Thi sĩ Lưu Trọng Lư là một trong số những người khởi xướng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào Thơ mới phát triển mà xin gọi ông là “chiến tướng” của phong trào Thơ mới. Ông sinh năm 1912, mất năm 1991 quê ở làng Cao Lao Hạ (nay thuộc xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình), em ruột thi sĩ Lưu Kỳ Linh.
Ngay từ khi Thơ mới vừa mới định hình, Nguyễn Xuân Huy và T.K (Lê Tràng Kiều) trong bài viết Một trào lưu mới trong thi ca: Thơ mới in trên báo Tân Thiếu niên ở Hà Nội (1933) đã kịp thời theo dõi “lược sử Thơ mới” và ghi nhận đóng góp của Lưu Trọng Lư ở vị thế người phụ họa, tiếp nối, phát triển tư tưởng Thơ mới của Phan Khôi.
Được ví như một “chiến tướng”, ngay từ đầu Lưu Trọng Lư đã xuất hiện cả trên tư cách nhà thơ và người phê bình, luận thuyết, đấu tranh cho thắng lợi của Thơ mới.
Trong bài Lại nhớ Vân, Lưu Trọng Lư viết:
“Thừa lương khách đã vắng
Trời nước mông mênh duy
còn có bốn mặt nhìn nhau lặng
Hôm nay dạ lại bần thần
Nhìn đám mây chiều lại
nhớ Vân!”
Tuy câu nhiều chữ, câu ít chữ, không có bó buộc vào niêm luật, mà đọc lên cũng êm tai, mỗi câu có một điệu riêng, như một khúc âm nhạc, diễn được cái cảm của nhà làm thơ, và người xem thơ, cùng với người viết cùng cảm như nhau” (Phong hóa, 1933)…
Ngay từ khi các bài thơ được in rải rác, trước ngày ra đời tập Tiếng thu (1939), thơ Lưu Trọng Lư đã được bạn đọc hết sức quan tâm.
Nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng Lư và chính chất nhạc đó đã kiến tạo nên một chất giọng thơ kiểu mới. “Muốn chứng tỏ các nhà thơ cổ biết rằng Thơ mới là một thứ thơ có âm nhạc hẳn hoi, không gì hay hơn là đưa thơ của Lưu Trọng Lư mà nói, một thi sĩ xưa nay rất chú trọng về mặt âm nhạc của thơ. Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt Thơ mới vào đất Bắc”, (Lê Tràng Kiều). Thế Lữ và Huy Thông thường ngẩng lên trời nhìn núi sông cao rộng mà ca những bài ca hùng tráng… Trọng Lư chỉ cúi đầu xuống đất, bước từng bước, sợ sệt, ngại ngùng như bao giờ cũng lo đạp phải những cái linh thiêng của trời đất rơi rác xuống…
Những tình cảm tả trong thơ Trọng Lư là một thứ tình cảm dồi dào, mới mẻ, tế vi, tế vi quá cho nên người đọc khó nhận ra, vì thế, những bạn hâm mộ Thơ mới ít ưa thơ Trọng Lư bằng thơ Thế Lữ là một nhà Thơ mới, “mới” một cách táo bạo.
Nhưng đối phó với phái thơ cũ, thì thơ Trọng Lư là một cái chiến lũy chắc chắn vô cùng, vì thơ Trọng Lư có một cái âm nhạc rất dồi dào, rất phong phú… Ta chỉ tiếc một điều, thơ Trọng Lư cũng phiêu lưu, nay đây mai đó. Khi đăng ở báo này, khi đăng ở báo nọ, cho nên không mấy ai đọc được hết…
Có ai bình tĩnh hỏi lòng hơn nhà thơ Lưu Trọng Lư, khi mỗi mùa thu đến, lại cởi lòng ra mà: “Lắng nghe trăng dải bên thềm…” Có ai nhớ một lần, mùa thu chàng Lưu đã e dè ngồi trong rừng thu để nhìn: “Con nai vàng ngơ ngác,/ Đạp trên lá vàng khô”…
Đời Lư là đời một người giang hồ lãng tử, không kể ngày mai, không thể chống chọi lại với những tiếng gọi huyền bí xa xăm. Nó bắt chàng một sớm, một chiều, lại thắt lại chiếc áo tơi, lại cất gót lên đường, mặc dầu chàng đã được ăn yên, ở yên ở chỗ trước. Nhờ thế mà thơ chàng đã nhuốm được cái phong vị não nùng của non sông đất nước, cái linh hồn hồn nhiên, nhẹ nhàng, lặng lẽ của thời qua.
