Giá trị nhân đạo trong "Vợ nhặt"

Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ nhặt" - Kim Lân chi tiết và áp dụng lí luận văn học khoa học. Làm tài liệu tham khảo ôn thi THPT Quốc gia chuẩn xác cho học sinh

Văn học Việt Nam sau năm 1945 không chỉ giàu tính chiến đấu mà còn giàu tính nhân đạo. Hai tính chất này không tách rời nhau, bởi vì cuộc chiến đấu của dân tộc hơn ba mươi năm nhằm mục đích khẳng định con người, giải phóng con người, và mặt khác, muốn bảo vệ con người, yêu thương con người, người ta phải dấn thân vào chiến đấu. “Vợ nhặt” của Kim Lân được hoàn thành vào thời gian sau 1955, trên cơ sở một bản thảo cũ viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Khoảng cách mười năm đã giúp ông thể nghiệm sâu sắc tư tưởng của tác phẩm, làm cho nó trở thành một tác phẩm mang những giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc và phong phú.

Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn đói tràn tới. Anh cu Tràng, một người vô tư, vui tính, được trẻ con yêu mến thế mà nay “đi từnng bước mệt mỏi ... cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”. Cái lều chợ đầy những người đói bồng bế, dắt díu nhau “xanh xám như những bóng ma”, sáng nào cũng thấy ba bốn cái xác người chết đói nằm ngồn ngang... Nạn đói tràn đến đang gieo rắc chết chóc và xóa mất sinh khí của xóm làng. Hình như không ai tin là mình có thể sống qua nạn đói, và người đói, qua biểu hiện của cô gái mà Tràng gặp ở cửa kho trên tỉnh, cái đói làm mất dần nhân cách của cô: ăn nói chua ngoa, chỏng lỏn, liều lĩnh. Giữa lúc ấy thì Tràng nhận người đàn bà kia làm vợ và đưa cô về làng. Người ta thường nói nạn đói làm con người ta mất giá, một cô gái phải theo không một người đàn ông không quen biết chỉ vì bốn bát bánh đúc. Nhưng đó chỉ là cái nhìn bên ngoài, không phải là cái nhìn của nhà văn. Với tấm lòng rất mực nhân hậu, nhà văn nhìn thấy khát vọng được sống còn bức thiết của cô gái. Ông cũng thấy được niềm khát vọng có được vợ, có được hạnh phúc của anh cu Tràng.

Lòng yêu thương, trân trọng của tác giả đối với những người bất hạnh thể hiện ở cuộc dìu dắt về làng của hai người. Nhà văn không hề có chút rẻ rúng nào khi miêu tả cuộc về làng của họ. Trái lại ngòi bút tươi vui, dí dỏm, tinh tế đã khắc họa mọi cảm nhận hạnh phúc của Tràng. Hơn hai mươi lần truyện ngắn nhắc đến nụ cười của Tràng: khi thì phởn phơ, khi thì tủm tỉm, khi thì bật cười. Đi bên cạnh cô gái gầy gò và rách như tổ đỉa nhưng Tràng không hề gợn trong tình cảm mình một chút coi thường, anh không hề lên mặt do trong túi mình đang “rích bố cu”. Trái lại, nhờ cô gái mà anh “quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói ghê gớm đang đe dọa...” Đó là gì, nếu không phải do anh đã thấy ở cô gái một nguồn ấm áp, tươi sáng tỏa rạng đời mình? Về phía cô gái, cô cũng không hề có chút mặc cảm về thân phận “bị nhặt”. Trên đường đi về khi thì cô giễu anh: “Bé lắm đấy!”, khi thì cô mắng anh “khỉ gió”, rồi “phát đánh đét” vào lưng anh và “khoặm mặt lại” với anh. Cô vẫn cảm thấy mình có đầy đủ sức mạnh như bất cứ cô gái bình thường nào! Họ thực sự hướng về nhau, thích thú nhau như mọi đôi tình nhân khi bắt đầu làm thân nhau.

