Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Nhớ đồng là bài thơ diễn tả nỗi nhớ da diết của người tù cộng sản với cuộc sống ngoài xã hội. Bài thơ cho thấy được cách tạo hình ảnh thể hiện diễn biến tâm tư của Tố Hữu. Để học tốt hơn bài thơ này, VHT mời các em tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của bài thơ qua bài soạn ngắn gọn sau:
FC1B30BE-12DD-4509-BA6D-0861DAE09618.jpeg

Ảnh sưu tầm

1. Tìm hiểu chung

a. Hoàn cảnh sáng tác

Năm 1939, sau khi đứng vào hàng ngũ của Đảng, Tố Hữu hăng hái hoạt động nhưng bị thực dân Pháp bắt giam. Trong tình cảnh nhà giam chật hẹp tối tăm, Tố Hữu đã viết bài thơ Nhớ đồng để bày tỏ nỗi nhớ, sự khao khát tự do của mình.
Vị trí xuất xứ: bài thơ được in trong phần xiềng xích của tập thơ Từ ấy

b. Bố cục: 3 phần

- Phần 1: 9 khổ thơ đầu: nỗi nhớ của người cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù.
- Phần 2: 2 khổ tiếp: nhà thơ nhớ về bản thân mình những ngày chưa bị giam cầm.
- Phần 3: còn lại: trở lại thực tại phòng giam ngột ngạt.

2. Hướng dẫn đọc thêm

a. Nội dung

- Nỗi nhớ da diết cuộc sống bên ngồi nhà tù: bài thơ gợi lên từ tiếng hò thân thuộc của quê hương đã gợi lên biết bao nỗi nhớ về cuộc sống bên ngoài:
+ Đồng ruộng quê hương.
+ Những người nông dân.
+ Những con người chất phác.
+ Giọng hò trong lao động.
+ Người mẹ già đơn chiếc.
+ Những ngày đi tìm lí tưởng sống.
+ Những ngày hoạt động CM.
- Trở về thực tại nhà tù cô đơn, cách biệt với thế giới bên ngoài.
- Khát vọng tự do và hành động của người chiến sĩ.

b. Nghệ thuật

- Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
- Giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ.

c. Ý nghĩa văn bản
Bài thơ là tiếng lòng da diết đối với cuộc sống bên ngồi của người chiến sĩ cộng sản. Nỗi nhớ ấy thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của chính mình.​

Xem thêm
Các bài soạn Ngữ văn, bài văn hay, đề thi Ngữ văn 11 tại đây.
Thêm
Nhớ đồng - Tố Hữu - bài soạn ngắn gọn đầy đủ
583
0
0
Lai Tân là bài thơ đặc sắc của Hồ Chí Minh. Đây là bài thơ được trích trong tập thơ Nhật kí trong tù. Qua bài thơ, người đọc thấy được hiện thực nhà tù Tưởng Giới Thạch và tính chiến đấu của bài thơ. Lai Tân còn là đại diện tiêu biểu cho bút pháp trào phúng của thơ Hồ Chí Minh. Để hiểu hơn về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Lai Tân, VHT mời các em tham khảo bài soạn ngắn gọn nhưng đầy đủ sau:

bai-tho-lai-tan-nhat-ky-trong-tu-600x381.jpg

Ảnh sưu tầm


1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

Lai Tân là bài thơ thứ 97, trích Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh.

b. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ được sáng tác trong khoảng bốn tháng đầu của thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ tại các nhà tù của bọn Quốc dân đảng Trung Quốc ở Quảng Tây.

c. Thể thơ

Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

d. Bố cục

Bài thơ chia làm 2 phần:

- Phần một (Ba câu đầu): Hiện thực xã hội Lai Tân.

- Phần hai (Câu thơ cuối): Bình luận của tác giả.

2. Hướng dẫn đọc thêm

a. Nội dung

- Câu 1,2,3: Bộ máy quan lại ở Lai Tân
+ Ban trưởng nhà lao: đánh bạc ngày này qua ngày khác.
+ Cảnh sát trưởng: móc túi tiền của người tù.
+ Huyện trưởng: chong đèn hút thuốc phiện.
=> Không làm đúng chức năng của người đại diện cho pháp luật. Lột tả thực chất của chính quyền Tưởng Giới Thạch.

- Câu 4: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình​

Câu thơ rất tự nhiên, nhẹ nhàng, bất ngờ, tạo sự đối lập giữa 3 câu thơ trên và câu cuối. Từ đó ngầm cho người đọc tự khẳng định trạng thái "thái bình" của trời đất Lai Tân.
=> Sắc thái châm biếm, mỉa mai vì làm sao có thái bình được khi Lai Tân có những vì "cầm quyền" thối nát.

b. Nghệ thuật

- Tạo điểm nhấn tiếng cuối mỗi câu.
- Chọn nhân vật, miêu tả chi tiết.
- Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng nhưng thâm thuý.​
- Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng.

c. Ý nghĩa văn bản

Bài thơ phản ánh thực trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng như là yên ấm, tốt lành.​

Xem thêm

Các bài soạn, bài văn hay, đề thi Ngữ văn 11 tại đây.
....................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Lai Tân - Hồ Chí Minh - soạn văn ngắn gọn
  • Like
Reactions: Vanhoctre
975
1
1

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Dàn ý phân tích bài thơ Lai Tân
1. Mở bài
- Phong cách nghệ thuật trong thơ Hồ Chí Minh rất đa dạng, phong phú nhưng vẫn đồng nhất: có thơ trữ tình, thơ tự sự, tự trào...​
 
