai nghén không đơn thuần là việc ghi chép, phản ánh hiện thực một cách máy móc, thẳng đơ trên trang giấy. Văn chương đặt bút bàn luận những vấn đề mà bất kì đôi mắt nào cũng có thể nhìn thấu tỏ thì đó là một điều giản đơn, nhẹ hoá vai trò của nghệ thuật ngôn từ. Điều này cũng đi ngược lại với với đặc trưng của loại hình này. Văn chương hấp dẫn người đọc ở chỗ “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những điều chưa có”. Từ những sự vật, hiện tượng gần gũi, người nghệ sĩ có thể đem đến những cái nhìn mới mẻ để người đọc nhận thức về cuộc đời. Nếu chỉ đơn thuần là những cứ liệu thì vô tình đánh mất nét đặc trưng của văn chương và khó có thể được người đọc mở lòng đón nhận. Bởi lẽ, mỗi tác phẩm bao giờ hướng đến thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến chân - thiện - mĩ nhưng nếu mỗi con chữ chỉ là những cứ liệu khô khan, trống rỗng thì sẽ không thể cất lên tiếng nói ý nghĩa cho cuộc đời. Ví như việc phản ánh hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám với những công việc hằng ngày, về những nghèo khổ mà lịch sử cũng đã ghi lại thì liệu rằng đó đã là sứ mệnh của văn chương?

Nghệ thuật của ngôn từ không phải là bản sao của đời sống, nghệ thuật của ngôn từ là tiếng nói của những suy nghĩ, của những tấm lòng đa sầu, đa cảm. Nguyễn Khải viết rằng: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” Một tác phẩm nghệ thuật sẽ không là gì cả nếu như không bắt nguồn từ cuộc sống và không vì cuộc sống. Mỗi con chữ bao giờ cũng là suy tư, trăn trở, đau đáu của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Nguyễn Tuân - một kho tàng từ vựng khổng lồ cũng đã từng thức suốt đêm để sáng tạo nên những ngôn từ văn chương có giá trị và thể hiện được ý đồ nghệ thuật, cách nghĩ, các cảm của mình. Cách nghĩ, cách cảm ấy chính là đặc trưng của văn chương, của quá trình lao động nghệ thuật mà mỗi người nghệ sĩ dày công vun đắp. Chẳng hạn đến với mảnh đất hiện thực thời kì miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bạn đọc có thể hòa mình những tinh thần sục sôi khát vọng cống hiến còn miền Nam đang phải oằn mình chống lại những mưa bom, bão đạn của đế quốc Mĩ, miền Trung với những con đường huyết mạch cũng không ngừng gánh chịu những hậu quả nặng nề của giặc ngoại xâm. Trước hiện thực của thời kì Nam Bắc chia cắt, các nhà văn, nhà thơ không chỉ phản ánh đơn thuần bức tranh chiến tranh khắc nghiệt, “bom giật, bom rung” trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật hay là “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long với những công việc thầm lặng mà còn gửi gắm vào từng câu chữ một tinh thần lạc quan, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, là một tinh thần cống hiến thầm lặng cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đó chẳng phải là nét riêng biệt của văn chương khi không đơn thuần ghi lại những cứ liệu hay sao?

