Quang Dũng là một hồn thơ hào hoa, lãng mạn. Chất lãng mạn đa tình của nghệ sĩ đã bắt gặp và song hành với chất anh hùng của người chiến sĩ Tây Bắc hiểm trở, để rồi cho ra đời thi phẩm Tây Tiến với âm hưởng bi tráng, hào hùng.Điều này được thể hiện rõ qua những câu thơ khi nó về hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Mộc Châu
Hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Mộc Châu
Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh ( Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trậm mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao tha thiết, bồi hổi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bức tranh nói về hai nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Mộc Châu:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kia em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu màu em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Đuốc hoa ở đây là cây nến thắp lên trong phòng tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”. Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan văn nghệ giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản Mường. Chữ “bừng” vừa ám chỉ ánh lửa, ánh đuốc bừng sáng lên, vừa tả âm thanh, tiếng nói cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, Thái tham gia? Chữa”kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đang e ấp đến dự hôi đuốc hoa trong những bộ quần áo xinh đẹp, duyên dáng, kín đáo. Hình ảnh “e ấp” là một nét vẽ tài hoa có hồn gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiểu diễm của các “em”, các “nàng” đã như “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người trẻ trung, xinh đẹp, đào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng cảm thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp trôi về một miền hồi tưởng, đó là vùng đất Mộc Châu, Sơn La. Nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái, Quang Dũng, người lính chiến với tâm hồn nghệ sỹ đã khám phá ra bao vẻ đẹp của vùng đất Mộc Châu. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người ở nơi ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bế bờ
Có nhớ dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sướng trắng phủ mờ núi rừng chiến khu kháng chiến, chiều thu ấy in đậm trong lòng người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” trong lòng. Hồn lau là hồn thu, hoa lau nở trắng bờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông, bờ suối. Với tâm hồn nghệ sỹ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên Mộc Châu qua cảnh sắc “chiều sương” và “nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh núi rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:
“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là “hồn lau”:
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Mộc Châu thêm phần mang mác bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn có nhớ. “Có nhớ” chiếc thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? Có nhớ hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có thể là cánh hoa rừng làm duyên trên mặt nước hay là hình ảnh gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp chèo thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển giữa những cánh hoa rừng “đong đưa”.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Mộc Châu đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, Tây Bắc vô cùng hoang vu, là trốn rừng thiêng nước độc, nhưng với tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng lại cảm nhận được bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỷ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỷ niệm đẹp và sâu sắc đến vậy để viết lên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Mộc Châu và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa trong chiến tranh máu lửa.
Hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Mộc Châu
Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh ( Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trậm mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao tha thiết, bồi hổi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia làm 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bức tranh nói về hai nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Mộc Châu:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kia em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu màu em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Đuốc hoa ở đây là cây nến thắp lên trong phòng tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”. Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan văn nghệ giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản Mường. Chữ “bừng” vừa ám chỉ ánh lửa, ánh đuốc bừng sáng lên, vừa tả âm thanh, tiếng nói cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, Thái tham gia? Chữa”kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đang e ấp đến dự hôi đuốc hoa trong những bộ quần áo xinh đẹp, duyên dáng, kín đáo. Hình ảnh “e ấp” là một nét vẽ tài hoa có hồn gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiểu diễm của các “em”, các “nàng” đã như “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người trẻ trung, xinh đẹp, đào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng cảm thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp trôi về một miền hồi tưởng, đó là vùng đất Mộc Châu, Sơn La. Nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái, Quang Dũng, người lính chiến với tâm hồn nghệ sỹ đã khám phá ra bao vẻ đẹp của vùng đất Mộc Châu. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người ở nơi ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bế bờ
Có nhớ dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sướng trắng phủ mờ núi rừng chiến khu kháng chiến, chiều thu ấy in đậm trong lòng người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” trong lòng. Hồn lau là hồn thu, hoa lau nở trắng bờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông, bờ suối. Với tâm hồn nghệ sỹ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên Mộc Châu qua cảnh sắc “chiều sương” và “nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh núi rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:
“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là “hồn lau”:
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Mộc Châu thêm phần mang mác bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn có nhớ. “Có nhớ” chiếc thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? Có nhớ hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có thể là cánh hoa rừng làm duyên trên mặt nước hay là hình ảnh gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp chèo thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển giữa những cánh hoa rừng “đong đưa”.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Mộc Châu đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, Tây Bắc vô cùng hoang vu, là trốn rừng thiêng nước độc, nhưng với tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng lại cảm nhận được bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỷ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỷ niệm đẹp và sâu sắc đến vậy để viết lên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Mộc Châu và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa trong chiến tranh máu lửa.