Có người sẽ hỏi: Thơ nào chẳng là tình cảm? Thơ tình cảm đây là sánh với những trường thơ lạ khác mà mang danh.
Viết bài này tôi chủ ý nói đến một thứ thơ thuần tình cảm mà thôi – thứ thơ mà ông Lưu Trọng Lư đứng đầu trong phái.
“Phải! Phiêu lưu, Lưu Trọng Lư là một chàng phiêu lưu. Đời Lư là đời một người giang hồ lãng tử, không kể ngày mai, không thể chống chọi lại với những tiếng gọi huyền bí xa xăm. Nó bắt chàng một sớm, một chiều, lại thắt lại chiếc áo tơi, lại cất gót lên đường, mặc dầu chàng đã được ăn yên, ở yên ở chỗ trước. Nhờ thế mà thơ chàng đã nhuốm được cái phong vị não nùng của non sông đất nước, cái linh hồn hồn nhiên, nhẹ nhàng, lặng lẽ của thời qua”, (Trần Thanh Mại), đồng thời ông cũng thẳng thắn chỉ ra những câu chữ, hình ảnh, thi tứ mà ông cho là trùng lặp, kể cả phần tranh minh họa “theo phái lập thể” (cho dù hậu thế có thể cảm nhận khác hơn): “Lưu Trọng Lư còn có cái tật xấu nữa là ít săn sóc đến những câu của mình đã viết ra.Như trong bài Giang hồ mà cái năng lực dẫn khởi, não nùng không còn chối cãi được nữa, chàng luôn luôn vấp phải những ý tứ và những chữ lặp đi lặp lại nhiều lần” (Đông Dương tuần báo, Sài Gòn, 1940).
(Lưu Trọng Lư – “chiến tướng” của phong trào Thơ mới)
Nhà phê bình Kiều Thanh Quế sau khi điểm danh 32 tác giả và số tập thơ kèm theo (cả Thơ mới và cũ) trong sách Ba mươi năm văn học (1941), đã xác định: “- Lưu Trọng Lư trong rừng thẳm, trên lưng “con nai vàng ngơ ngác”, nâng niu chiếc sáo trúc thổi khúc Tiếng thu (1939) tuyệt vời”…; thì qua ba năm sau, ông viết bài Thi sĩ Lưu Trọng Lư với Tiếng thu (Tri tân, 1944).
Trong phần mở đầu, Kiều Thanh Quế tán đồng các ý kiến của Trần Thanh Mại, Nguyễn Vỹ và đi đến xác quyết thơ Lưu Trọng Lư “bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu” gắn với các thuộc tính “Khi thì nỉ non…”, “Khi thì lẳng lơ…”, “Khi thì sang sảng như tiếng hát đò đưa…”, “Khi thì buồn bã lạ…”, “Khi thì ai oán não nùng, đầy vơi niềm trắc ẩn, tràn ngập lòng xót thương”: “Đừng ai cố tìm tư tưởng trong thơ Lưu Trọng Lư. Vì vô ích. Lưu Trọng Lư bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu (như Paul Verlaine, đứng đầu phái thơ Tượng trưng ở Pháp, bao giờ cũng bảo: “Thêm nhạc điệu nữa đi, và lúc nào cũng phải có nhạc điệu”)”…
Rồi đến Thanh Châu trong bài Hoa với đời sống tinh thần của chúng ta in báo Trung Bắc tân văn đã nhắc tới bài thơ Lưu Trọng Lư đề tặng Nguyễn Bá Trác (người đã viết Hạn mạn du ký sau khi đi Nhật Bản về): “Xưa nay, muốn chỉ những người đã cất bỏ được cái gánh nặng công danh, để nghĩ đến cái đời sống tinh thần trong sạch của mình riêng, người ta chỉ cần gợi hai tiếng “tùng cúc” trong một câu thơ là đủ.