Từ ấy là một trong những bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Bài thơ đã thể hiện niềm vui và nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm,… của người thanh niên khi giác ngộ lí tưởng cộng sản. Bài thơ còn thu hút người đọc bởi nghệ thuật diễn tả tâm trạng. Để học tốt hơn bài thơ Từ ấy, VHT mời các em học sinh cùng tham khảo bài soạn sau đây:

B256925C-6C88-4658-9BEB-32E080C8CEDA.jpeg

Ảnh VHT

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả, tác phẩm (SGK)


2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ nằm trong phần Máu lửa của tập thơ Từ ấy (Tập thơ gồm 36 bài, chia làm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng).
- Năm 1938 khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, TH viết bài thơ này để ghi lại kỉ niệm đáng nhớ ấy.​

3. Bố cục


Bài thơ chia làm 3 phần:

+ Đoạn 1 (khổ 1): Niềm vui sướng mãnh liệt của nhà thơ khi gặp ánh sáng lí tưởng.
+ Đoạn 3 (khổ 2): Nhận thức mới về lẽ sống.
+ Đoạn 3 (khổ 3): Chuyển biến sâu sắc trong tình cảm, sự tự khẳng định về vị trí của nhà thơ.

II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Khổ 1: Niềm vui lớn

- Hai câu đầu: được viết theo bút pháp tự sự. Nhà thơ kể kỉ niệm không quên của đời mình.
+ Từ ấy: từ khi giác ngộ được lí tưởng cách mạng.
+ Hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim -> Sự kết hợp độc đáo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa.
+ Các động từ mạnh: bừng, chói -> Lí tưởng cộng sản làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ.
- Hai câu sau: bút pháp trữ tình lãng mạn.
+ Hình ảnh ẩn dụ, so sánh: hồn tôi - vườn hoa lá - đậm hương - rộn tiếng chim. Thể hiện niềm vui sướng, yêu đời, tràn đầy sức sống trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản.
+ Vẻ đẹp và sức sống mới ấy của tâm hồn cũng chính là vẻ đẹp của hồn thơ.
=> Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà còn đem lại cảm hứng sáng tạo cho hồn thơ.

2. Khổ 2: Lẽ sống lớn

- Hai câu đầu: sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung.
+ Động từ buộc (ngoa dụ) – mọi người: tự nguyện gắn bó cái tôi với cái chung của mọi người.
+ Trang trải – trăm nơi (hoán dụ): trải rộng tâm hồn với cuộc đời.
- Hai câu sau: tình cảm hữu ái giai cấp.
+ Hồn khổ: gắn bó với quần chúng lao khổ.
+ Khối đời (ẩn dụ): sự đoàn kết của những người cùng cảnh ngộ.
=> Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh bên những người lao khổ.

3. Khổ 3: Tình cảm lớn

- Điệp từ: là, của, vạn.
- Đại từ nhân xưng: con, em, anh.
- Số từ ước lệ vạn.
=> Nhấn mạnh và khẳng định tình cảm gia đình đầm ấm, gắn bó ruột thịt. Tác giả xem mình là thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ đó.
- Từ ngữ gợi cảm: Kiếp hôi pha, Cù bất cù bơ. Thể hiện tấm lòng đồng cảm, xót thương.
=> Sự căm giận - Vì những con người ấy (nhân dân) giúp Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu…

4. Nghệ thuật

- Hình ảnh tươi sáng, giàu ý nghĩa tượng trưng.
- Ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu.
- Giọng thơ sảng khoái, nhịp điệu thơ hăm hở.

III. Ý NGHĨA VĂN BẢN

Niềm vui lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cộng sản.​

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 11 tại đây.
......................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Từ ấy - trọng tâm kiến thức - ngắn gọn và chi tiết
  • Like
Reactions: Vanhoctre
467
1
1

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK TRANG 44
* Câu 1

- Tố Hữu đã dùng những hình ảnh để chỉ lí tưởng và biểu hiện niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng:
+ "nắng hạ": nắng...​
 
Chiều tối là bài thơ xuất sắc của Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trên đường đi đày từ tỉnh Tĩnh Tây đến Thiên Bảo của Trung Quốc. Cùng Triều Anh tham khảo trọng tâm kiến thức của bài thơ nhé.

chiều tối.jpg

Ảnh sưu tầm​

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ

- Tháng 8-1942, HCM sang TQ để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Sau nửa tháng đi bộ, vừa đến Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ.
- Trong 13 tháng tù, HCM đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán, đặt tên là “Ngục trung nhật kí”.
- Bài thơ “Chiều tối” là bài thứ 31 của tập thơ. Sáng tác vào cuối mùa thu 1942, trên đường đi đày từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

2. Thể loại

Thất ngôn tứ tuyệt.

II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên chiều muộn nơi núi rừng
- Cảnh thiên nhiên nơi núi rừng:
+ Thời gian: chiều tối.
+ Hình ảnh: cánh chim, đám mây…
=> Tả cảnh theo bút pháp quen thuộc của thơ ca cổ điển: chấm phá, gợi, lấy điểm vẽ diện…
+ Dịch chưa sát: cô vân, mạn mạn.
=> Cảnh thực trong cảm nhận của người tù – thi sĩ (sự tương đồng giữa người và cảnh).
- Vẻ đẹp tâm hồn, tình yêu thiên nhiên và phong thái ung dung tự tại, tự do về tinh thần
=> Chất thép ẩn đằng sau chất tình.

