"Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi đồng thời phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.
Cùng mình đi tìm hiểu về bài "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài nhé!
VỢ CHỒNG A PHỦ
(Trích)
– Tô Hoài –I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: Tô Hoài
– Tô Hoài (1920 – 2014), quê tỉnh Hà Đông. Ông bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.
– Tô Hoài là một nhà văn lớn với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục (gần 200 đầu sách với nhiều thể loại khác nhau) trong văn học hiện đại Việt Nam
– Tác phẩm Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải. Vốn từ vựng phong phú được sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lôi cuốn người đọc.
2. Tác phẩm.
– Xuất xứ: Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra
+ Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra
+ Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài
– Nội dung: “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.
– Tóm tắt:
+ Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
+ Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
+ Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
+ A Phủ đánh A Sử nên nên đã bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí.
+ A Phủ mãi đi bẫy nhím nên để hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc mấy ngày đêm.
+ Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa.
+ A Phủ và Mị được giác ngộ cách mạng, trở thành du kích.
II. Đọc – hiểu văn bản.
1. Nhân vật Mị:
* Mị là cô gái có nhiều phẩm chất tót đẹp:
– Là cô gái HMông trẻ đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buông Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”
– Là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”
⇒ Bản chất tốt đẹp ,hứa hẹn một cuộc đời hạnh phúc.
* Số phận khắc nghiệt của Mị:
– Hình ảnh Mị xuất hiện: Một cô gái lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri vô giác: cái quay sợi, tàu ngựa, tảng đá. Lúc nào cũng cúi đầu nhẫn nhục và luôn u buồn: “dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào quá trình tìm hiểu số phận nhân vật, báo trước số phận của Mị
– Cuộc sống thống khổ:
+ Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử thậm tệ, mất ý thức về cuộc sống (lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị…). Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời.
+ Danh nghĩa là con dâu thực chất là con ở.
* Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và tinh thần phản kháng của Mị:
– Lúc đầu: Mị cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi, bất lực trước số phận: Bên ngoài, Mị lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi” , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, “cúi mặt”. Tâm hồn trở nên vô cảm, vô thức: “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa (…) ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Lúc nào cũng nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau. Mị chỉ nhớ đến những công việc, mất hết ý niệm về thời gian và không gian.
+ Quen lì với cái khổ: Mất cả sức sống: “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen rồi”, làm bạn với những vật vô tri vô giác (tảng đá, tàu ngựa, ngọn lửa..)
⇒ Mị buông xuôi cuộc sống.
– Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân:
+ Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu…). Mị nghe tiếng sáo gọi bạn “vọng lại thiết tha, bổi hổi”. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi.
+ Mị đã thức tỉnh (kỷ niệm sống dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận…) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc…).
+ Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” ⇒ Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình.
+ Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”. Trong đầu Mị vẫn đang rập rờn tiếng sáo. Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tình yêu tự do đã thổi bùng lên ngọn lửa tâm hồn Mị. Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng, khiến cho sức sống của Mị càng thêm mãnh liệt.
* Khát vọng sống mãnh liệt trong đêm giải thoát cho A Phủ:
– Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Dấu ấn của sự tê liệt tinh thần.
– Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…” của A Phủ. Mị thức tỉnh dần. “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị”, “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Nhớ lại mình, nhận ra mình và xót xa cho mình.
+ Nhớ tới cảnh: Người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết. Thương người, thương mình.
+ Nhận thức được tội ác của nhà thống lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác…”
+ Thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét”. Từ lạnh lùng thương cảm, dần dần Mị nhận ra nỗi đau khổ của mình và của người khác.
+ Mị lo sợ hốt hoảng, tưởng tượng khi A Phủ đã trốn được: “lúc ấy bố con sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nỗi sợ như tiếp thêm sức mạnh cho Mị đi đến hành động.
– Liều lĩnh hành động: cắt dây mây cứu A Phủ “Mị rón rén bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…”
– Hành động bất ngờ nhưng hợp lí: Mị dám hi sinh vì cha mẹ, dám ăn lá ngón tự tử nên cũng dám cứu người.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra”. Đây là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình. Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Sức phản kháng mạnh mẽ: Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt…đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình. Khi sức sống tiềm tàng trong con người được hồi sinh thì đó là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển thành hành động phản kháng táo bạo, chống lại mọi sự chà đạp, lăng nhục để cứu cuộc đời mình.
