Nhà văn Hemingway có nói: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ”. Anh/ chị hãy phân tích hình tượng con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân qua hai lần miêu tả sau để làm rõ nhận định của Hemingway:- “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này […]. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”- “Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”.
BÀI LÀM
Trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của Hemingway, sau khi thuật lại cuộc chiến đấu giữa ông lão Santiago với con cá kiếm ngoài đại dương mênh mông, Hemingway có đúc kết một chân lí: “Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đánh bại”. Điều này có giá trị vượt thời gian, vượt không gian, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn giúp con người mạnh mẽ đương đầu với thử thách. Từ câu nói của Hemingway, ta liên tưởng ngay đến hình ảnh ông lái đò trong cuộc chiến đấu với sóng thác Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, khát khao xê dịch khắp mọi miền. Trong bài tùy bút, Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả hình ảnh con sông lúc thì dàn bày thạch trận sẵn sàng nuốt chửng ông lái đò, lúc thì êm dịu mềm mại hẳn đi. Không hẹn mà gặp, phải chăng Nguyễn Tuân cũng cùng chung một quan niệm với Hemingway khi tái hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ”.
Từ thuở Trái Đất được hình thành cho đến ngày hôm nay, con người và thiên nhiên cùng hòa hợp với nhau tạo nên bức tranh muôn màu, sinh động và tràn đầy sức sống. Thiên nhiên che chắn, bảo vệ cho con người. Con người sống sảng khoái giữa thiên nhiên, tận hưởng những mát lành ngọt ngào mà thiên nhiên đã mang lại. Con người cũng ra sức giữ gìn môi trường thiên nhiên, giữ lấy cái màu xanh, giữ lấy từng cảnh quan tuyệt vời trên khắp địa cầu thăm thẳm. Song, đôi khi thiên nhiên ương bướng với sức mạnh vô biên đã chống đối lại con người, khiến cho con người gặp không ít phiền toái. Con Sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân là một minh chứng! Dòng sông này bao đời nay thách thức con người, sẵn sàng nhấn chìm con người xuống lòng sông, hủy hoại sự sống con người. Trước mắt, Sông Đà là “kẻ thù” của con người. Nhưng ở một khía cạnh khác, Sông Đà là “bạn”, là “đối thủ’. Sông Đà là bạn đồng hành cùng người lao động Tây Bắc trên hành trình sông nước. Sông Đà chia sẻ những vui buồn đời người lái đò, khiến người ta cảm thấy nhớ thương khi xa sông và vui mừng khi được quay về tái ngộ. Sông Đà là đối thủ vì đã bao lần sông thách thức con người, buộc con người phải tranh đấu để dành lấy sự sống. Từ trong môi trường đó, con người đã lớn lên, đã chói ngời cái “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn khi chiến đấu và lao động trên miền núi sông hùng vĩ mà thơ mộng này.
Nếu ví “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một “tảng băng trôi” thì “ba phần nổi” chính là hình ảnh con Sông Đà trong dáng vẻ của một “kẻ thù” hung tợn sẵn sàng nuốt chửng người lái đò trên sông, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai đi ngang qua những quãng sông đầy cạm bẫy. Ở “bảy phần chìm”, Nguyễn Tuân ngầm thể hiện sự hung bạo của con sông như một “thứ lửa” thử thách lòng người, thách thức ý chí và sự thông minh của con người. Sông Đà sẽ không gây hại nếu con người đủ bản lĩnh, tự tin, đủ sức mạnh vượt qua ghềnh thác, qua xoáy nước. Đồng thời, nhà văn cũng ca ngợi sự hùng vĩ của non sông đất Việt, hồn thiêng núi sông Tây Bắc nghìn trùng. Đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung tái hiện sự hung hãn, dữ dội của Sông Đà. Thấp thoáng đằng sau là bóng dáng của người lái đò, con sông trở thành “đối thủ” hách dịch, ngang tàn trong cuộc chiến đấu sinh tử.