Khi nhà thơ Lưu Trọng Lư tới thăm ông tổng đốc Nguyễn Bá Trác, một hưu quan ở quê nhà, thi sĩ cũng đã có tặng câu: Ở đây, hoa đã nở mùi thuyền. Ý muốn nói rằng cái mùi hoa ở trước sân cụ Nguyễn đã nhuốm mùi đạo như cái bông hoa ở chỗ tu hành rồi. Cái mùi hoa đó, cũng lại là mùi hoa cúc. Bởi vì thi sĩ đã kết bài thơ ấy bằng hai câu: Một thiên hạn mạn đây là hết,/ Cúc gọi thu về dưới cố viên” (1942) …
Trong chuyên khảo Việt Nam thi ca luận, nhà nghiên cứu Lương Đức Thiệp có cách thẩm âm và cảm nhận riêng về đặc tính nhịp điệu thơ họ Lưu (được phân tích và khái quát chủ yếu qua các bài Tiếng thu, Gió, Đan áo): “Trong ông Lưu Trọng Lư, phảng phất một xu hướng nữa về thơ. Thơ là Nhạc. Đọc lên, ngâm lên, nó phải réo rắt trầm bổng, nhặt khoan như những khúc đàn. Cả tài nghệ của thi nhân quy tụ vào điểm đó.
Hình ảnh, mầu sắc, ý tình phải nhường một chỗ lớn cho âm điệu. Bởi quá thiên về nhạc điệu, ông Lưu Trọng Lư, đại diện ý thức cho chủ trương này, đã cho chúng ta nhiều “bản đàn lời”, nghĩa là nhiều bài thơ gần như không đủ nghĩa, hay thiếu cả nguồn cảm xúc chân thành. Trong bài thơ có nhiều chữ chỉ đứng làm “vì”, đứng để lấp những chỗ trống không!… “Bài thơ” của ông thường ngắn, nhưng đó không phải là ngắn theo cách tổng hợp” (Khuê Văn xuất bản cục, Hà Nội, 1942).
“Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ tin, hay ta hãy tin rằng tiếng kêu kia màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ hai mươi, ngày ngày nện gót giày trên các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào…
Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”…(Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam)
Trong tâm thế hướng đến phác họa toàn cảnh bức tranh văn học nửa đầu thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nhấn mạnh tính phổ quát của những cảm thu, tình thu, cảnh thu, sắc thu, chiều thu, ngày thu và tâm tưởng bốn mùa thu, đồng thời đi sâu phân tích những đặc điểm thuộc về thi tứ, cảm xúc, âm điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật các bài thơ, câu thơ trong thơ họ Lưu: “Ấy, đọc Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tôi vừa tưởng nhớ đến tiếng thu, cái tiếng thu làm cho cỏ cây rầu rĩ úa vàng, tôi lại vừa cảm thấy cái tiếng thu cứ ít lâu lại cứ văng vẳng bên mình, cái tiếng mà ta không thể căn cứ vào thời gian và không gian mà cho tinh chất…
Cái hay trong thơ của Lưu Trọng Lư ở sự thành thực, tấm lòng sầu não của ông thế nào, sự ước mong của ông thế nào và có thể thổ lộ ra được chừng nào, ông thổ lộ ra chừng ấy. Ông không hề gò từng chữ, bó từng câu để cho lạc mất ý mình; thơ ông nếu lời tinh tế thì tự nó tinh tế, chứ thật ông không bao giờ gọt dũa.
