Cảm nhận vẻ đẹp con người Việt Nam qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân

Cảm nhận vẻ đẹp con người Việt Nam qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân

Truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo Văn nghệ năm 1948. Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước, vẻ đẹp con người Việt Nam trong thời kháng chiến chống Pháp.
Cùng vui học văn cảm nhận
vẻ đẹp con người Việt Nam qua truyện ngắn "Làng" của Kim Lân nhé!

6347


Cảm nhận vẻ đẹp con người Việt Nam qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân

Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Xoay quanh tình yêu làng, yêu nước, lập trường kháng chiến của nhân vật ông Hai, tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước.

Ông Hai là người làng chợ Dầu, một cái làng mà với ông là tất cả tâm hồn và tình yêu xứ ở. Ông Hai yêu làng, tự hào về làng mình giàu đẹp. Ông say mê kể về làng, khoe làng một cách say mê, náo nức lạ thường. Yêu làng, ông Hai tự hào về những thành tích trong khánh chiến của làng, tự hào về tinh thần chiến đấu dũng cảm của làng ông trong chiến tranh.

Thực hiện lệnh của Ủy ban kháng chiến, ông Hai miễn cưỡng đến nơi tản cư. Khi xa làng đi tản cư, ông băn khoăn, ray rứt, tiếc nuối về những ngày tham gia chiến đấu cùng anh em đồng chí ở lại làng. Nhớ làng da diết, ông muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến. Ông mong nắng cho Tây chết. Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin hay, những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên. Ông Hai quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc kháng chiến ở quê nhà. Ông yêu thương, gắn bó với làng quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng chiến của làng. Điều đó chứng tỏ ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến.

Khi nghe tin xấu ông Hai sững sờ, xấu hổ, uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Khi trấn tĩnh lại được phần nào,ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ, tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông,cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.

Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”. Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Đi thì không biết đi đâu còn ở thì chẳng ở được. Trong lúc suy nghĩ, ông nghĩ đến chuyện về làng như một thói quen. Người Việt Nam có truyền thống quy hướng về quê cha đất tổ, dẫu đi đâu, làm đâu, cuối cùng người ta vẫn muốn trở về nơi đã sinh ra mình. Ông hai cũng thế. Khát vọng trở về thôi thúc ông nhưng giờ làng thao Tây rồi, về làng là theo tây, là phản bội kháng chiến, là Việt gian sao ông chịu được.

Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn: hoặc là làng hoặc là kháng chiến. Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng.

Để ông Hai vợi bớt nỗi đau đớn, dằn vặt trong lòng và yên tâm về quyết định của mình, tác giả đã cho nhân vật trò chuyện với đứa con út, giúp ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu, bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ. Đó là một cuộc trò chuyện đầy xúc động. Nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương theo giặc cứ chồng chéo đan xen trong lòng ông lão. Nhưng trong ông vẫn cháy lên một niềm tin tưởng sắt đá, tin tưởng vào Cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở: hãy luôn “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước thật sâu nặng và thiêng liêng. Tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc kháng chiến của ông Hai trước sau vẫn vẹn toàn, không hề thay đổi.

Đúng lúc ông Hai có được quyết định khó khăn ấy thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Sự đau khổ của ông Hai trong những ngày qua nhiều bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc của ông lúc này càng lớn bấy nhiêu. Ông “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. Nội dung lời “khoe” của ông có vẻ vô lí bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lí ấy lại rất dễ hiểu: Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông đang được đón nhận.

Có thể thấy, ở nhân vật Ông Hai, Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng quê hòa quyện, gắn chặt với tình yêu đất nước, thống nhất với tình cảm kháng chiến trong tâm hồn ông Hai. Ông Hai là một điển hình cho những người nông dân sống mộc mạc, chân chất nhưng tâm hồn chứa đựng biết bao tình cảm đáng trân trọng: yêu làng quê, yêu đất nước, ủng hộ công cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tình cảm gắn bó với làng quê bộc lộ và trỗi dậy trong hoàn cảnh chiến tranh thật đặc biệt . Và họ luôn đặt quyền lợi của gia đình, tình yêu làng dưới tình yêu đất nước và quan trọng hơn bao giờ hết đối với họ là góp phần cho cuộc kháng chiến của dân tộc mau chóng đi đến thắng lợi. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tóm lại, hình ảnh con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thật đẹp đẽ. Dù trong hoàn cảnh đen tối như thế nào, họ vẫn vươn lên, vẫn hướng về Tổ quốc thân yêu với một tình yêu thiêng liêng, cao cả… Kim Lân đã tỏ ra già dặn khi đặt ra tình huống thử thách đày kịch tính để làm lộ rõ tình cảm chân thực, tình cảm quý giá nhất của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống pháp cứu nước.

Xem thêm: https://forum.vanhoctre.com/forums/lang-kim-lan.1153/
 
Từ khóa Từ khóa
kim lân làng trach nhiem vẻ đẹp con người yeu nuoc
838
0
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.