2. Hai câu cuối: Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người

- Bức tranh cuộc sống vùng sơn cước:
+ Vẻ đẹp khoẻ khoắn của người con gái xóm núi đang xay ngô bên lò than.
+ Cuộc sống đời thường đã đem lại cho người tù hơi ấm, niềm vui.
+ Dịch thơ: thêm tối => Mất cái gợi của thơ tứ tuyệt cổ điển.
- Sự vận động của thiên nhiên cũng là sự vận động của tư tưởng, hình tượng thơ HCM (câu 4).
+ Sự vận động của thời gian: Chiều chuyển dần sang tối nhưng bức tranh thơ lại mở ra bằng ánh sáng rực hồng.
+ Chữ hồng – nhãn tự của bài thơ.
+ Sự vận động của mạch thơ, tư tưởng người làm thơ: từ tối – sáng, từ tàn lụi – sinh sôi, từ buồn – vui, từ lạnh lẽo, cơ đơn - ấm nồng tình người.
=> Tâm hồn vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để hướng về sự sống và ánh sáng.

3. Nghệ thuật
- Từ ngữ cô đọng, hàm súc.
- Thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn.

III. Ý NGHĨA VĂN BẢN

Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách nghệ sĩ – chiến sĩ HCM: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống; kiên cường vượt lên hồn cảnh, luôn ung dung, tự tại và lạc quan trong mọi cảnh ngộ đời sống.
........................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Trọng tâm kiến thức bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, Ngữ văn 11, đầy đủ và chi tiết
563
0
0
Nghị luận xã hội là dạng đề quan trọng của chương trình Ngữ văn 11. Cùng Triều Anh tham khảo đề văn nghị luận sau:
suc-manh.jpg


Ảnh sưu tầm

Giải thích và chứng minh ý kiến sau đây của Mai-a-cốp-xki:

Trên đường đời, hành lí của con người cần mang theo là lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài

- Lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng giúp ta vượt khó khăn, đạt được thành công.
- Giới thiệu câu nói – ghi lại câu ghi ở đề bài.

2. Thân bài

a. Giải thích


- Lòng kiên nhẫn
+ Tính kiên trì, nhẫn nại, sự bền chí, không nản lòng trước khó khăn, thất bại trong cuộc sống.
+ Bền tâm giữ vững mục tiêu phấn đấu, luôn theo đuổi lí tưởng cuộc đời
- Tính chịu đựng: không kêu than, không sợ sệt trước khó khăn. Không nản lòng trước những lời bình phẩm, chê bai.
=> Lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng là hai phẩm chất chủ yếu thể hiện ý chí, quyết tâm của ta trong việc thực hiện mục tiêu, tiến đến lí tưởng cuộc đời của bản thân.

b. Chứng minh

- Đây là hai phẩm chất thể hiện sự đấu tranh bản thân vì tâm lí chung của con người là ngại khó, sợ khổ. Chiến thắng sự ngại khó, sợ khổ của chính bản thân mình là điều kiện cần thiết giúp ta thực hiện hoài bão của mình.
- Lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng có mối quan hệ mật thiết, hai đức tính ấy bổ sung cho nhau sẽ thể hiện ý chí và quyết tâm của ta.
- Một số dẫn chứng:
+ Kiến tha lâu đầy tổ (TN).
+ Ai ơi giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai
(CD)
+ Không có việc gì khó/ (...) Quyết chí ắt làm nên (HCM)….

3. Kết bài

- Trong học tập: kiên nhẫn và chịu khó học hành để tiến bộ
- Trong cuộc sống: rút kinh nghiệm về những thất bại để sửa sai.​
.......................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Nghị luận về lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng - bài viết số 5, Ngữ văn 11
740
0
0
ĐÂY MÙA THU TỚI
Xuân Diệu

Mùa thu vẫn được coi là mùa ứng với tuổi xế chiều của đời người, vì theo quan niệm cổ sơ, các chặng đời của con người gắn với sự tuần hoàn của vũ trụ. Trong đó, mùa xuân ứng với tuổi ấu thơ – gắn với sự sinh sôi; mùa hạ ứng với tuổi thanh xuân – gắn với sự trưởng thành; mùa thu tựa như tuổi già - ứng với sự tàn lụi; mùa đông ứng với sự chết, gợi thác thành sự hoá, con người gửi thân xác vào đất đai để sau đó, theo luật tuần hoàn của đất trời mà tiếp tục tái sinh vào kiếp khác. Chịu ảnh hưởng của thuyết “thiên nhân tương cảm” đó, người phương Đông thường có cái nhìn nhuốm một nỗi buồn mang tính “định mệnh” trước mùa thu. Mùa thu do đó, thường đồng nghĩa với sự tàn phai, mất mát.
Cũng không ngẫu nhiên trong chữ Hán cổ, chữ “sầu” được ghép theo lối chiết tự, là sự hợp lại của hai chữ: thu + tâm; cõi lòng con người ta về mùa thu thường buồn.
I. Tìm hiểu chung
- Bài thơ được rút từ tập “Thơ thơ” (1938).
- “Đây mùa thu tới” là bài thơ viết về đề tài quen thuộc mùa thu và vẫn dùng nhiều thi liệu truyền thống, nhưng tác giả đã gửi vào đó những cảm xúc mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong việc xử lí thi liệu và diễn đạt,... Vì vậy, bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu.
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Khổ 1: Tâm trạng con người vào lúc giao mùa (Khao khát đón mùa thu tới)