2. Nhân vật A Phủ.
* Số phận éo le, là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi (mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ):
– Tuổi thơ cơ cực của A Phủ: Từ nhỏ mồ côi cha mẹ, không người thân thích, sống sót qua nạn dịch. Làm thuê, làm mướn, nghèo đến nỗi không thể lấy được vợ vì tục lệ cưới xin. 10 tuổi bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Thái, sau đó trốn thoát và lưu lạc đến Hồng Ngài.
– Lớn lên: Trở thành chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh: “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Nhiều cô gái mơ ước được lấy A Phủ làm chồng: “Đứa nào được A Phủ cúng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng A phủ vẫn rất nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
* Tính cách của A Phủ:
– Gan góc từ bé: “A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi lạc đến Hồng Ngài”
– Lớn lên: dám đánh con quan, sẵn sàng trừng trị kẻ ác: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử (…). Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hàng loạt các động từ cho thấy sức mạnh và tính cách của A Phủ, không quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra.
– Khi trở thành người làm công gạt nợ: A Phủ vẫn là con người tự do: “bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”, làm tất cả mọi thứ như trước đây. Không sợ cường quyền, kẻ ác: Để mất bò, điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và nói chuyện đi bắt hổ một cách thản nhiên, điềm nhiên cãi lại thống lí Pá Tra. Lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây để người ta trói đứng mình. Không sợ cái uy của bất cứ ai, không sợ cả cái chết.
– Bị trói vào cột, A Phủ nhai đứt hai vòng dây mây định trốn thoát. Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ: được nhìn từ bên ngoài, tính cách được bộc lộ ở hành động, vẻ đẹp hiện lên qua sự gan góc, táo bạo, mạnh mẽ.
3. Giá trị của tác phẩm:
a. Giá trị hiện thực :
– Miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. Bọn chúa đất đã bóc lột con người dưới hình thức cho vay nặng lãi, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ; tố cáo sự chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người, gắn con người vào vòng mê tín thần quyền làm cho họ phải bất lực, cam chịu.
– Không chỉ dừng ở chỗ tố cáo sự áp bức, bóc lột mà sâu hơn, Tô Hoài còn nói lên sự thực có tính quy luật: con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến lúc nào đó thì dường như bị tê liệt tinh thần phản kháng và mặt khác, đến lúc nào đó, khi sự ý thức về quyền sống trỗi dậy, thì sức sống tiềm tàng cũng mạnh mẽ, kỳ diệu.
– Tác phẩm còn miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân miền núi và con đường giải phóng của họ. Bức tranh thiên nhiên và những phong tục, tập quán được nhà văn tái hiện chân thật; ngôn ngữ giàu chất tạo hình…
b. Giá trị nhân đạo :
– Cùng với sự tố cáo là lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ. Nhà văn hướng ngòi bút vào sự ảm đạm, đen tối nhưng để hướng vào phía sự sống và ánh sáng tâm hồn của con người, ca ngợi vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của họ. Hiện thực dù đen tối nhưng không thể huỷ diệt được mầm sống tiềm tàng.
– Ngòi bút Tô Hoài thấm nhuần tinh thần nhân đạo thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch, lương thiện, giàu tình người của những con người bị đoạ đày, lăng nhục, khát khao tìm đến ánh sáng của cuộc đời mới; Tô Hoài đã thấy được bước chuyển biến sâu sắc trong con người Mỵ và A Phủ xuất phát từ lòng nhân ái và sự đồng cảm số phận để vươn lên hành động tự cứu mình, cứu người, tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ.
– Tác phẩm thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách Mạng; tố cáo, lên án, , phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của giai cấp thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc….
4. Nghệ thuật
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị chủ yếu khác hoạ tâm tư, …)
– Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
– Khám phá sức mạnh tiềm ẩn của những nạn nhân: niềm khát khao hạnh phúc, tự do và khả năng vùng dậy để tự giải phóng.
– Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Quan sát, tìm tòi: Có những phát hiện mới lạ trong phong tục, tập quán (tục cưới vợ, trình ma, đánh nhau, xử kiện, ốp đồng, đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày tết…).
– Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ….
5. Ý nghĩa văn bản.
Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.
Cùng mình đi tìm hiểu về bài "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài nhé!
VỢ CHỒNG A PHỦ
(Trích)
– Tô Hoài –
1. Tác giả: Tô Hoài
– Tô Hoài (1920 – 2014), quê tỉnh Hà Đông. Ông bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.
