Nền văn học Việt Nam

Nền văn học Việt Nam

D
Dieu Hoee
[NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM]

Đất nước bốn nghìn năm đứng dậy từ bùn đen, vùng lên giành lấy độc lập, hòa bình từ tay giặc, chuyển mình và phát triển theo nhịp sống toàn cầu. Theo dòng chảy lịch sử ấy, văn chương xuất hiện như một bức tranh siêu thực phản ánh toàn bộ những năm tháng hưng thịnh suy vong của đất nước Việt Nam. Lịch sử văn học cũng chính là lịch sử tâm hồn của quốc gia ấy, con người ấy. Bởi vậy, thấu hiểu dòng chảy văn học nước nhà cũng là cách để thấm đằm những kinh nghiệm, cảm xúc của cha ông ta xưa.

Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Văn học dân gian ra đời và tồn tại trước thế kỉ X. Ở thời điểm đó, chữ viết chưa ra đời nên truyền miệng là phương thức truyền bá chủ đạo. Các sáng tác dân gian sau khi hoàn thiện thành một chỉnh thể thống nhất sẽ được lưu truyền qua nhiều thế hệ, nhiều tư tưởng cảm nhận khác nhau. Bởi thế, văn học dân gian thường tồn tại nhiều dị bản với những đặc điểm riêng. Đặc trưng nổi bật của giai đoạn văn học này là tính tập thể, không mang dấu ấn cá nhân của riêng ai. Các tác giả sáng tạo nên văn học dân gian được gọi là tác giả dân gian. Vì là sản phẩm của nhân dân quần chúng lao động, các sáng tác trong thời kỳ này không “nói chí” hay “chở đạo”. Chúng chỉ đơn thuần thể hiện tâm tư của người dân lao động, phục vụ cho những hoạt động sinh hoạt cộng đồng. Các sáng tác dân gian cũng là sự phản ánh văn hóa, tín ngưỡng của một thời, tạo tiền đề cho bước đi văn học của mọi thời. Đó là phương tiện gửi gắm những quan niêm của cha ông ta về lẽ sống, đức tin vào những giá trị có thực ở đời.

Văn học dân gian gồm nhiều thể loại như tục ngữ, câu đố, ca dao, đồng dao, hát ru, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn,... Mỗi thể loại đều mang một đặc trưng riêng, phản ánh được góc nhìn nghệ thuật riêng. Sản phẩm do quần chúng lao động sáng tạo theo phương thức truyền miệng nhưng chưa bao giờ mất đi tính hoàn chỉnh và nghệ thuật. Văn học dân gian là nền tảng thúc đẩy, phát triển những giá trị của văn học viết. Bởi vậy, trong các tác phẩm văn học viết thường kế tục những motif, tư tưởng hoặc cổ mẫu trong văn nghệ dân gian.

Văn học viết có sự phân hóa phức tạp theo từng thời kỳ, mỗi thời kỳ chịu sự ảnh hưởng của một hệ tư tưởng khác nhau. Nhìn chung, văn học viết gồm văn học trung đại (Thế kỉ X - XIX) và văn học hiện đại (Thế kỷ XX - nay). Văn học trung đại chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Văn học hiện đại mang sức ảnh hưởng từ phương Tây. Nhưng quan trọng hơn cả, văn học viết cũng chịu sự chi phối của văn học dân gian, khai thác đề tài, thi liệu, ngôn ngữ,.. trong tâm thế bổ sung và sáng tạo. Văn học viết mang theo hơi thở thời đại, bộc lộ rõ nét hơn cái “tôi” cá nhân thoát ra khỏi tính tập thể xưa cũ. Dù xuất hiện muộn vào thế kỉ X nhưng văn học viết lại nắm vai trò chủ đạo, giữ vị trí thống trị trong nền văn học nước nhà.

Văn học trung đại đặc trưng bởi tính phi ngã, sùng cổ, trang nhã, uyên bác, quy phạm, ước lệ, gắn liền với quan niệm văn - sử - triết bất phân. Những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này thường mang âm hưởng hào hùng, giàu khí thế, khẳng định ý chí tung hoành Nam Bắc của bậc trí thức nước Nam.

Văn học hiện đại thể hiện nỗ lực cách tân, đào thải tư tưởng bảo thủ, phát huy những tư tưởng hợp thời, tái sáng tạo theo một cách rất riêng. Ở giai đoạn này, văn học cho phép người sáng tạo thể hiện rõ cái “tôi” cá nhân. Người sáng tạo không nhất thiết phải là người trí thức. Văn chương hiện đại chịu sự chi phối bởi văn học phương Tây, nhưng không làm mờ đi bản sắc Việt Nam.