- Hình ảnh mở đầu viết về mùa thu là rặng liễu buồn, một hình ảnh ít thấy trong thơ viết về mùa thu. Liễu thường gặp trong thơ cổ để ẩn dụ cho người con gái hoặc để gợi hình ảnh người con gái chứ ít khi gặp hình ảnh liễu chỉ mùa thu. Hình ảnh rặng liễu trong thơ Xuân Diệu để gợi buồn nên rặng liễu được nhìn giống như hình ảnh về người thiếu phụ để tang chồng.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Hai câu thơ mở đầu đã thể hiện cảm xúc bao trùm bài thơ: cảm xúc buồn. Cảm xúc này là điểm tựa để nhà thơ thể hiện sự cảm quan của mình về thời gian, cảnh vật, con người. Hai câu đầu này còn báo cho người đọc một tin: sự chờ đợi của nhân vật trữ tình về cái buồn nay đã bắt gặp được nó. Câu thơ “Đây mùa thu tời – mùa thu tới” phải đọc làm sao thể hiện hai cảm xúc khác nhau: cảm xúc vui sướng và cảm xúc buồn xao xuyến. Vế thứ nhất “Đây mùa thu tới” là cảm xúc vui mừng nên nghe như một tiếng reo vui. Vế sau của câu thơ “mùa thu tới”, giọng thơ chùng xuống biểu hiện một sự luyến tiếc, bâng khuâng: mùa thu đi qua mất rồi.
Mùa thu ở đây rất đẹp. Sắc vàng của mùa thu, một màu sắc đặc trưng trong nghệ thuật đã được Xuân Diệu làm cho nó hiện lên dần dần, bắt đầu từ màu vàng nhạt “áo mơ phai” chuyển sang màu vàng của chiếc lá “dệt lá vàng”. Động từ “dệt” thể hiện bàn tay của hoá công tạo nên sắc thu dịu kì, làm cho không gian sắc màu xen lẫn màu vàng với những màu sắc khác nhau. Mùa thu đẹp một cách dịu kì đó giống như đất trời đang khoác lên mình chiếc “áo mơ phai dệt lá vàng”.
2. Khổ 2: Cảm nhận thu trong cảnh vật hoa, lá, cành.
- Mùa thu được thể hiện bằng những nét đặc trưng: hoa rụng cành, cây cối trong vườn đang bị màu đỏ lấn dần, những làn gió heo may đang về. Những hoa, những lá, những cành,... của cảnh vật đã được Xuân Diệu tô điểm thêm những nét mới của nghệ thuật ngôn từ, làm cho cảnh vật mùa thu ở đây mang sắc thái riêng. Cách nói “hơn một loài hoa” là để chỉ số lượng các loài hoa không quá ít nhưng cũng không nhiều đã không còn hoa để khoe sắc. Ở câu thứ hai của khổ thơ này, tác giả đã dùng động từ “rũa” thể hiện sự quan sát một cách tinh tế về cảnh vật trong sự chuyển mùa qua sự biến đổi màu sắc trong vườn cây. Màu đỏ không phải là màu lá của mùa thu, chỉ có lá bàng mới chuyển màu đỏ nhưng lá bàng chuyển màu rụng lá vào mùa đông. Như vậy động từ “rũa” không phải là để chỉ sự biến đổi màu sắc mà là thể hiện một sự tương phản của hai gam màu: xanh và đỏ.
- Nếu hai câu đầu của khổ thơ này là hoa rụng, lá úa thì hai câu sau được vẽ với bút pháp hội hoạ theo chủ nghĩa ấn tượng.
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Nếu tách hai câu này rời nhau thì một câu nói gió lạnh, một câu nói cành khô, không ăn nhập gì với nhau cả. Nhưng kết hợp hai câu thơ này ta mới cảm nhận được sự độc đáo của nó. Hai câu thơ bảy tiếng này có cái gì đó mang dáng dấp của Đường thi ở cách đối: “những luồng” >< “đôi nhánh”, “rung rinh lá” >< “xương mỏng manh”. Sự đối ở đây không phải đối ý hay đối lời mà sự đối tạo ra tính nhịp nhàng ở hai câu thơ về mặt âm điệu và tương hợp về mặt hình ảnh. Trên bức tranh thiên nhiên có cả sắc xanh, sắc đỏ, sắc vàng ấy là vài cành khô thấp thoáng giữa những chiếc lá rung rinh. Chất hội hoạ ở đây vừa mang nét nghệ thuật chấm phá phương Đông, vừa là hình ảnh gây ấn tượng của hội hoạ phương Tây. Về mặt âm thanh, nhà thơ khéo sử dụng láy phụ âm đầu “r” để vừa tạo cảm giác, vừa chỉ trạng thái động của sự vật: như một sinh thể sống động. Cùng với từ “rung rinh” ở câu trên là những từ: khô, gầy, xương, mỏng manh là những từ miêu tả sự vật nhưng bản thân nó không thể đứng yên được mà phải rung rinh. Cảnh vật trong vườn thu được Xuân Diệu cảm nhận bằng nhiều giác quan khác nhau, rất tinh tế, tinh vi và cũng rất ấn tượng. Trong bài thơ, khổ thơ đạt đến tuyệt bút.
3. Khổ 3: Cảm nhận thu trong trăng, sương, gió, một không gian tĩnh lặng, xao xuyến.
- Sang cảnh thu ở khổ thơ thứ ba là trăng, là sương, là gió, là bến đò vắng. Mùa thu được nói đến ở khổ thơ này mang cái buồn trầm uất (như cái buồn trong Thu hứng của Đỗ Phủ). Trăng thì ngẩn ngơ, non xa bắt đầu bao phủ, rét theo gió luồn vào trong cảnh vật, bến đò thì vắng khách. Cách thể hiện những câu thơ này của Xuân Diệu vừa Tây lại vừa Đông. Trăng được gọi là “nàng trăng”, sương bắt đầu bao phủ thì gọi là “khởi sự”, rét mướt thì nghe chứ không phải cảm thấy, bến đò thì không thấy mà cảm.
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...