– Tô Hoài là một nhà văn lớn với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục (gần 200 đầu sách với nhiều thể loại khác nhau) trong văn học hiện đại Việt Nam
– Tác phẩm Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền. Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải. Vốn từ vựng phong phú được sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lôi cuốn người đọc.
2. Tác phẩm.
– Xuất xứ: Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
– Bố cục (3 phần):
+ Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra
+ Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra
+ Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài
– Nội dung: “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.
– Tóm tắt:
+ Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
+ Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
+ Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
+ A Phủ đánh A Sử nên nên đã bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà thống lí.
+ A Phủ mãi đi bẫy nhím nên để hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc mấy ngày đêm.
+ Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa.
+ A Phủ và Mị được giác ngộ cách mạng, trở thành du kích.
II. Đọc – hiểu văn bản.
1. Nhân vật Mị:
* Mị là cô gái có nhiều phẩm chất tót đẹp:
– Là cô gái HMông trẻ đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buông Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”
– Là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”
⇒ Bản chất tốt đẹp ,hứa hẹn một cuộc đời hạnh phúc.
* Số phận khắc nghiệt của Mị:
– Hình ảnh Mị xuất hiện: Một cô gái lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri vô giác: cái quay sợi, tàu ngựa, tảng đá. Lúc nào cũng cúi đầu nhẫn nhục và luôn u buồn: “dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào quá trình tìm hiểu số phận nhân vật, báo trước số phận của Mị
– Cuộc sống thống khổ:
+ Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử thậm tệ, mất ý thức về cuộc sống (lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị…). Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời.
+ Danh nghĩa là con dâu thực chất là con ở.
- Bị vắt kiệt sức lao động: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”, “Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”-> Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chịu đựng.
- Bị giam hãm về tinh thần (hủ tục): bị cúng trình ma, ở trong một căn buồng“kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”-> Sống với trạng thái gần như đã chết.
- Bị A Sử đối xử tàn nhẫn như súc vật.
* Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và tinh thần phản kháng của Mị:
– Lúc đầu: Mị cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi, bất lực trước số phận: Bên ngoài, Mị lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi” , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, “cúi mặt”. Tâm hồn trở nên vô cảm, vô thức: “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa (…) ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Lúc nào cũng nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau. Mị chỉ nhớ đến những công việc, mất hết ý niệm về thời gian và không gian.
+ Quen lì với cái khổ: Mất cả sức sống: “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen rồi”, làm bạn với những vật vô tri vô giác (tảng đá, tàu ngựa, ngọn lửa..)
⇒ Mị buông xuôi cuộc sống.
– Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân:
+ Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu…). Mị nghe tiếng sáo gọi bạn “vọng lại thiết tha, bổi hổi”. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi.
+ Mị đã thức tỉnh (kỷ niệm sống dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận…) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc…).
+ Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” ⇒ Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình.
+ Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”. Trong đầu Mị vẫn đang rập rờn tiếng sáo. Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tình yêu tự do đã thổi bùng lên ngọn lửa tâm hồn Mị. Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng, khiến cho sức sống của Mị càng thêm mãnh liệt.
* Khát vọng sống mãnh liệt trong đêm giải thoát cho A Phủ:
– Lúc đầu, khi chứng kiến cảnh thấy A Phủ bị trói mấy ngày đêm: “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”. Dấu ấn của sự tê liệt tinh thần.
– Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…” của A Phủ. Mị thức tỉnh dần. “Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị”, “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Nhớ lại mình, nhận ra mình và xót xa cho mình.
+ Nhớ tới cảnh: Người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết. Thương người, thương mình.
+ Nhận thức được tội ác của nhà thống lí: “Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác…”
+ Thương cảm cho A Phủ: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét”. Từ lạnh lùng thương cảm, dần dần Mị nhận ra nỗi đau khổ của mình và của người khác.
+ Mị lo sợ hốt hoảng, tưởng tượng khi A Phủ đã trốn được: “lúc ấy bố con sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nỗi sợ như tiếp thêm sức mạnh cho Mị đi đến hành động.
– Liều lĩnh hành động: cắt dây mây cứu A Phủ “Mị rón rén bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…”
– Hành động bất ngờ nhưng hợp lí: Mị dám hi sinh vì cha mẹ, dám ăn lá ngón tự tử nên cũng dám cứu người.
