Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Cũng như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiều được rất nhiều người Việt Nam yêu thích. Tác phẩm đã đi vào đời sống nhân dân và các nhân vật của truyện đã được dân gian hoá. Lục Vân Tiên trở thành biểu tượng về một đấng nam nhi ngay thẳng tốt bụng, sẵn sàng cứu giúp người yếu thế. Bài viết Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương sẽ giúp các bạn hiểu hơn về tác phẩm và những giá trị nhân đạo của nó để biết được tại sao tác phẩm tới nay vẫn còn được nhắc tới với sự ca tụng như vậy.

Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương- Nguyễn Đình Chiểu.png

Dàn ý bài phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương​

I. Dàn ý Phân tích đoạn trích Lẽ Ghét Thương (Chuẩn)

1. Mở bài

- Vài nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và truyện Lục Vân Tiên: Một tác giả tiêu biểu của Nam Bộ với quan niệm nghệ thuật: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm tiêu biểu.
- Giới thiệu đoạn trích Lẽ ghét thương: Đoạn thơ được trích từ câu 473 đến câu 504 kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh về lẽ ghét thương.

2. Thân bài

a. Mối quan hệ giữa ghét và thương:
– Nhân vật ông Quán chính là người phát ngôn tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, mà ở trong đoạn trích này là tư tưởng yêu ghét phân minh.
– Ghét và thương có mối quan hệ chặt chẽ, là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất, thương cái tốt đẹp thì tất yếu phải ghét cái xấu xa, đó là mối quan hệ hai chiều không thể tách rời nhau.
– Cụ thể trong đoạn trích này, sự yêu thương thể hiện ở đối tượng thứ nhất là nhân dân lầm than khổ cực, thứ hai là những người tài cao đức trọng nhưng bị vùi dập. => Ghét những kẻ hại dân hại đời, đẩy con người vào tình cảnh oan trái, éo le, nghịch cảnh.
=> Mối quan hệ giữa ghét và thương gắn liền với lý tưởng yêu nước thương dân ở Nguyễn Đình Chiểu.
b. Lẽ ghét:
– Sử dụng điệp từ “ghét” lặp lại tận 4 lần để khắc sâu, nhấn mạnh cảm xúc ở thang bậc cao nhất.
– Đối tượng chung ở đây là “ghét việc tầm phào”, có nghĩa là những việc xằng bậy, hoang đường có hại cho nhân dân.
– Cụ thể:
+ Ghét vua Kiệt của nhà Hạ, vua Trụ của nhà Thương, U Vương, Lệ Vương vốn là những kẻ đa dâm háo sắc, sống phóng túng, xa hoa lãng phí, bạo ngược vô đạo.
+ Ghét đời “Ngũ bá” vì quyền lực, dựa vào sức mạnh quân sự mà thay nhau lên làm chủ bằng chiến tranh, gây ra nhiều nhiễu loạn, khiến đời sống nhân dân bị đảo lộn.
+ Ghét “đời thúc quý phân bằng”, ý chỉ cảnh suy tàn, diệt vong của đất nước, dẫn đến viễn cảnh loạn lạc, cuộc sống nhân dân rơi vào cảnh hoang mang, khốn khổ vô cùng.
=> Tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tấm lòng nhân nghĩa mong cảnh bình yên, là nỗi xót xa cho khốn cảnh của nhân dân dưới sự cai trị thối nát, bạo ngược của những kẻ cầm quyền tàn ác, hoang đường.
c. Lẽ thương:
– Giọng điệu của ông Quán trở nên nhẹ nhàng, có phần thương cảm tiếc nuối cho những đức thánh nhân mà ông cho là đáng được thương, được yêu.
– Thương “đức thánh nhân” Khổng Tử không thỏa chí truyền đạo, thương “thầy Nhan Tử”, dù học hành giỏi giang nhưng lại yểu mệnh chết sớm.
– Thương Gia Cát Lượng, vị quân sư tài ba, thế nhưng lại không gặp thời, thương cả “Đổng Tử”, “Nguyên Lượng” đều là những người có tài năng, mong muốn được đứng ra giúp nước thế nhưng trái nỗi không được vua trọng dụng.
– Thương “Hàn Dũ”, “Liêm, Lạc” vốn dĩ có lòng can gián, nguyên ngăn vua làm điều thất đức, cuối cùng lại bị bạo quân bác bỏ.
=> Thương những con người tài năng đức độ, thế nhưng không gặp thời, hoặc bị kẻ gian hãm hại, vua bạc nhược không trọng dụng, dẫn tới tài năng bị phôi pha, thương là thương cái tài năng ngời ngời mà phải chịu uổng phí, phôi pha.

d. Nét đặc sắc trong nghệ thuật.​

- Điệp từ được sử dụng với tần suất lớn
- Đối từ: ghét >< thương, thương ghét >< ghét thương, lại ghét >< lại thương.
- Giàu chất tự thuật
- Đặc biệt sử dụng nhiều điển tích, điển cố ⇒ nói được nhiều hơn trong sự giới hạn của ngôn từ thơ

3. Kết bài

- Tổng kết lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Bài học bản thân về lẽ ghét thương rút ra từ đoạn trích

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương​

Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.

Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ông Quán đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương ở đời.

Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:

Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương


Ông Quán vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán chính là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.

Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và không tách rời nhau.

Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.

Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ông Quán ghét chính là chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ. Có thể thấy mỗi cái ông ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ông ghét gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.

Còn điều ông thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ông Quán đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn. Những cái tên ông nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lòng ôm trùm thiên hạ, cả một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên, vất vả. Ông thương là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:

Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.


Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ pháp đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần có tác dụng trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.

Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu.

Xem thêm bài viết: Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết nhất
Thêm
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương
  • Like
Reactions: QuangNhat
591
1
2

Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết nhất sẽ giúp bạn tìm hiểu những thông tin đầy đủ nhất, những ý cần nắm trước cho bài học trên lớp.

Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết nhất.png

Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết​

I. Tác giả​

- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi (1843), nhưng 6 năm sau (1849) ông bị mù.
- Sau đó, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân.
- Trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia phong trào kháng chiến cùng các vị lãnh tụ như bàn bạc việc đánh giặc hay sáng tác văn học để khích lệ tinh thần nhân dân. - Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi Nam Kỳ bị giặc chiếm, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre).
- Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu truyền bá đạo lý làm người và cổ vũ tinh thần yêu nước.
- Một số tác phẩm nổi tiếng: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định…

II. Tác phẩm​

1. Hoàn cảnh sáng tác​

- “Truyện Lục Vân Tiên” được sáng tác vào khoảng đầu những năm năm mươi của thế kỉ XIX.
- Truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở Nam Kì và Nam Trung Kì.

2. Thể loại​

- Truyện thơ Nôm
- Có nhiều văn bản khác nhau, nhưng văn bản thường dùng hiện nay có 2082 câu thơ.

3. Vị trí đoạn trích​

- Đoạn trích “Lẽ ghét thương” từ câu 473 đến câu 504 của “Truyện Lục Vân Tiên”.
- Nội dung: Đoạn trích kể lại cuộc đối thoại của ông Quán với bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng nhau uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

4. Bố cục đoạn trích​

Gồm 3 phần:
Phần 1: Từ đầu đến “Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”. Cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên.
Phần 2. Tiếp theo đến “Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân”. Ông Quán bàn luận về “ghét”.
Phần 3. Còn lại. Ông Quán bàn luận về “thương”.

III. Đọc - hiểu văn bản​

1. Cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên​

- Ông Quán: am tường kinh sử, yêu ghét phân minh và quặn lòng với những kẻ làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.
- “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân.
- Lục Vân Tiên: “Trong đục chưa tường/Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào”: Mong muốn hiểu rõ hơn về lẽ ghét thương.

2. Ông Quán bàn luận về “ghét”​

- Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn:
Đời Kiệt, Trụ mê dâm khiến dân sa hầm sẩy hang
Đời U, Lệ đa đoan khiến dân lầm than
Đời Ngũ bá phân vân khiến dân nhọc nhằn
Đời thúc quý phân băng làm rối dân.
=> Bộc lộ lòng căm ghét những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.

3. Ông Quán bàn luận về “thương”​

- Khi bàn về lẽ thương, ông hướng về những con người cụ thể:
Khổng Tử: lận đận.
Gia Cát: tài đức mà mệnh yểu.
Nhan Tử: mưu lược tài ba nhưng không gặp thời.
Đồng Tử: tài cao học rộng nhưng không được tin dùng.
Nguyên Lượng: thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn.
Hàn Dũ: ngay thẳng mà mang họa.
Liêm, Trạc: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học.
=> Họ là những người có tài năng, chí hướng giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt được sở nguyện.
- Tấm lòng của nhà thơ: “Xem qua kinh mấy lần thi cử/Nửa phần lại ghét nửa phần thương”.


Trả lời câu hỏi trong SGK​

Câu 1. Anh (chị) hãy đọc các chú thích, tìm điểm chung giữa các đời vua mà ông Quán ghét và những con người mà ông Quán thương. Từ đó hãy nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu?​

- Điểm chung giữa các đời vua mà ông Quán ghét: dâm ác, tàn bạo, ăn chơi trác táng mà không chăm lo đến đời sống nhân dân.
- Điểm chung những con người mà ông Quán thương: tài năng, đức độ, có chí muốn hành đạo giúp đời.
- Cơ sở của lẽ ghét thương: xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân, mong nhân dân có cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Câu 2. Anh (chị) có nhận xét gì về cách dùng phép đối và phép điệp ở cặp từ ghét, thương trong đoạn thơ này? Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ?​

- Cách dùng phép điệp và phép đối:
  • Phép điệp: 12 từ “ghét” và 12 từ “thương”.
  • Phép đối: “ghét - thương”: ghét ghét - thương thương; hay ghét - hay thương; thương ghét - ghét thương; lại ghét - lại thương”.
- Giá trị nghệ thuật: Nhấn mạnh vào cội nguồn của lẽ ghét - thương, vì căm ghét thế lực bạo tàn nên mới thương nhân dân. Đối với tác giả đó là hai cảm xúc đối lập, phân minh.