Hành trình vượt xuôi Sông Đà bắt đầu từ phía trên thượng nguồn có quãng đá bờ sông dựng vách thành, có quãng mặt ghềnh Hát Lóng cuồn cuộn sóng gió, vượt qua những cái “hút nước” ghê rợn. Dòng nước đưa chiếc thuyền “đuôi én sáu bơi chèo” của người lái đò tới cái thác mà thanh âm tiếng thác nước dự báo những điềm không hề lành lặn. Nguyễn Tuân viết: “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cái thác không phải là nỗi ám ảnh to lớn của những người qua sông, song tiếng thác rầm rộ lẫn “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” không thể không khiến người lái đò rùng mình e ngại. Bọt sóng trắng che khuất màu xám xịt của đá, khiến quãng sông hiện lên hùng vĩ vô biên – biểu tượng cho uy lực của thiên nhiên Sông Đà. Thế nhưng, sóng đối với người lái đò trên sông chẳng đáng sợ là gì so với đá. Dường như đá ngầm trên sông “dàn bày thạch trận”, tạo thành những cửa sinh, cửa tử mới là thách thức lớn đối với người lái đò: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. “Đường ngoặt sông” cong cong là cánh cửa dẫn dụ người lái đò vào quãng sông nhiều đá ngầm, khúc ngoặt áng cả tầm nhìn của người lái đò mà giả sử như không chuẩn bị trước tâm thế chiến đấu, chắc có lẽ người lái đò sẽ bị đánh tan xác ở những chặng ban đầu. Nguyễn Tuân khéo léo nhắc lại sức mạnh và sự dữ dội của đá trên Sông Đà: “từ ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông”. Phải chăng, từ khi nào Sông Đà xuất hiện ở núi rừng Tây Bắc, thì từ lúc đó đá “mai phục” sẵn chờ đợi người lái đò để thực hiện một “cú vố” bất ngờ. Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ mang tính võ thuật cao, khiến hòn đá vô tri cũng trở nên sinh động, có “tâm địa độc ác của thứ kẻ thù số một”. Cách nhân hóa: “một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy chiếc thuyền” khi chiếc thuyền tiến vào “thạch trận Sông Đà” khiến câu chuyển động mạnh mẽ, giúp người đọc hình dung ra sự đáng sợ của quãng sông này cùng với nỗi lo ngại cho sinh mệnh của người lái đò trên sông. Ta tự hỏi đá hay là một thứ quỷ quái nào trên Sông Đà mà cũng có mặt, có mũi, có tâm địa độc ác: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Hàng loạt tính từ chỉ người: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” được Nguyễn Tuân sử dụng để miêu tả hình thù hòn đá khiến đá trở nên hống hách hơn, như “hất hàm” đòi một cuộc tuyên chiến mà một bên là thiên nhiên với sức mạnh oai hùm, một bên là con người nhỏ nhoi trên “chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo” vượt qua cửa tử tiến vào cửa sinh. Nhà văn khép lại bằng câu văn: “Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”. “Thạch trận trên sông” đã được dàn sẵn chờ đợi và thử thách ông lái đò. Tuy nhiên, với bản lĩnh, sự thông minh am hiểu cái quy luật phục kích của lũ đá nơi này kết hợp với tay lái “ra hoa”, ông lái đò đã chiến thắng ngoạn mục “đối thủ” hung hãn của mình.
Một góc nhìn khác, Sông Đà chính là “bạn” của Nguyễn Tuân. Người bạn này khoát lên mình vẻ đẹp tuyệt mĩ đặc trưng cho xứ sở Tây Bắc trù phú. Người bạn song hành cùng Nguyễn Tuân trong chuyến thực tế gian khổ mà hào hứng tìm đến miền núi non Tây Bắc điệp trùng. Trong đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Tuân có cái nhìn thật độc đáo và khác biệt, gây bất ngờ về con Sông Đà: nhìn con sông như một “cố nhân” – một người bạn cũ lâu ngày không gặp, để rồi thương, rồi nhớ, rồi mong, rồi háo hức khi được tái ngộ với Sông Đà sau khi ra khỏi rừng già.