+ “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra”. Đây là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình. Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Sức phản kháng mạnh mẽ: Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt…đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình. Khi sức sống tiềm tàng trong con người được hồi sinh thì đó là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển thành hành động phản kháng táo bạo, chống lại mọi sự chà đạp, lăng nhục để cứu cuộc đời mình.
2. Nhân vật A Phủ.
* Số phận éo le, là nạn nhân của hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi (mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ):
– Tuổi thơ cơ cực của A Phủ: Từ nhỏ mồ côi cha mẹ, không người thân thích, sống sót qua nạn dịch. Làm thuê, làm mướn, nghèo đến nỗi không thể lấy được vợ vì tục lệ cưới xin. 10 tuổi bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Thái, sau đó trốn thoát và lưu lạc đến Hồng Ngài.
– Lớn lên: Trở thành chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh: “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Nhiều cô gái mơ ước được lấy A Phủ làm chồng: “Đứa nào được A Phủ cúng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Nhưng A phủ vẫn rất nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
* Tính cách của A Phủ:
– Gan góc từ bé: “A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi lạc đến Hồng Ngài”
– Lớn lên: dám đánh con quan, sẵn sàng trừng trị kẻ ác: “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử (…). Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hàng loạt các động từ cho thấy sức mạnh và tính cách của A Phủ, không quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra.
– Khi trở thành người làm công gạt nợ: A Phủ vẫn là con người tự do: “bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”, làm tất cả mọi thứ như trước đây. Không sợ cường quyền, kẻ ác: Để mất bò, điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và nói chuyện đi bắt hổ một cách thản nhiên, điềm nhiên cãi lại thống lí Pá Tra. Lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây để người ta trói đứng mình. Không sợ cái uy của bất cứ ai, không sợ cả cái chết.
– Bị trói vào cột, A Phủ nhai đứt hai vòng dây mây định trốn thoát. Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ: được nhìn từ bên ngoài, tính cách được bộc lộ ở hành động, vẻ đẹp hiện lên qua sự gan góc, táo bạo, mạnh mẽ.
3. Giá trị của tác phẩm:
a. Giá trị hiện thực :
– Miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. Bọn chúa đất đã bóc lột con người dưới hình thức cho vay nặng lãi, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ; tố cáo sự chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người, gắn con người vào vòng mê tín thần quyền làm cho họ phải bất lực, cam chịu.
– Không chỉ dừng ở chỗ tố cáo sự áp bức, bóc lột mà sâu hơn, Tô Hoài còn nói lên sự thực có tính quy luật: con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến lúc nào đó thì dường như bị tê liệt tinh thần phản kháng và mặt khác, đến lúc nào đó, khi sự ý thức về quyền sống trỗi dậy, thì sức sống tiềm tàng cũng mạnh mẽ, kỳ diệu.
– Tác phẩm còn miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân miền núi và con đường giải phóng của họ. Bức tranh thiên nhiên và những phong tục, tập quán được nhà văn tái hiện chân thật; ngôn ngữ giàu chất tạo hình…
b. Giá trị nhân đạo :
– Cùng với sự tố cáo là lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ. Nhà văn hướng ngòi bút vào sự ảm đạm, đen tối nhưng để hướng vào phía sự sống và ánh sáng tâm hồn của con người, ca ngợi vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của họ. Hiện thực dù đen tối nhưng không thể huỷ diệt được mầm sống tiềm tàng.
– Ngòi bút Tô Hoài thấm nhuần tinh thần nhân đạo thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch, lương thiện, giàu tình người của những con người bị đoạ đày, lăng nhục, khát khao tìm đến ánh sáng của cuộc đời mới; Tô Hoài đã thấy được bước chuyển biến sâu sắc trong con người Mỵ và A Phủ xuất phát từ lòng nhân ái và sự đồng cảm số phận để vươn lên hành động tự cứu mình, cứu người, tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ.
– Tác phẩm thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách Mạng; tố cáo, lên án, , phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của giai cấp thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc….
4. Nghệ thuật
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị chủ yếu khác hoạ tâm tư, …)
– Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
– Khám phá sức mạnh tiềm ẩn của những nạn nhân: niềm khát khao hạnh phúc, tự do và khả năng vùng dậy để tự giải phóng.
– Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Quan sát, tìm tòi: Có những phát hiện mới lạ trong phong tục, tập quán (tục cưới vợ, trình ma, đánh nhau, xử kiện, ốp đồng, đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày tết…).
– Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ….
5. Ý nghĩa văn bản.
Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.