Hơn nữa để thai nghén nên những tác phẩm văn học đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải sống sâu, khám phá ở những góc khuất, những điều xấu xí nhất để mang đến những giá trị đẹp đẽ nhất. Sức mạnh của văn chương hết sức lớn lao và đòi hỏi trong mỗi tác phẩm phải chuyên chở những giá trị tư tưởng mà người nghệ sĩ gạn lọc từ cuộc sống. Việc mang đến một cách nghĩ, cách cảm cũng là một phương diện khẳng định thiên chức của một người nghệ sĩ chân chính. Anh có thể trở thành nhà văn đúng nghĩa khi anh mang đến cho đời những bài học, ý nghĩa và sâu sắc. Nếu không mang đến cho đời những giọt mật từ vạn chuyến ong bay thì anh chỉ là người làm nên những câu chữ có vần, nằm thẳng đơ trang giấy chứ không thể trở thành một người nghệ sĩ chân chính dẫn lối con người đến xứ sở của cái đẹp. Và cụ thể, một trong những tác giả có tầm ảnh hưởng nhất thế kỉ XX, Kafka với tác phẩm “Làng gần nhất” đã mở ra biết bao suy tư, trăn trở cho bạn đọc mọi thời đại về hiện thực cuộc sống. Tiếp cận nhan đề, bạn đọc có thể hình dung về một ngôi làng gần nhất được tác giả sáng tạo, hư cấu. Tuy nhiên, với dung lượng chỉ gói gọn trong bản tiếng Anh gồm 66 chữ, bản tiếng Việt là 84 chữ, “Làng gần nhất” vẫn được xem là một truyện ngắn mang tính đối thoại về mọi thời. Cụ thể là qua hình ảnh con người xa lạ với thế giới. Dường như con người ở trong tác phẩm đang nỗ lực hiểu về thế giới nhưng bất khả. Ví dụ thái độ mà người ông khi nhìn lại cuộc đời mình là không thể hiểu được: “cuộc đời dường như bị thu ngắn đến nỗi ông chẳng thể hiểu”. Hình ảnh “làng gần nhất” hiện diện như một bí ẩn, một khát vọng mà con người muốn hướng đến nhưng bất lực và buộc phải chấp nhận sự bất lực ấy. Người đọc khó có thể giải mã một cách nhất quán nội dung của một sáng tác nào đó của Kafka. Lẽ vậy mà người đọc của mọi thời khi soi mình vào tác phẩm đều không ngừng băn khoăn, trăn trở. Khi đó, văn chương không phải là cách nghĩ, cách cảm của riêng nhà văn mà người tiếp nhận cũng có những cách nghĩ, cách cảm của riêng chính bản thân mình. Văn chương có tính đối thoại thì lẽ dĩ nhiên sẽ được đón nhận và trường tồn với năm tháng.

Văn chương nếu chỉ viết ra để thoả mãn nhu cầu của người nghệ sĩ thì đó chỉ là cái đẹp trong lồng kính, không phải là cái đẹp giúp ích cho đời sống con người. Để từ một nhân chứng cho cách nghĩ, cách cảm trong một thời thì tác phẩm ấy phải được độc giả công nhận và thể hiện cách nghĩ, cách cảm của cá nhân. Đặc biệt, con đường đến với bạn đọc là con đường từ trái tim đến trái tim. Sẽ ra sao nếu như văn chương không phát khởi từ những rung động của tâm hồn trước mảnh đất hiện thực màu mỡ? “Một thời” ở đây không phải là hiện thực được phản ánh để hướng đến con người trong thời đại đó mà là từ một thời đến con người ở mọi thời. Chẳng hạn, sau mấy trăm năm, bạn đọc vẫn xót xa trước số phận éo e như cánh hoa trôi man mác của nàng Kiều, về xã hội tiền lưng đã sẵn việc gì cũng xong mà Nguyễn Du đã gửi gắm trong nhân chứng là “Truyện Kiều”. Hay bằng những khát khao muốn góp mùa xuân nho nhỏ cho sức xuân của đất nước, Thanh Hải đã chạm đến trái tim bạn đọc bao thế hệ qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”

Từ cái tôi cá nhân đưa tay hứng những “giọt long lanh rơi” của màu xuân, Thanh Hải đã hướng đến cái ta được hoá thân làm nên mùa xuân ấy. Điệp từ “ta làm” kết hợp với những hình ảnh giản dị “chim hót, cành hoa, hồ ca và nốt trầm xao xuyến” đã ngợi ca vô cùng khát vọng của một con người đang nằm trên giường bệnh. Chính cách nghĩ, cách nhà thơ Thanh Hải gửi gắm quan niệm cống hiến của mình trong những vần thơ và từ đó lay động tâm hồn của bạn đọc.