- Hai câu thơ này mang nặng dấu ấn Xuân Diệu. Các từ “đã nghe”, “đã vắng” là sự thể hiện thời gian qua đi rồi. Hai câu này cũng đưa đẩy nhau để tạo nên cảm giác buồn thấm cả vào da thịt, vào trong tâm tưởng. Có những cái vô hình như gió thì trong đôi mắt của thi nhân trở nên hữu hình. Động từ “luồn” đã hình ảnh hoá những cái vô hình, chuyển hình ảnh của cảm giác (rét mướt) thành những hình ảnh của thị giác (luồn trong gió). Cách thể hiện cảnh vật ở khổ thơ thứ ba đem đến cho người đọc một cái buồn rất “cổ kính” của thu, nhưng cũng rất mới mẻ, rất Tây trong cách thể hiện.
4. Khổ 4: Cảm xúc buồn khi thu trôi qua.
- Sang khổ thơ cuối, vẫn mang cái cảm xúc buồn trầm uất ở khổ thơ thứ ba, nhưng lại kết hợp với hình ảnh của sự chia li: chim bay đi, hận chia li, buồn không nói, nghĩ ngợi gì. Như vậy, về ý thơ, Xuân Diệu có gì mới đâu. Mùa thu đến, lá vàng rơi, người buồn cảnh cũng buồn, không gian buồn, bến đò vắng, gợi cảnh chia li,...tất cả đều có trong thơ truyền thống. Nhưng cái mới trong “Đây mùa thu tới” chính là cách sử dụng ngôn từ để đem cái sắc thu, ý thu quen thuộc đó diễn đạt bằng một cách khác để tạo nên những hình ảnh mới mà khả năng tác động của nó vào cảm xúc của người đọc không chỉ bằng con đường thị giác, mà cả thính giác, xúc giác, cảm giác. Đặc biệt, trong cái thu buồn này, Xuân Diệu đã mở ra cho tâm hồn người đọc một không gian thu khác, đầy bâng khuâng xao xuyến, một vẻ gì đó như là thu đã ra đi mà người thưởng thu thì vô cùng lưu luyến, ngẩn ngơ. Hai từ “nghĩ ngợi” ở cuối bài thơ dùng ở hình thức nghi vấn đã đưa người đọc vượt qua khỏi cái “ngưỡng” của cảm xúc để đến với chiều sâu của sự suy tư.
5. Nghệ thuật
- Nghệ thuật nhân hóa qua một số hình ảnh thơ:
+ Rặng liễu – người phụ nữ đứng chịu tang.
+ Trăng – cô gái tự ngẩn ngơ.
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi tả: đìu hiu, chịu tang, tóc buồn, lệ ngàn hàng, sắc đỏ rũa màu xanh, xương mỏng manh, rét mướt luồn trong gió.
- Nghệ thuật sử dụng nhiều từ láy âm tạo được nhạc điệu buồn phù hợp với hình ảnh thơ: đìu – hiu – chịu, tang – ngàn – hàng, buồn – buông – xuống, run rẩy – rung rinh.

- Nghệ thuật sử dụng nhiều dấu chấm lửng (…) nhấn mạnh trạng thái khoảnh khắc bắt đầu, còn dang dở của mọi sự chuyển biến trong thời điểm giao mùa.
Thêm
415
0
0
Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới và cùng là ông hoàng của thơ tình yêu. Bài thơ Vội vàng của thi sĩ là một trong những thi phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Cùng Triều Anh học tốt hơn với bài văn hay Cảm nhận về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.

62D7094A-FE40-40F8-82F6-104CF7B70324.jpeg

Ảnh sưu tầm


Xem thêm

Soạn văn Vội vàng
Trọng tâm kiến thức bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Đề bài: Viết bài văn nghị luận trình bày cảm nhận của anh/chị về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.

I. Dàn ý

1. Mở bài


- Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông nổi tiếng với tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”.

- Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc của Xuân Diệu, trích từ tập “Thơ thơ” (1938) - tập thơ đầu tay của Xuân Diệu.

- Vội vàng là một bài thơ xuất sắc về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu với những quan điểm sâu sắc về cuộc sống, về thời gian.

2. Thân bài

a. Luận điểm 1 - Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu qua đoạn thơ ngũ ngôn
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Luận cứ 1: Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết. Nhấn mạnh khao khát chảy bỏng, tha thiết, được “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ màu cho cuộc sống, giữ hương cho đời, lưu giữ mãi khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên hiện tại.

- Luận cứ 2: Điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của” kết hợp với nghệ thuật liệt kê. Phơi bày ra vẻ đẹp không kể hết, cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời

b. Luận điểm 2 - Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế (câu 6 - 13)

- Luận cứ 1:
Nghệ thuật liệt kê kết hợp các tính từ đã khắc hoạ những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà.

- Luận cứ 2: Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu qua biện pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.