Đọc thơ Lưu Trọng Lư, ta nên coi như những tiếng buồn thảm của lòng mà không nên xét về nghệ thuật. Tuy thế, thơ ông vẫn có một cái đặc biệt là rất giàu về âm điệu, nên đọc dễ nhớ, dễ thuộc lắm. Còn ý và lời thơ thì nửa cũ, nửa mới, làm cho những người chuộng hẳn cũ và những người thích hẳn mới đều không ưa, nhưng thơ họ Lưu đã tự vạch lấy cái địa vị rất xứng đáng của mình.
Có thể nói thơ ông là tấm gương phản chiếu tâm hồn một hạng thanh niên Việt Nam buồn nản trong lúc hai văn hóa Đông Tây giao nhau. Thử hỏi những người thanh niên trí thức Việt Nam, mấy ai không nghe văng vẳng “tiếng thu” ngân trong những lúc lặng lẽ mơ màng với hồn thơ và hồn đất nước?” (Quyển III, 1943) …
Trên tất cả, thơ Lưu Trọng Lư đã được người đương thời yêu mến, tiếp nhận, luận bình, đánh giá cao bằng chính thước đo giá trị nghệ thuật. Có thể xác định Lưu Trọng Lư đã góp phần quan trọng làm nên lịch sử phong trào Thơ mới và cũng đã trở thành lịch sử ngay giữa thời Thơ mới.
Những ý kiến của người đương thời luận bình về thơ Lưu Trọng Lư cho phép hậu thế hình dung về một thời luận bình văn chương thực sự sôi nổi, khách quan, phong phú, đa dạng, nhiều chiều.
Ngay từ khi Thơ mới vừa mới định hình, Nguyễn Xuân Huy và T.K (Lê Tràng Kiều) trong bài viết Một trào lưu mới trong thi ca: Thơ mới in trên báo Tân Thiếu niên ở Hà Nội (1933) đã kịp thời theo dõi “lược sử Thơ mới” và ghi nhận đóng góp của Lưu Trọng Lư ở vị thế người phụ họa, tiếp nối, phát triển tư tưởng Thơ mới của Phan Khôi.
Được ví như một “chiến tướng”, ngay từ đầu Lưu Trọng Lư đã xuất hiện cả trên tư cách nhà thơ và người phê bình, luận thuyết, đấu tranh cho thắng lợi của Thơ mới.
Lưu Trọng Lư định nghĩa thế nào là Thơ mới trong thơ của mình?
Trong bài Lại nhớ Vân, Lưu Trọng Lư viết:
“Thừa lương khách đã vắng
Trời nước mông mênh duy
còn có bốn mặt nhìn nhau lặng
Hôm nay dạ lại bần thần
Nhìn đám mây chiều lại
nhớ Vân!”
Tuy câu nhiều chữ, câu ít chữ, không có bó buộc vào niêm luật, mà đọc lên cũng êm tai, mỗi câu có một điệu riêng, như một khúc âm nhạc, diễn được cái cảm của nhà làm thơ, và người xem thơ, cùng với người viết cùng cảm như nhau” (Phong hóa, 1933)…
Ngay từ khi các bài thơ được in rải rác, trước ngày ra đời tập Tiếng thu (1939), thơ Lưu Trọng Lư đã được bạn đọc hết sức quan tâm.
Nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng Lư và chính chất nhạc đó đã kiến tạo nên một chất giọng thơ kiểu mới. “Muốn chứng tỏ các nhà thơ cổ biết rằng Thơ mới là một thứ thơ có âm nhạc hẳn hoi, không gì hay hơn là đưa thơ của Lưu Trọng Lư mà nói, một thi sĩ xưa nay rất chú trọng về mặt âm nhạc của thơ. Lưu Trọng Lư chính là một người đầu tiên gieo hạt Thơ mới vào đất Bắc”, (Lê Tràng Kiều). Thế Lữ và Huy Thông thường ngẩng lên trời nhìn núi sông cao rộng mà ca những bài ca hùng tráng… Trọng Lư chỉ cúi đầu xuống đất, bước từng bước, sợ sệt, ngại ngùng như bao giờ cũng lo đạp phải những cái linh thiêng của trời đất rơi rác xuống…
Những tình cảm tả trong thơ Trọng Lư là một thứ tình cảm dồi dào, mới mẻ, tế vi, tế vi quá cho nên người đọc khó nhận ra, vì thế, những bạn hâm mộ Thơ mới ít ưa thơ Trọng Lư bằng thơ Thế Lữ là một nhà Thơ mới, “mới” một cách táo bạo.