Quả thật, để một tác phẩm có thể còn lại với đời sau thì trong mỗi trang văn, trang thơ phải là tiếng nói của những cách nghĩ, cách cảm. Đó là đặc trưng, là yêu cầu của quá trình sáng tạo văn chương. Từ đó, đặt ra yêu cầu cho mỗi người nghệ sĩ là cần phải gửi gắm trong những đứa con tinh thần của mình những giá trị tư tưởng sâu sắc, thể hiện được cách nghĩ, cách của của cá nhân. Bạn đọc trên cơ sở đó có thể tiếp cận tác phẩm và đồng sáng tạo, thể hiện cách nghĩ, cách cảm của bản thân. Tuy nhiên, cách nghĩ, cách cảm trong một thời ở đây phải là cách nghĩ, cách cảm đúng đắn, có giá trị nhận thức, độc đáo và thể hiện được cái tôi, phong cách của người nghệ sĩ. Để sáng tạo nên một tác phẩm chân chính còn lại với đời sau thì không chỉ yêu cầu là về cách nghĩ, cách cảm mà cách nghĩ, cách cảm ấy còn phải được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật độc đáo đã được ý thức. “Một thời” không có nghĩa là bó hẹp phạm vi phản ánh của người nghệ sĩ mà một thời ở đây chính là một giai đoạn bất kì từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. Tất cả đều góp phần tạo nên sức sống của văn chương nói chung.

Nguyễn Quang Thiều đã từng nói rằng: “Giống như lúa, ngô, đậu … những thứ cây gần gũi nhất trên cánh đồng quê. Văn chương chính là ngũ cốc trên cánh đồng người”. Ấy là cái gần gũi của văn chương, là những hiện thực cuộc sống cạnh bên được khám phá và truyền tải bởi cách nghĩ, cách cảm của mỗi người nghệ sĩ. Lẽ vậy mà loại hình nghệ thuật này luôn được đọc giả đón nhận và tìm đến một cách nhìn về cuộc đời, nhìn về chính bản thân mình.

Nguồn: Trạm Văn
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
688
1
1
Chẳng hạn, mình rất hay ngâm lại đoạn thơ

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.

Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.

Nguyễn Đình Thi
 
Viết trả lời...
Mới đây, Bộ GD yêu cầu cần tránh sử dụng văn bản, đoạn trích trong sách giáo khoa làm ngữ liệu đánh giá năng lực đọc hiểu và viết trong các bài kiểm tra định kỳ đã khiến học sinh chúng mình có phần quan tâm, lo lắng. Môn văn có vai trò cực kỳ quan trọng không chỉ là môn bắt buộc thi cuối cấp mà còn ảnh hưởng đến tìm việc làm trong tương lai. Nhưng với nhiều bạn có công việc làm thêm viết nội dung cho các nhãn hàng thì sử dụng ngữ liệu mở là cơ hội rèn luyện rất tốt. Và chuẩn bị cho môn Văn khi bước vào năm học mới có thể giúp chúng ta bắt đầu năm học một cách suôn sẻ và đạt kết quả tốt.

Mùa lúa chín miền Trung (8).jpg

Quê hương là nguồn sáng tạo văn học lớn lao nhất. Ảnh st​

Dưới đây là 8 kinh nghiệm cụ thể bạn có thể thực hiện để xuất phát tốt nhất khi vào năm học mới

1. Ôn tập kiến thức cũ

Ôn lại các tác phẩm văn học, bài thơ, và đoạn văn đã học trong năm trước để củng cố kiến thức. Tìm đọc lại một số bài tập văn học, bài viết văn đã làm để đánh giá, rút kinh nghiệm. Một năm học đã qua chúng ta đã tích lũy rất nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng và đây là lúc bạn hồi tưởng lại giúp cho tư duy cảm thụ văn học của bạn lột xác. Nếu bạn tự thấy mình đã "lột xác" thì xin chúc mừng bạn đã "cảm ngộ" và tất nhiên, "cảnh giới" năng lực văn học của bạn đã tiến thêm một tầng.