- Luận cứ 3: Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.

- Luận cứ 4: Suy tư của Xuân Diệu - “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.

c. Luận điểm 3 - Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu (đoạn 2)

- Luận cứ 1 - 2 câu thơ đầu
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
+ Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại. Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ 3/4, diễn tả bước đi của thời gian. Điệp cấu trúc - điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa. Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
=> Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại.

- Luận cứ 2 - 7 câu thơ tiếp theo

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
+ Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.
+ Nghệ thuật đối lập: Rộng - chật/ Xuân tuần hoàn - tuổi trẻ/ Còn trời đất - chẳng còn tôi mãi. Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối.

- Luận cứ 3 - 7 câu thơ cuối:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”
+ Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.
+ Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.​
"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…"

d. Luận điểm 4 - Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời (đoạn cuối)

- Luận cứ 1: Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.

- Luận cứ 2: Cách xưng hô: “tôi” sang “ta” kết hợp với việc dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.
=> Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời.

- Luận cứ 3: Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê. Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.​
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

- Luận cứ 4: Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác - mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn”. Đó là mong muốn được hưởng thụ.

- Luận cứ 5: Quan niệm sống của tác giả - Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến.

đ. Luận điểm 5 - Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Vội vàng

- Luận cứ 1: Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí.

- Luận cứ 2: Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.

- Luận cứ 3: Sử dụng ngôn từ, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

3. Kết bài

- Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh ta và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó là quan niệm sống rất người, rất tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

- Những cách tân của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút Xuân Diệu từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ,...Tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.

II. Bài văn tham khảo

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”. Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Về cấu tứ bài thơ, bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn. Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống vội vàng. Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời. Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống. Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:​

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.

Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp. Tác giả đã dùng những động từ mạnh như tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống là một khát vọng rất nghệ sĩ - thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả. Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:​

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si

Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân - thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:​

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo - tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà. Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:​

Tà áo mới cũng say múi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
(Xuân đầu)

Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui. Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa. Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ “này đây” dồn dập đã liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc:​

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ - tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê. Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:​

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: “Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang”, nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ nghĩa là như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật phũ phàng. Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho cái đẹp - cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:​

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,...
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:​

Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:​

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.

Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:​
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Cụm từ “Ta muốn ôm” đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn... Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ “Ta muốn” diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: ôm, riết, thâu, cắn diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:​
Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức mọi giác quan.

Với giọng thơ táo bạo, đầy đắm say, lãng mạn, Vội vàng đã kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí. Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ. Sử dụng ngôn từ, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt đã góp phần thể hiện ró quan niệm sống mới mẻ và táo bạo của Xuân Diệu trước cuộc sống, tình yêu và tuổi trẻ.

Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống. Nhất là mùa xuân - tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ - một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời, nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.
........................................
Sưu tầm và biên tập​
Thêm
Cảm nhận bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
1K
0
5
Trong kỳ tuyển sinh đại học năm 2007, trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP HCM) có thí sinh đạt 9,5 điểm Văn. Cùng Triều Anh tham khảo bài viết đạt điểm rất cao này nhé.

F0D4F572-5FB3-4677-AAF5-5E39D5B424E2.jpeg

Ảnh: sưu tầm
Xem thêm

Soạn văn Tràng giang
Kiến thức trọng tâm bài thơ Tràng giang
Cảm nhận về bài thơ Tràng giang

Đề bài
Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.

I. Dàn ý

1. Mở bài

- Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945.
- Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng Giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.
- Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định.
- Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

2. Thân bài

- Luận điểm 1: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại qua nhan đề và câu thơ đề từ


+ Luận cứ 1: Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

+ Luận cứ 2: Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

+ Luận cứ 3:
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài” gợi tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng.

- Luận điểm 2: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện qua khổ 1

+ Luận cứ 1: Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được từ láy “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi.

+ Luận cứ 2: Thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

+ Luận cứ 3: Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” qua câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

- Luận điểm 3: Nỗi lòng cô đơn, lẻ loi qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

+ Luận cứ 1: Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ.

+ Luận cứ 2: Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

+ Luận cứ 3: Câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.

+ Luận cứ 4: “Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa.

+ Luận cứ 5: Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông con người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

+ Luận cứ 6: Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời.

- Luận điểm 4: Nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao và hình ảnh hoàng hôn

+ Luận cứ 1: Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc.

+ Luận cứ 2: Nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình giữa chim và bóng chiều.

+ Luận cứ 3: Nét tâm trạng hiện đại - Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

- Luận điểm 5: Đặc sắc nghệ thuật

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

3. Kết bài

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất “Huy Cận”, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

II. Bài văn tham khảo

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc đời”... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng Giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.


Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.


Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “tràng giang” dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.


Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một càng khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.


Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.


“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”.

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông con người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.


Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “...không...không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.


Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.


“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường. Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như “sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất “Huy Cận”, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.​

................................................
Sưu tầm và biên tập
Thêm
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
566
0
0
Huy Cận là nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam. Tràng giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Để hiểu rõ sâu sắc hơn bài thơ Tràng giang, Cùng Triều Anh tham khảo đề bài sau:

45136E7F-6AC5-4892-B12D-6C9CDF736C73.jpeg
Ảnh: sưu tầm
Xem thêm

Soạn văn Tràng giang
Kiến thức trọng tâm bài thơ Tràng giang
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận.