Nhưng đối phó với phái thơ cũ, thì thơ Trọng Lư là một cái chiến lũy chắc chắn vô cùng, vì thơ Trọng Lư có một cái âm nhạc rất dồi dào, rất phong phú… Ta chỉ tiếc một điều, thơ Trọng Lư cũng phiêu lưu, nay đây mai đó. Khi đăng ở báo này, khi đăng ở báo nọ, cho nên không mấy ai đọc được hết…
Có ai bình tĩnh hỏi lòng hơn nhà thơ Lưu Trọng Lư, khi mỗi mùa thu đến, lại cởi lòng ra mà: “Lắng nghe trăng dải bên thềm…” Có ai nhớ một lần, mùa thu chàng Lưu đã e dè ngồi trong rừng thu để nhìn: “Con nai vàng ngơ ngác,/ Đạp trên lá vàng khô”…
Đời Lư là đời một người giang hồ lãng tử, không kể ngày mai, không thể chống chọi lại với những tiếng gọi huyền bí xa xăm. Nó bắt chàng một sớm, một chiều, lại thắt lại chiếc áo tơi, lại cất gót lên đường, mặc dầu chàng đã được ăn yên, ở yên ở chỗ trước. Nhờ thế mà thơ chàng đã nhuốm được cái phong vị não nùng của non sông đất nước, cái linh hồn hồn nhiên, nhẹ nhàng, lặng lẽ của thời qua.
Có người sẽ hỏi: Thơ nào chẳng là tình cảm? Thơ tình cảm đây là sánh với những trường thơ lạ khác mà mang danh.
Viết bài này tôi chủ ý nói đến một thứ thơ thuần tình cảm mà thôi – thứ thơ mà ông Lưu Trọng Lư đứng đầu trong phái.
“Thơ Lưu Trọng Lư là thơ của người đời, thơ của thiên nhiên.” (Việt Châu)
“Tôi sẽ thấy ai rất đáng bỉ, khi họ sẽ phê bình thơ Lưu Trọng Lư với những chữ: Hứa hẹn, tài hoa, chân tài, thiên tài, v.v… Ông Lưu Trọng Lư, cũng như tác phẩm của ông không cần một chút xíu nào cái giọng phê bình rất nhạt (tuy rằng kêu) ấy. Phải chăng, ông Lưu Trọng Lư! một tiếng khen thành thật, một niềm tri kỷ thanh cao quý gấp vạn lần lời xu phụ, tán – dương – vô – ý – thức?”.“Phải! Phiêu lưu, Lưu Trọng Lư là một chàng phiêu lưu. Đời Lư là đời một người giang hồ lãng tử, không kể ngày mai, không thể chống chọi lại với những tiếng gọi huyền bí xa xăm. Nó bắt chàng một sớm, một chiều, lại thắt lại chiếc áo tơi, lại cất gót lên đường, mặc dầu chàng đã được ăn yên, ở yên ở chỗ trước. Nhờ thế mà thơ chàng đã nhuốm được cái phong vị não nùng của non sông đất nước, cái linh hồn hồn nhiên, nhẹ nhàng, lặng lẽ của thời qua”, (Trần Thanh Mại), đồng thời ông cũng thẳng thắn chỉ ra những câu chữ, hình ảnh, thi tứ mà ông cho là trùng lặp, kể cả phần tranh minh họa “theo phái lập thể” (cho dù hậu thế có thể cảm nhận khác hơn): “Lưu Trọng Lư còn có cái tật xấu nữa là ít săn sóc đến những câu của mình đã viết ra.Như trong bài Giang hồ mà cái năng lực dẫn khởi, não nùng không còn chối cãi được nữa, chàng luôn luôn vấp phải những ý tứ và những chữ lặp đi lặp lại nhiều lần” (Đông Dương tuần báo, Sài Gòn, 1940).