2. Chuẩn bị tài liệu học tập môn văn

Đảm bảo bạn có đầy đủ các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo tối cần thiết theo chương trình học mới. Sách văn không cần thiết cần mới, quan trọng là sạch sẽ, đầy đủ nội dung và có thể viết ghi chú lên đó. Và lưu ý, tài liệu tham khảo nên tinh chứ không cầu nhiều (số lượng). Bạn phải có lòng tin vào tài liệu thì mới tập trung tâm trí học tập được.

Tài liệu học tập môn văn nên tham khảo giáo viên, các anh chị lớp trên. Tài liệu có thể là sách giấy, tự tin, hoặc dữ liệu điện tử. Tài liệu trên một số website, diễn đàn cũng rất tốt, tuy nhiên cần thỏa mãn yêu cầu chất lượng, dễ lưu trữ để đọc lại, so sánh. Và diễn đàn Văn học trẻ chúng ta là địa chỉ uy tín nhiều năm nay.

Sắm sẵn sổ tay, bút viết và các dụng cụ học tập khác để ghi chép và làm bài tập. Văn học không chỉ cảm thụ bằng tinh thần mà còn phải thể hiện trên giấy (hoặc điện tử). Khi viết ra giấy, bạn thể hiện cụ thể tư duy của mình, và là cơ sở để giáo viên chấm bài. Vậy nên, cũng cần chuẩn bị nhiều giấy để luyện viết văn. Kinh nghiệm là các mẩu giấy nhỏ viết ghi chú xong thì dán nơi chú ý để thuộc, hoặc bỏ đi (đây là mẹo tâm lí để thuộc kiến thức), giấy khổ lớn để luyện viết nhanh, luyện tư duy văn học.

3. Đọc trước các tác phẩm mới

Xem trước danh sách các tác phẩm văn học
, bài thơ, và đoạn văn sẽ được học trong năm học mới. Đây là hoạt động tạo lập đề cương môn học cho cả 1 năm học, điều này giúp cho bạn vẽ ra hành trình trọng tâm. Hơn thế nữa, lập đề cương giúp bạn đã một lần tư duy chủ động.

Cố gắng đọc và tìm hiểu trước các tác phẩm sẽ học . Đây là kinh nghiệm vô cùng quý báu để bạn tích lũy ấn tượng với tác phẩm. Mỗi tác phẩm văn học khi tiếp nhận sẽ gieo trong chúng ta những hạt giống và cần thời gian để nảy nở.

Tuy nhiên, đọc và cảm thụ tác phẩm trước khi vào năm học tốt hơn là học trước chương trình, bởi học trước là ép buộc bạn phải nhớ. Nếu vào kỳ thi mà bạn tích lũy quá nhiều, năng lực viết không đạt điểm rơi thì văn phong bạn sẽ kém đi đáng kể. (Để kiểm nghiệm bạn thử lấy một số đề văn năm học trước và viết lại và đánh giá xem).

4. Nâng cao kỹ năng viết văn

Luyện viết
các dạng bài văn đã học và sẽ học. Cố gắng viết một bài văn mỗi tuần để rèn luyện kỹ năng. Để có động lực viết hãy viết và chia sẻ lên các nhóm, diễn đàn văn học uy tín. Tại đây bạn sẽ được đánh giá, góp ý khách quan. Nếu được, hãy tham gia một số hoạt động cộng tác viên tại Văn Học Trẻ để duy trì sức viết, thử thách ngòi bút bạn.

Xem và phân tích các bài văn mẫu hoặc bài văn đạt điểm cao để học hỏi cách lập luận và cấu trúc bài viết. Muốn bài làm văn tối ưu, đạt điểm cao thì học hỏi người giỏi hơn, người đi trước là việc làm rất quan trọng. Mỗi tác phẩm bạn chỉ học một lần, và có thể chỉ kiểm tra một lần mà thôi. Hãy học hỏi nhiều nhất có thể, từ nhiều góc độ, khách quan.