I. Dàn ý

1. Mở bài


- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Huy Cận
+ Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp, là một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não.
+ Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
+ Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940),
- Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tràng giang
+ Bài thơ được sáng tác vào một chiều cuối thu 1939 khi Huy Cận đứng trước dòng sông Hồng mênh mang sông nước.
+ Tràng Giang trích trong tập Lửa Thiêng.
- Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ: nỗi buồn miên man trước cảnh trời rộng sông dài ẩn chứa nỗi lòng yêu nước.

2. Thân bài

- Luận điểm 1: Nhan đề và câu thơ đề từ

+ Luận cứ 1:
Nhan đề
Nhan đề sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.

+ Luận cứ 2: Câu thơ đề từ
. Hình ảnh: Trời rộng”, “sông dài” = >gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la
. Từ láy “bâng khuâng” kết hợp vơi biện pháp đối => một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.
=> Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

- Luận điểm 2: Nỗi buồn thân phận trước dòng nước mênh mang (khổ 1)

+ Luận cứ 1 - Câu 1:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
. Từ láy “điệp điệp”: láy lại khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. .Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

+ Luận cứ 2 - Câu 2:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định.

+ Luận cứ 3 - Câu 3:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang.

+ Luận cứ 4 - Câu 4:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
. Cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả ứng hiện trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi.
. “Củi một cành khô lạc mấy dòng" gợi sự cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người.
=>Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cuộc đời - đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

- Luận điểm 2 - Khổ 2: Nỗi buồn thân phận nhân lên thành nỗi cô đơn rợn ngợp khi đứng trước trời rộng sông dài.

+ Luận cứ 1 - 2 câu đầu: “Lơ thơ cồn nhỏ… chợ chiều”

. Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...

+ Luận cứ - 2 câu cuối: “Nắng xuống… bến cô liêu”
. Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút.
. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người.

- Luận điểm 3 - Khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

+ Luận cứ 1 – câu 1, 2: “Mênh mông… niềm thân mật”

. Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ.
. Chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

- Luận điểm 4 - Khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

+ Luận cứ 1-2 câu đầu:

. Không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ.
. So sánh với câu thơ Lí Bạch: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại

+ Luận cứ 2- 2 câu kết:
. Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả.
. Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

- Luận điểm 5: Đặc sắc nghệ thuật
+ Luận cứ 1:
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại.
+ Luận cứ 2: Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận ngày hôm nay rồi.

3. Kết bài
- Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hoà nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả.
- Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước.

II. Bài viết tham khảo

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lý, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Thi phẩm Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ngắm dòng sông Hồng mênh mông sông nước. Đặc biệt là thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận trước cảnh trời rộng sông dài. Đó là nỗi buồn miên man trước cảnh trời rộng sông dài ẩn chứa nỗi lòng yêu nước.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ. Nhan đề sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông. Hình ảnh trời rộng, sông dài, gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la. Từ láy “bâng khuâng” kết hợp vơi biện pháp đối gợi một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng. Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng


Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nỗi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của Huy Cận. Từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn con người thấm vào sóng nước. Ta có cảm giác như không chỉ thấy sóng trên tràng giang mà còn thấy sóng lòng trào dâng lên không dứt, mênh mang, hòa cùng sóng nước vỗ mãi tới tận chân trời.

“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”


Sóng nước dập dềnh, trải dài xa mãi, thinh lặng khó nói lên lời. Đó phải chăng là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi vô định. Hình ảnh “thuyền về nước lại” dẫu là sự vận động trái chiều của cảnh vật hay là thuyền về nước thêm sầu vẫn là “sầu trăm ngả”, sự hoang mang. Hình ảnh cành củi của cuộc sống đời thường được tác giả ứng hiện trong một “Tràng giang” đậm chất Đường thi. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi sự cô đơn, hiu quạnh, vô định trào trực xô lên trong lòng người. Tràng giang giờ đây khi còn là cảnh dòng sông mùa nước lũ nữa mà thực sự là dòng đời ngầu đục. Con người đầy lạc lõng, ưu tư, băn khoăn trước cuộc đời - đó cũng là tâm trạng của lớp trí thức bấy giờ.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu


Nỗi buồn lan tỏa, mơ hồ hòa trong cái quạnh quẽ, hiu hắt của “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”. Từ nỗi niềm bơ vơ buồn bã đó, nhà thơ đi tìm hơi ấm của cuộc sống: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu đó” hay “đâu có”? Nhưng dù sao cũng đều rất xa xôi, mơ hồ. Tiếng chợ chiều góp vui mà lại càng tăng cảm giác tẻ nhạt, quạnh vắng, đìu hiu hơn. Muốn nghe âm thanh cuộc sống nhưng tất cả đều trở nên hoang vu, muốn chút gần gũi mà càng thêm cách chia. Vì thế sầu buồn càng thêm man mác...Không gian được đẩy cao và mở rộng đột ngột, trải ra đến vô cùng khi nhà thơ hạ hai câu tuyệt bút. Tác giả dùng chữ “sâu” chứ không phải chữ “cao”, bởi đó không chỉ là chiều kích không gian mà còn gợi lên nỗi buồn không đáy của lòng người. Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được. Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu


Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận. Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. Một loạt từ “không” xuất hiện liên tiếp đã phủ định tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vô cùng: hai bờ bên là những thế giới xa lạ. Chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà


Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim. Không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn. Thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng. Những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khi nào lung linh như những núi bạc. Một vẻ khoáng đạt hoành tráng, mĩ lệ. So sánh với câu thơ Lí Bạch “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu” và câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Huy Cận cũng có nhiều lúc như để tấm lòng ở nước non xưa, ở chốn vũ trụ thanh cao, song chính nỗi đau của ông nhói lên ở những cảnh đời hiện tại. Hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gợn ngợp trong lòng tác giả. Hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đó không chỉ là nhớ về một vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà


Tác giả đã dùng từ láy "dợn dợn" để diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi. Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận. Với nghệ thuật nghệ thuật đối, nhân hoá, ẩn dụ bài thơ đã thành công trong việc thể hiện nhiều tầng nghĩa của hình ảnh thơ. Việc sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm càng làm cho nỗii sầu nhân thế của Huy Cận càng thêm lan toả.