Mở đầu đoạn văn, Nguyễn Tuân viết: “Con Sông Đà gợi cảm”. Nhà văn đã vẽ nên một nét hoàn toàn mới về Sông Đà, con sông vắt ngang núi rừng, linh hồn của đất và người Tây Bắc. “Gợi cảm”, tính từ vốn để chỉ sự quyến rũ dịu dàng của người con gái bấy giờ được Nguyễn Tuân đem vào gán ghép với con sông để ca ngợi vẻ đẹp hữu tình, thi vị của dòng sông này khiến bao văn sĩ phải tốn giấy mực để tôn sùng, để say đắm. Qủa thật, “Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách”. Người nhìn Sông Đà gay gắt, dữ dội, hung bạo; kẻ lại nhìn Sông Đà duyên dáng, mềm mại, ngọt ngào. Và Sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đã hiện lên qua hai nét, hoàn thiện hoàn mĩ. Hóa ra, “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Nếu trước đó Nguyễn Tuân nhìn con sông này từ trên tàu bay xuống, ngắm Sông Đà theo thời gian để nhận ra cái màu nước trên sông thay đổi theo mùa thì đến đây, Sông Đà trở thành “cố nhân” trong mắt Nguyễn Tuân, một sự ví von tuyệt vời và thấm đượm nghĩa tình. Nguyễn Tuân hồi tưởng về chuyến thực tế ở rừng của mình: “Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rừng Tây Bắc ngột ngạt, dữ dội, cái “uy” của rừng khiến Nguyễn Tuân ngột ngạt và thèm thuồng “chỗ thoáng”, thèm sông. Vậy là Nguyễn Tuân đã mải mê đi theo anh liên lạc, không xác định được phương hướng, không có ý niệm “mình sắp đổ ra Sông Đà”. Và rồi cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Tuân với “cố nhân” đã diễn ra, không bịn rịn xúc động như bao cuộc gặp gỡ khác, nhưng thật thú vị và vui tươi biết chừng nào. Sông Đà gây ấn tượng trong mắt Nguyễn Tuân khi ông dòng sông “phát tín hiệu” với người bạn của mình bằng ánh sáng “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. “Xuống một cái dốc núi”, Một sự so sánh tài hoa, Nguyễn Tuân đã đưa những trò chơi tinh nghịch của trẻ nhỏ vào không gian yên ắng, vắng vẻ và hoang dã của núi rừng. Và khi “nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân bỗng nhớ lại câu thơ của Lí Bạch năm xưa tiễn người bạn thân là Mạnh Hạo Nhiên lên đường đi Quảng Lăng tại Lầu Hoàng Hạc trong mùa hoa khói: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Thật đẹp, thật mềm mại, nhà văn đã biến con sông của tâm hồn mình trở nên thi vị hơn rất nhiều. Hình ảnh bờ bãi Sông Đà sau lần xa cách hiện ra trước mắt Nguyễn Tuân: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” thật yên bình, lặng lẽ và thi vị. Có lẽ vì đẹp và tình nghĩa như thế nên ta hiểu rằng vì sao Sông Đà lại chiếm trọn tâm hồn Nguyễn Tuân, sống trong lòng ông để rồi ông phát huy hết thế mạnh ngôn từ của mình và thể hiện, mà vẽ vời như thế.
Rõ ràng, hai đoạn văn trên tiêu biểu cho hai diện mạo Sông Đà, một là “bạn”, một là “đối thủ”. Hai cá tính trái ngược nhau nhưng cùng hòa vào làm thành một chỉnh thể Sông Đà trong mắt người nghệ sĩ. Sông Đà – một vẻ đẹp tuyệt mĩ của núi rừng Tây Bắc, hình tượng thiên nhiên trở nên lung linh, sống động trên trang văn của Nguyễn Tuân. Chính con sông này đã góp phần phát triển kinh tế, đời sống của đồng bào Tây Bắc trong những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xây hội, cải thiện cuộc sống, đổi mới Tổ quốc. Quan niệm của Hemingway quả thật trùng khít và phù hợp khi soi chiếu hai tính cách của “nhân vật” Sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân.
“Đà giang độc Bắc lưu”, có lẽ vì “độc Bắc lưu” nên dòng sông này cũng trở nên “lắm chứng lắm bệnh”, khó lòng mà hiểu hết được. Sông Đà tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên đất trời Tây Bắc, non xanh nước biếc Việt Nam. Và người lái đò của Nguyễn Tuân tuy nhỏ bé, nhưng tầm vóc lại vô cùng lớn lao. Con người là chủ nhân xây dựng đất nước, con người nhất định sẽ chiến thắng thiên nhiên nếu có ý chí, quyết tâm vững vàng. “Người lái đò Sông Đà” vẫn chiếm trọn tình cảm của bao người. Những dòng văn ấy thực sự không hề khó đọc nếu ta cũng yêu Sông Đà say đắm như Nguyễn Tuân, như người Tây Bắc.
Bài viết mình sưu tầm của bạn Hoàng Khánh Duy vì bài viết này rất hay mong muốn chia sẻ cho các bạn 2005 nhé!
- Từ khóa
- nhà văn nguyễn tuân sông đà văn12