5. Thực hành kỹ năng đọc hiểu tác phẩm, đoạn trích

Đọc nhiều
thể loại văn bản, không chỉ các tác phẩm văn học, mà còn báo chí, tạp chí và các bài viết khác để mở rộng vốn từ và cải thiện khả năng đọc hiểu.

Thực hành làm các bài tập đọc hiểu để cải thiện khả năng phân tích và diễn giải văn bản. Kỹ năng này rèn luyện tốt nhất là tham gia đăng bài và bình luận tại các chuyên mục văn học tương ứng trên Văn Học Trẻ. Đây là kinh nghiệm rất quý giá của mình, và được biết rất nhiều bạn viết văn giỏi đều vậy. Chỉ khi tương tác (tranh cãi, thể hiện) nhiều thì năng lực văn học bạn mới nâng cao được.

6. Nắm vững lí luận văn học, lập đoạn văn, tăng lượng từ vựng

Lí luận văn học là xương sống để viết văn đúng và trúng. Có lí luận văn học như bạn có đèn sáng trong đêm, có la bàn trên biển. Không những vậy, với lí luận văn học sắp xếp ngôn từ của bạn sẽ đảm bảo tính logic, tăng sức thuyết phục. Đặc biệt, với khả năng lí luận văn học bạn "nhắm mắt" cũng thể hiện được tính triết luận, cảm xúc trong hành văn. Thần tượng của mình là nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh, Hoài Chân, Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên,...

Và bạn cũng cần rèn luyện kỹ năng tạo đoạn văn. Đoạn văn không chỉ giúp văn bản của bạn có tính thẩm mỹ, dễ nhìn dễ đọc, dễ gây thiện cảm cho người chấm mà còn dễ nhớ. Tuy nhiên, hồn cốt của đoạn văn là phải dựa vào ý muốn truyền đạt (dựa vào dàn ý của đề). Khi tạo được đoạn văn hay thì bài viết của bạn như có thêm ngôi sao sáng trên bầu trời vậy.

Ngoài ra, viết văn cần vốn từ dồi dào, đa dạng. Học và ghi nhớ các từ vựng mới, đặc biệt là những từ thường gặp trong các tác phẩm văn học. Thật tuyệt vời nếu bài viết của bạn tràn ngập ngôn từ văn chương (tức bạn đã thể hiện được văn phong tương thích).

Bên cạnh đó, hãy dành thời gian o tập các ngữ pháp tiếng Việt để viết và nói đúng ngữ pháp cũng như trả lời kiến thức trong một số đề có thể yêu cầu.

7. Tham gia các hoạt động văn hóa, văn học

Nếu trường có câu lạc bộ văn học hoặc các hoạt động liên quan đến văn chương, hãy tham gia để giao lưu và học hỏi thêm. Và hiện nay học sinh chúng mình truy cập các hội nhóm, diễn đàn văn học rất dễ dàng, như Văn Học Trẻ chẳng hạn. Đây là môi trường rất tốt để bạn nâng cao năng lực văn học, thiết lập các mối quan hệ cùng học cùng chơi hữu ích.

Vĩ tuyến 17, ngày và đêm.jpg

Xem những phim lịch sử, văn học chuyển thể giúp tích lũy năng lực cảm thụ văn học.​

Thử sức với một số cuộc thi viết văn trực tuyến. Và năng lực tốt, bạn có thể cộng tác viết cho một số trang văn học, sáng tạo nội dung liên quan nhằm tích lũy kinh nghiệm, tự tin viết.

Xem các bộ phim, vở kịch, và tham gia các sự kiện văn hóa liên quan đến các tác phẩm bạn học để có cái nhìn đa chiều hơn.