“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” và “Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu). Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hoà nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả. Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu quê hương đất nước.​

..........................................................
Sưu tầm và biên soạn
Thêm
Cảm nhận của anh/chị về bài thơ Tràng giang của Huy Cận
833
0
0
“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” và “Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu). Để hiểu hơn về bài thơ Tràng Giang, cùng Triều Anh tham khảo bài soạn sau:

25CDBB74-839C-4828-BDA3-DF634BF47E25.jpeg
Ảnh: Huy Cận (sưu tầm)

Xem thêm

Kiến thúc trọng tâm về bài thơ Tràng Giang
Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài trơ Tràng giang của Huy Cận

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Vài nét về tác giả Huy Cận

- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
- Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.
- Huy cận là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não.
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942), Trời mỗi ngày lại sáng (tập thơ, 1958), Đất nở hoa (tập thơ,1960), Hạt lại gieo (tập thơ, 1984),...

2. Xuất xứ

- Bài thơ được sáng tác vào một chiều cuối thu 1939 khi Huy Cận đứng trước dòng sông Hồng mênh mang sông nước.
- Tràng Giang trích trong tập Lửa Thiêng.
3. Bố cục
- Phần 1 (Ba khổ thơ đầu): Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.
- Phần 2 (Khổ thơ cuối): Tình yêu quê hương, đất nước thầm kín, sâu sắc.

4. Gợi ý trả lời câu hỏi hướng dẫn học bài, sgk trang 30

* Câu 1

Lời đề từ thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả.

- Bâng khuâng thể hiện nỗi niềm của nhà thơ: nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát.
- Cảnh: Trời rộng, sông dài → Không gian rộng lớn.
=> Lời đề từ đã định hướng cho cảm xúc chủ đạo của bài thơ: nỗi buồn trước không gian rộng lớn.

* Câu 2
Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa bâng khuâng vừa sâu lắng.

- Âm điệu đó được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.
- Nhịp thơ chủ yếu là nhịp 2/2/3 đan xen với nhịp 4/3 hoặc 2/5. Nhịp thơ đều, chậm, gợi nỗi buồn mênh mang.

* Câu 3
Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà gần gũi, quen thuộc, đậm chất Đường thi.

- Chất liệu tạo nên bức tranh đó là các hình ảnh ước lệ được sử dụng trong thơ ca trung đại: Tràng Giang, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, mây đùn núi bạc, bóng chiều, vời con nước, khói hoàng hôn,...
- Dòng sông dài mênh mông vắt ngang bầu trời cao rộng, bến vắng cô liêu, con thuyền lênh khênh xuôi ngược, cánh chim nhỏ chao nghiêng dưới hoàng hôn. → cảnh vật gần gũi, quen thuộc.
→ Bức tranh ấy được thể hiện cụ thể qua các khổ thơ, góp phần tô đậm màu sắc cổ điển.
* Câu 4
Tác giả đã gửi gắm nỗi buồn, nỗi sầu của một “cái tôi” Thơ Mới qua bức tranh thiên nhiên “Tràng Giang” rộng lớn và hoang vắng.

- Tác giả kín đáo bộc lộ tình yêu nước thầm kín đối với quê hương, đất nước.
- Tình yêu quê hương, đất nước được thể hiện trực tiếp qua hai câu thơ cuối bài thơ:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
- Lòng quê: tấm lòng, tình cảm với quê hương, đất nước.
- Từ láy “dợn dợn” diễn tả tình cảm của tác giả đang trào dâng theo con sóng.
→ Tình yêu quê hương lấy cảm hứng từ sông nước và trải dài theo từng con sóng.

* Câu 5
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:

- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại.
- Thể thơ thất ngôn cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo sự cân đối, hài hòa.
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Sử dụng nhiều từ láy có giá trị gợi hình gợi cảm.
- Sử dụng thành công nhiều biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...

5. Luyện tập, sgk trang 30

* Bài tập 1

- Cách cảm nhận không gian: không gian rộng lớn
- Tràng Giang đã khắc họa một không gian sông nước mênh mang.
- Không gian vận động: từ chiều dọc (sông dài) không gian mở ra chiều ngang (trời rộng), lan tỏa đôi bờ (bến cô liêu).
=>không gian vũ trụ mở ra bầu trời sâu chót vót.
- Thời gian: hiện tại - quá khứ - hiện tại => kín đáo bộc lộ nỗi niềm, nỗi sầu nhân thế.

* Bài tập 2
Hai câu thơ cuối gợi nhớ đến hai câu thơ cuối trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu.
Nhật mộ hương gian hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sống khói sóng cho buồn lòng ai?)

- Bởi vì:
+ Sự tương đồng giữa hình ảnh khói sóng và khói hoàng hôn
+ Sự tương đồng trong tình cảm, cảm xúc giữa hai nhà thơ: lòng yêu quê hương đất nước.​
..........................................................
CHÚC CÁC EM HỌC TỐT
Thêm
Soạn văn Tràng Giang
1K
0
1

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top