(Lưu Trọng Lư – “chiến tướng” của phong trào Thơ mới)
Lấy thước đo giá trị nghệ thuật làm lẽ sống
Nhà phê bình Kiều Thanh Quế sau khi điểm danh 32 tác giả và số tập thơ kèm theo (cả Thơ mới và cũ) trong sách Ba mươi năm văn học (1941), đã xác định: “- Lưu Trọng Lư trong rừng thẳm, trên lưng “con nai vàng ngơ ngác”, nâng niu chiếc sáo trúc thổi khúc Tiếng thu (1939) tuyệt vời”…; thì qua ba năm sau, ông viết bài Thi sĩ Lưu Trọng Lư với Tiếng thu (Tri tân, 1944).
Trong phần mở đầu, Kiều Thanh Quế tán đồng các ý kiến của Trần Thanh Mại, Nguyễn Vỹ và đi đến xác quyết thơ Lưu Trọng Lư “bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu” gắn với các thuộc tính “Khi thì nỉ non…”, “Khi thì lẳng lơ…”, “Khi thì sang sảng như tiếng hát đò đưa…”, “Khi thì buồn bã lạ…”, “Khi thì ai oán não nùng, đầy vơi niềm trắc ẩn, tràn ngập lòng xót thương”: “Đừng ai cố tìm tư tưởng trong thơ Lưu Trọng Lư. Vì vô ích. Lưu Trọng Lư bao giờ cũng chỉ biết chú trọng có âm thanh và nhạc điệu (như Paul Verlaine, đứng đầu phái thơ Tượng trưng ở Pháp, bao giờ cũng bảo: “Thêm nhạc điệu nữa đi, và lúc nào cũng phải có nhạc điệu”)”…
Rồi đến Thanh Châu trong bài Hoa với đời sống tinh thần của chúng ta in báo Trung Bắc tân văn đã nhắc tới bài thơ Lưu Trọng Lư đề tặng Nguyễn Bá Trác (người đã viết Hạn mạn du ký sau khi đi Nhật Bản về): “Xưa nay, muốn chỉ những người đã cất bỏ được cái gánh nặng công danh, để nghĩ đến cái đời sống tinh thần trong sạch của mình riêng, người ta chỉ cần gợi hai tiếng “tùng cúc” trong một câu thơ là đủ.
Khi nhà thơ Lưu Trọng Lư tới thăm ông tổng đốc Nguyễn Bá Trác, một hưu quan ở quê nhà, thi sĩ cũng đã có tặng câu: Ở đây, hoa đã nở mùi thuyền. Ý muốn nói rằng cái mùi hoa ở trước sân cụ Nguyễn đã nhuốm mùi đạo như cái bông hoa ở chỗ tu hành rồi. Cái mùi hoa đó, cũng lại là mùi hoa cúc. Bởi vì thi sĩ đã kết bài thơ ấy bằng hai câu: Một thiên hạn mạn đây là hết,/ Cúc gọi thu về dưới cố viên” (1942) …
Trong chuyên khảo Việt Nam thi ca luận, nhà nghiên cứu Lương Đức Thiệp có cách thẩm âm và cảm nhận riêng về đặc tính nhịp điệu thơ họ Lưu (được phân tích và khái quát chủ yếu qua các bài Tiếng thu, Gió, Đan áo): “Trong ông Lưu Trọng Lư, phảng phất một xu hướng nữa về thơ. Thơ là Nhạc. Đọc lên, ngâm lên, nó phải réo rắt trầm bổng, nhặt khoan như những khúc đàn. Cả tài nghệ của thi nhân quy tụ vào điểm đó.