8. Chuẩn bị tinh thần học tập

Bạn cần ý thức rằng năm học đã đến rồi, hãy gác lại những ngày nghỉ không học hành. Đến lớp với tâm thế cởi mở và đừng ngại hỏi khi không hiểu. Để học tốt văn là luôn tìm cách cải thiện, tích lũy từng chi tiết.

Chuẩn bị kỹ lưỡng cho môn Văn không chỉ giúp bạn bắt đầu năm học một cách thuận lợi mà còn giúp bạn yêu thích và tiếp thu môn học này một cách hiệu quả hơn. Trong trường học bài viết văn của bạn đạt điểm cao thì trong tương lai, khi đi làm bạn sẽ dễ dàng hòa nhập và đạt được mục tiêu (đừng bảo thủ, mơ mộng văn chương nha ^^ )

Chúc bạn có một năm học mới thành công và thú vị!
Thêm
989
2
2
Kinh nghiệm hữu ích~
Trong cả một hành trình dài dằng dặc học hành thì có kế hoạch học tập, có chuẩn bị sẽ có lợi thế vô cùng lớn để hoàn thành mục tiêu.
 
Viết trả lời...

Tuổi 20 là độ tuổi như thế nào?​

Một độ tuổi không có gì ngoài sự tự cho mình là đúng. Khi chúng ta ăn thức ăn của bố mẹ, uống thức ăn của bố mẹ, tiêu mồ hôi công sức của bố mẹ, chúng ta vẫn tổ chức những bữa tiệc cho cái gọi là sĩ diện, chiêu đãi bạn bè, tiêu rất nhiều tiền cho quà sinh nhật bạn bè, và cố gắng hết sức để làm hài lòng các bạn của chúng ta. Về việc này, tôi cũng đã cạn túi rồi, hãy nghĩ xem, hai mươi năm qua, tôi và bạn có kiếm ra được đồng nào không?

Ở độ tuổi 20, bạn có gì?​

Thanh xuân? Cuối cùng nó sẽ trở thành một kỷ niệm.

Hiểu biết? Quá hời hợt.

Xinh đẹp? Đổi lại, đó là những cảm xúc và sở thích đạo đức giả hơn.

Thời gian? Những người nghĩ theo cách đó khá lãng phí thời gian của họ.

Yêu? Đó là chuyện cả đời, liệu bây giờ bạn có chắc chắn giữ được nó cả đời không? Ngoài những gì cha mẹ đã cho chúng ta, chúng ta được phép tự hào về điều gì?

Chúng ta không là gì trước mặt người khác, đó là thực tế. Đừng nghĩ rằng bạn tuyệt vời như thế nào, trong xã hội, bạn thậm chí không là ai cả.

Thanh cao? Nó có giá trị một công việc không? Bạn có thể ăn, uống và sống tốt không? Đừng nghĩ rằng việc bưng bê, rửa bát, đứng siêu thị, dọn dẹp không phải là công việc của bạn, đừng nghĩ rằng bạn sinh ra để cứu thế giới, cuộc đời là sống chứ không phải tưởng tượng.

tuổi 20 bạn có gì.png

(Tuổi 20 bạn có gì?)​

Khi bạn khoảng 20 tuổi, đó là lúc bạn phải thực tế, hãy buông bỏ những giá sách cao cả, bẻ đôi cánh của những tưởng tượng, và sau đó là những chuyến đi thú vị hơn!

Khoảng 20 tuổi, một cái tuổi đầy lý tưởng nhưng lại quá viển vông. Thành công có được sau khi nỗ lực, cống hiến, kiên trì, chịu khó và vất vả hơn những người khác, không thể tưởng tượng nổi. Dù có bánh rơi trên trời rơi xuống cũng không trúng người cả ngày chỉ biết hão huyền.