Câu 3. Dựa vào cảm xúc của tác giả, hãy giải thích câu thơ ở phần đầu đoạn trích: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.​

Sự phân minh trong cảm xúc của tác giả. Càng yêu thương nhân dân, những người có tài năng đạo đức lại càng căm ghét những kẻ quyền thế mà tàn bạo, ngang ngược.

Luyện tập​

Theo anh (chị), câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn? Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.​

Gợi ý:
Khi đọc Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chắc hắn người đọc sẽ ấn tượng với câu thơ kết thúc:
“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”
Đây là câu có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn trích. Chỉ với tám chữ, nhưng tác giả đã lí giải rõ ràng căn nguyên của hai thái độ “ghét - thương”. Lòng thương, cũng xuất phát từ sự ghét. Có căm ghét những kẻ cầm quyền tàn bạo, độc ác đã thì mới thấy yêu thương nhân dân.

Xem các bài viết liên quan tới bài Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết nhất tại mục: Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
Thêm
Soạn bài Lẽ ghét thương chi tiết nhất
477
0
1
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, và có thể thấy rằng ở Đình Chiểu không chỉ thành công với văn tế mà ông dường như lại còn còn thành công với thể loại truyện thơ. Thật dễ có thể nhận thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với “Lục Vân Tiên” đặc biệt hơn là trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” như cũng đã thể hiện được những lẽ ghét thương thật đáng ngưỡng mộ ở ông lão quán trọ.

5981


Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu

Bố cục
- Phần 1 (6 câu đầu): cuộc đối thoại của ông Quán và Vân Tiên
- Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán về lẽ ghét
- Phần 3 (14 câu tiếp): lời ông Quán bàn về lẽ thương
- Phần 4 (2 câu cuối): tư tưởng và tấm lòng của tác giả

Câu 1 (Trang 48 sgk ngữ văn 11 tập 1)

- Những điều ông Quán ghét (10 câu):
+ Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương, Ngũ Bá…
+ Điểm chung của vua chúa được nhắc tới: ăn chơi, hoang dâm vô độ, ham quyền lợi, tranh đoạt quyền lợi
+ Căn nguyên của sự ghét do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm dân lầm than, khốn khổ

- Lẽ thương của ông Quán (14 câu):
+ Nói tới những bậc hiền tài phải chịu lận đận, không được ước nguyện giúp đời: Khổng Tử, Nhan Uyên, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ
+ Những trí thức nho sĩ có tài, có đức, ngay thẳng nhưng không gặp thời
+ Tác giả tìm thấy bóng dáng mình trong ước mơ lập thân giúp đời

Câu 2 (trang 48 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Đoạn trích thành công khi sử dụng cặp từ ghét- thương
+ Cặp từ này được lặp lại 12 lần, sắp sóng đôi, đăng đối linh hoạt
+ Phép lặp cũng được vận dụng linh hoạt từ hai từ ghét- thương đã giúp biểu hiện nổi bật phân minh tình cảm của tác giả
+ Thương và ghét rành rọt, không mập mờ, không nhạt nhòa, chung chung
+ Việc lặp lại hai từ này làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương, căm ghét đạt đến tột cùng, đều nồng nhiệt

Câu 3 (trang 42 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít trong tâm hồn nhà thơ
+ Tác giả xót xa trước cảnh lầm than, khổ cực của nhân dân và những con người tài hoa bị vùi dập
+ Căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào cảnh ngộ éo le
+ Tình cảm yêu- ghét đan xen, nối tiếp nhau, hòa nhập vào cuộc đời, với nhân dân: đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm của tác giả

⇒ Đoạn thơ mang tính triết lý đạo đức mà không khô khan, cứng nhắc, ngược lại rất trữ tình, dạt dào cảm xúc.

Cảm xúc đó xuất phát từ cảm xúc sâu sắc và nồng đượm từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thơ, từ trái tim nặng trĩu tình đời, tình người tha thiết

Luyện tập
Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn:
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

+ Yêu thương và căm ghét có mối quan hệ khăng khít như hai mặt của một vấn đề.
+ Càng xót thương cảnh người dân lầm than, người tài bị vùi dập thì tác giả càng căm ghét những kẻ hại dân bán nước.
+ Sự yêu ghét rạch ròi, phân minh trong trái tim của tác gi
+ Phía sau lẽ ghét thương đó chính là tình thương dân, thương đời sâu sắc, bao la

Xem thêm tại: https://forum.vanhoctre.com/forums/le-ghet-thuong-nguyen-dinh-chieu.300/
Thêm
Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
643
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top