Hình ảnh, mầu sắc, ý tình phải nhường một chỗ lớn cho âm điệu. Bởi quá thiên về nhạc điệu, ông Lưu Trọng Lư, đại diện ý thức cho chủ trương này, đã cho chúng ta nhiều “bản đàn lời”, nghĩa là nhiều bài thơ gần như không đủ nghĩa, hay thiếu cả nguồn cảm xúc chân thành. Trong bài thơ có nhiều chữ chỉ đứng làm “vì”, đứng để lấp những chỗ trống không!… “Bài thơ” của ông thường ngắn, nhưng đó không phải là ngắn theo cách tổng hợp” (Khuê Văn xuất bản cục, Hà Nội, 1942).
“Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ tin, hay ta hãy tin rằng tiếng kêu kia màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ hai mươi, ngày ngày nện gót giày trên các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào…
Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”…(Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam)
Trong tâm thế hướng đến phác họa toàn cảnh bức tranh văn học nửa đầu thế kỷ, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nhấn mạnh tính phổ quát của những cảm thu, tình thu, cảnh thu, sắc thu, chiều thu, ngày thu và tâm tưởng bốn mùa thu, đồng thời đi sâu phân tích những đặc điểm thuộc về thi tứ, cảm xúc, âm điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật các bài thơ, câu thơ trong thơ họ Lưu: “Ấy, đọc Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tôi vừa tưởng nhớ đến tiếng thu, cái tiếng thu làm cho cỏ cây rầu rĩ úa vàng, tôi lại vừa cảm thấy cái tiếng thu cứ ít lâu lại cứ văng vẳng bên mình, cái tiếng mà ta không thể căn cứ vào thời gian và không gian mà cho tinh chất…
Cái hay trong thơ của Lưu Trọng Lư ở sự thành thực, tấm lòng sầu não của ông thế nào, sự ước mong của ông thế nào và có thể thổ lộ ra được chừng nào, ông thổ lộ ra chừng ấy. Ông không hề gò từng chữ, bó từng câu để cho lạc mất ý mình; thơ ông nếu lời tinh tế thì tự nó tinh tế, chứ thật ông không bao giờ gọt dũa.
Đọc thơ Lưu Trọng Lư, ta nên coi như những tiếng buồn thảm của lòng mà không nên xét về nghệ thuật. Tuy thế, thơ ông vẫn có một cái đặc biệt là rất giàu về âm điệu, nên đọc dễ nhớ, dễ thuộc lắm. Còn ý và lời thơ thì nửa cũ, nửa mới, làm cho những người chuộng hẳn cũ và những người thích hẳn mới đều không ưa, nhưng thơ họ Lưu đã tự vạch lấy cái địa vị rất xứng đáng của mình.
Có thể nói thơ ông là tấm gương phản chiếu tâm hồn một hạng thanh niên Việt Nam buồn nản trong lúc hai văn hóa Đông Tây giao nhau. Thử hỏi những người thanh niên trí thức Việt Nam, mấy ai không nghe văng vẳng “tiếng thu” ngân trong những lúc lặng lẽ mơ màng với hồn thơ và hồn đất nước?” (Quyển III, 1943) …
Trên tất cả, thơ Lưu Trọng Lư đã được người đương thời yêu mến, tiếp nhận, luận bình, đánh giá cao bằng chính thước đo giá trị nghệ thuật. Có thể xác định Lưu Trọng Lư đã góp phần quan trọng làm nên lịch sử phong trào Thơ mới và cũng đã trở thành lịch sử ngay giữa thời Thơ mới.
Những ý kiến của người đương thời luận bình về thơ Lưu Trọng Lư cho phép hậu thế hình dung về một thời luận bình văn chương thực sự sôi nổi, khách quan, phong phú, đa dạng, nhiều chiều.
LA NGUYỄN HỮU SƠN
Báo Giáo Dục & Thời Đại
(Người đăng đặt lại tên và chỉnh sửa vài chỗ)
Báo Giáo Dục & Thời Đại
(Người đăng đặt lại tên và chỉnh sửa vài chỗ)