Khoảng 20 tuổi, độ tuổi không tham gia sâu vào thế giới nhưng tuyên bố đã nhìn thấu mọi thứ. Chúng ta thường châm biếm xã hội bẩn thỉu, xấu xa và thối nát, cho rằng bản thân rất trong sáng, lại hời hợt nói ra những lời bất lực sống trong thế giới như vậy. Hãy yêu cuộc sống, đừng chỉ nói những lời như vậy trong khuôn viên của trường đại học, mà hãy nói những lời như vậy khi chúng ta đã trải qua đủ va vấp trong xã hội.

Khoảng 20 tuổi, những gì bạn nhìn thấy ở trường đại học thậm chí không phải là một góc của xã hội. Nếu bạn muốn thực sự nhìn thấu cuộc sống, bạn sẽ nhìn thấy nó ngay từ khi bạn nhắm mắt, chỉ có sống tốt, bạn mới có thể nhìn thấu thế giới.

Khoảng 20 tuổi, một tuổi đẹp nhưng ngắn ngủi. Giai đoạn này là mùa bạn có nhiều nghị lực nhất và tâm hồn tươi đẹp nhất, đừng lãng phí vào những bộ phim thần tượng khiến người ta phải khóc thét, bạn sẽ không bao giờ là nữ chính. Đừng mơ gặp được Hoàng tử, quyến rũ họ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Khả năng đó còn ít hơn khả năng trúng Vietlot vào ngày mai. Hãy đóng gói hành lý và đi dạo khi có thời gian.

Ở độ tuổi 20, mọi thứ bạn thấy chắc chắn không giống với những gì bạn thấy trong các chuyến du lịch do công ty lên kế hoạch trong tương lai, hãy nhìn kĩ khi bước ra thế giới bên ngoài, đừng chỉ đặt nó trong album ảnh mà hãy đặt nó vào trái tim của bạn. Rời mắt khỏi máy tính/điện thoại nhiều hơn, thế giới bên ngoài thú vị hơn, tận mắt chứng kiến và ngắm nhìn qua Internet là hai việc khác nhau. Cuộc sống “tề gia nội trợ” sẽ khiến con người ta mất đi giá trị sinh tồn, hãy ra ngoài xem thêm ngay kẻo lỡ để lại những kỉ niệm khi về già không đi lại được.

Khoảng 20 tuổi, một độ tuổi đơn giản nhưng phức tạp. Đừng đắm chìm quá nhiều vào quá khứ, hãy nhớ rằng sự lãng quên là bài học đầu đời. Tình cảm dù có khó quên đến đâu nhưng nếu chúng không thuộc về mình thì cũng đừng cố gắng phá bỏ chúng lại nhé.

Khoảng 20 tuổi, bạn có thể không sống một cuộc đời tuyệt vời, nhưng bạn phải sống có lòng tự trọng. Nhân phẩm không đáng để trả cho tình cảm trong sáng!

Khi bạn khoảng 20 tuổi, bạn cần tìm thứ gì đó có thể khiến đôi chân bạn vững vàng trên trái đất này ngoài tình yêu!

Khoảng 20 tuổi, cái tuổi đã lớn nhưng chưa trưởng thành. Lúc này, ngoại trừ cha mẹ của bạn, không ai nghĩ rằng bạn chỉ là một đứa trẻ, không ai dung túng cho những lỗi lầm của bạn, hãy học cách chấp nhậnTất cả mọi thứ, bạn sẽ thấy rằng nó mạnh hơn nhiều so với việc chỉ trốn thoát!

Khoảng 20 tuổi, bạn cần trưởng thành bằng cả trái tim mình!
Thêm
1K
2
1
Tuổi 20 mình khi đó, đang học đại học và có phần lo lắng hoang mang về tương lai. Ngoài chữ nghĩa, những người bạn thân quen thì rất mờ mịt về việc làm, về đời sống vật chất sau khi ra trường. Khi đó, internet đã phổ biến nhưng việc làm bán thời gian, kinh doanh online còn hoang sơ lắm.

Âu cũng tuổi 20, cơm áo gạo tiền đè sinh viên ;))
 
Viết trả lời...