Dù là văn học ở thời kì hay giai đoạn nào, dù là văn học dân gian hay văn học viết, chúng đều tồn tại trong mạch chảy văn chương Việt Nma, làm nền hình thái nền văn học nước nhà. Bốn nghìn năm xây dựng và phát triển cũng kéo theo một mốc thời gian dài văn chương ra đời và phát triển.
 
  • VĂN HỌC TRẺ.png
    VĂN HỌC TRẺ.png
    1.6 MB · Lượt xem: 6
Từ khóa Từ khóa
nền văn học việt nam văn học văn học việt nam viet nam
15
0
1
Trả lời
Văn học Việt Nam là một dòng chảy liên tục, phong phú và đa dạng, phản ánh sâu sắc lịch sử, văn hóa và tư tưởng của dân tộc. Dòng chảy này được chia thành hai bộ phận chính là văn học dân gian và văn học viết, song song tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau.

Văn học dân gian

Đây là bộ phận văn học lâu đời nhất, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, ra đời từ thời kỳ thượng cổ. Văn học dân gian là tiếng nói chung của nhân dân, thể hiện tâm tư, tình cảm, ước mơ và kinh nghiệm sống của người Việt. Các thể loại tiêu biểu bao gồm:

Truyền thuyết: Kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử, ví dụ như Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh.

Cổ tích: Kể về cuộc sống và số phận con người, thể hiện ước mơ về công lý và hạnh phúc, ví dụ như Tấm Cám, Thạch Sanh.

Truyện cười: Phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, ví dụ như Tam đại con gà.

Ca dao, tục ngữ, thành ngữ: Những câu nói vần, ngắn gọn, chứa đựng kinh nghiệm sống và triết lý dân gian.

Văn học viết ✍️

Văn học viết bắt đầu phát triển mạnh từ thế kỷ X, khi nước Đại Việt giành được độc lập. Dòng chảy này được chia thành hai giai đoạn lớn:

1. Văn học trung đại (thế kỷ X - hết thế kỷ XIX)

Đặc điểm chính của giai đoạn này là sự phát triển của văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.

Văn học chữ Hán: Thường do vua, quan, nhà nho sáng tác. Nội dung chủ yếu là ngợi ca đất nước, thể hiện tinh thần yêu nước và tư tưởng Nho giáo. Tác phẩm tiêu biểu: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn).

Văn học chữ Nôm: Xuất hiện và phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XV, đặc biệt là vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Chữ Nôm là chữ viết do người Việt sáng tạo, dựa trên chữ Hán, để ghi âm tiếng Việt. Văn học chữ Nôm thường phản ánh đời sống nội tâm, số phận con người và tình yêu đôi lứa. Tác phẩm tiêu biểu: Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm).

2. Văn học hiện đại (đầu thế kỷ XX - nay)

Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của văn học Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây và sự ra đời của chữ Quốc ngữ.

Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: Văn học hiện đại hóa, xuất hiện nhiều trào lưu mới.

Thơ Mới: Nổi bật với việc đề cao cái "tôi" cá nhân, phá vỡ lối thơ cũ. Tiêu biểu: Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ.

Văn xuôi hiện thực phê phán: Phản ánh hiện thực xã hội tàn khốc, lên án bất công và sự tha hóa con người. Tiêu biểu: Nam Cao (Chí Phèo), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Vũ Trọng Phụng (Số đỏ).

Văn học lãng mạn: Tập trung vào cảm xúc cá nhân, thoát ly hiện thực. Tiêu biểu: Nhất Linh, Khái Hưng (nhóm Tự Lực Văn Đoàn).

Giai đoạn từ năm 1945 đến hết thế kỷ XX: Văn học chủ yếu đi theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, phản ánh cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Nổi bật với cảm hứng sử thi và lãng mạn cách mạng. Tác phẩm tiêu biểu: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Vợ nhặt (Kim Lân), Việt Bắc (Tố Hữu).

Giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến nay: Văn học đa dạng hơn về đề tài, phong cách và thể loại. Các tác giả trẻ mạnh dạn khám phá những góc nhìn mới về con người và xã hội, không còn bị gò bó bởi những khuôn mẫu cũ.

#vanhoc #vanhocvietnam #vanhoctre
 

Trending content

Đang có mặt