Điều thú vị là tác giả đã để cho hai người dắt díu nhau diễu qua trước mắt dân làng. Rõ ràng sự kết hợp của họ đã đem lại sinh khí cho cái làng đầy tử khí. Trẻ con thì gào lên: “Chông vợ hài”, người hàng xóm thì “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.” Họ không hiểu nổi, họ thở dài, họ nín lặng, bởi vì họ đang tuyệt vọng. Sự kết hợp liều lĩnh của Tràng và cô gái là một thách thức quyết liệt của khát vọng sống còn và hạnh phúc trước mọi ý thức tuyệt vọng và tê liệt vì nạn đói, và không phải không có tác dụng làm cho tâm hồn họ rạng rỡ hơn. Viết đoạn về làng này, nhà văn hoàn toàn đứng về phía khẳng định sự sống và ý chí sống còn của con người, trân trọng và yêu mến hành động liều lĩnh của họ.

Nhưng tư tưởng nhân đạo của tác phẩm không chỉ có thế. Qua cuộc gặp gỡ với người mẹ và qua một đêm thành vợ chồng, nhà văn khẳng định tình yêu cuộc sống sẽ thắng được chết chóc, cuộc sống sẽ thay đổi.

Bà mẹ trước nạn đói cũng thất vọng và hoài nghi như mọi người: “biết có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, bà cũng thở dài. Nhưng là mẹ, bà thấy cái sự “nhặt vợ” này cũng là may, nên bà “mừng lòng”, bà nuôi hy vọng cho đôi trẻ. Bà mẹ nhìn người con dâu “lòng đầy thương xót”, không chút coi thường. Bà nghĩ đến việc phải có “dăm ba mâm cho phải lẽ”!, chứng tỏ trong lòng bà không vướng ý nghĩ “nhặt không người đàn bà” cho con mình. Đó là tình cảm nhân đạo có tác dụng nâng cao phẩm giá cho con người. Có thể nói nhà văn Kim Lân chọn tình huống “nhặt vợ”, một tình huống con người bị đánh mất phẩm giá trong mắt mọi người ngoài cuộc để nâng niu, khẳng định phẩm giá của họ, những người trong cuộc.

Sau một đêm thành vợ chồng tại ngôi nhà ná, sáng hôm sau, vẫn trong cơn đói khát, nhưng một không khí đầy sinh khí đã đến với mọi người. Ngôi nhà sạch sẽ, gọn gàng, ang nước đầy ăm ắp... người vợ trở nên hiền hậu, đúng mực, còn Tràng thì “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng ... Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Một niềm tin vào tương lai gieo vào lòng mọi người: “Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế”. Nhưng bữa ăn cháo, rau, và nhất là nồi chè cám đắng ngắt nhắc họ trở về với thực tại. Chỉ với lòng thương yêu, hy vọng suông không thể cứu họ qua khỏi nạn đói. Muốn sống họ còn phải hành động. Những tin đồn mơ hồ về Việt Minh phá kho thóc Nhật, chia cho dân nghèo, những hình ảnh về đoàn người đi trên đê Sộp lại gieo vào lòng họ những hy vọng mới, gợi ý những hành động mới. Những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để giành lại sự sống cho mình, trong cách mạng. Nhà văn không dễ dãi trong việc miêu tả gia đình anh Tràng tham gia cách mạng. Nhưng logic cuộc sống sẽ cho thấy họ sẽ không có con đường nào khác.

Tóm lại “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn chứa chan tư tưởng nhân đạo. Chọn tình huống “nhặt vợ” do nạn đói khủng khiếp gây nên, nhà văn không nhằm miêu tả sự mất giá, sa đọa của con người, trái lại, khẳng định khát vọng sống còn và phẩm giá của họ. Nhà văn đã miêu tả tình yêu sự sống của những con người bên bờ vực cái chết như một nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi tới, cứu lấy đời mình. Tác phẩm đã cho thấy mối liên hệ khăng khít giữa nhu cầu sống còn của mỗi cá nhân lao khổ với công cuộc cách mạng xã hội. Đó là một tư tưởng nhân đạo mới mẻ, có tính chiến đấu.

(Trần Đình Sử)

Xem tất cả bài viết về "Vợ nhặt" - Kim Lân
 
Từ khóa Từ khóa
anh cu tràng giá trị nhân đạo trong vợ nhặt nạn đói 1945 tư tưởng nhân đạo vợ nhặt - kim lân
  • Like
Reactions: Triều Anh
974
1
1
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.