"Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con" đó là câu nói của Chế Lan Viên - một thi sĩ tài hoa của Việt Nam. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
Hôm nay www.vanhoctre.com sẽ cùng các bạn tìm hiểu về tiểu sử, phong cách thơ, tác phẩm tiêu biểu,... của nhà thơ Chế Lan Viên nhé!
Nhà thơ Chế Lan Viên
1. Tiểu sử của nhà thơ Chế Lan Viên
- Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
- Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
- Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.
- Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
- Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. - - Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.
- Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi.
- Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996).
- Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
2. Những bút danh của Chế Lan Viên
Trong cuộc đời văn chương của mình, ông đã sử dụng bốn bút danh:
Phong cách thơ của nhà thơ Chế Lan Viên được chia ra làm hai giai đoạn:
Phong cách thơ của Chế Lan Viên chia làm 3 giai đoạn
- Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của ông là một Trường thơ loạn đúng nghĩa: Nội dung thơ kinh dị và bế tắc, tất cả đổ nát như một đống hoang tàn. Có máu, sọ người, hình ảnh đổ máu, với tháp chàm. Thông qua những hình ảnh đổ nát và kinh dị, người đọc có thể hình dung được một vương quốc hùng mạnh thời vàng son và nổi niềm hoài cổ của nhà thơ.
- Sau Cách mạng tháng Tám, thơ của ông có sự thay đổi theo một xu hướng hoàn toàn mới. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới một khuynh hướng sử thi hào hùng, đậm chất chính luận, mang tính thời sự.
- Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên dần trở về với đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi".
5. Các tác phẩm tiêu biểu của Chế Lan Viên
Tác phẩm thơ tiêu biểu:
Chế Lan Viên là một thi sĩ tài hoa và sâu nặng ân tình:
- Thi sĩ tài hoa: Nhắc đến nhà thơ Chế Lan Viên nhà văn Lê Thành Nghị, Chủ tịch Hội đồng lý luận, Hội Nhà văn Việt Nam đã thốt lên rằng: “Từ thuở viết ‘Điêu tàn’ cho đến những tập cuối cùng của ‘Di cảo’, Chế Lan Viên đã làm cho người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Sức sáng tạo của Chế Lan Viên có thể nói là phi thường và dấu ấn thơ ông để lại trong đời sống tinh thần thời đại mà ông sống quả là hết sức sâu sắc.”
- Chế Lan Viên là một người nóng nảy và ân tình: Nhà văn Phan Quang là người đồng hương và thân thiết với Chế Lan Viên kể rằng, ông biết Chế Lan Viên từ lúc ông hai mươi tuổi. Chế Lan Viên là người trung trực, sự trung trực mang tính nghệ sĩ, đôi khi thẳng thắn thái quá. Ông là người “ra đường thấy cảnh bất bình chẳng tha” nên thấy gì không đúng là hay cãi khiến nhiều người yêu và cũng nhiều người không ưa ông.
- Bên cạnh đó, ông còn là một người sống rất có tình nghĩa, ông dễ rơi nước mắt trước những điều buồn bã.
7. Những câu nói hay về Chế Lan Viên
Những câu nói hay của Chế Lan Viên đi sâu vào suy nghĩ của mỗi người như:
Hôm nay www.vanhoctre.com sẽ cùng các bạn tìm hiểu về tiểu sử, phong cách thơ, tác phẩm tiêu biểu,... của nhà thơ Chế Lan Viên nhé!
Nhà thơ Chế Lan Viên
- Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
- Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
- Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.
- Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
- Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. - - Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.
- Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi.
- Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996).
- Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
2. Những bút danh của Chế Lan Viên
Trong cuộc đời văn chương của mình, ông đã sử dụng bốn bút danh:
- Nhà thơ lấy bút danh là Thạch Hãn, khi đó ông đang viết bài Tiểu luận "Những bước đường tư tưởng của tôi- tác giả Xuân Diệu" được đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958. Trên báo Thống nhất, xuất bản ở Hà Nội tháng 5 năm 1975 có nhiều bài in ông cũng dùng bút danh này.
- Từ năm 1959 đến năm 1963, ông làm biên tập cho báo Văn học (ngày nay là báo Văn nghệ), nhà thơ Chế Lan Viên phụ trách danh mục Nói chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc về công việc bếp núc văn chương. Khi đó ông lấy tên là Chàng Văn.
- Chế Lan Viên còn có hai bài viết ngắn dùng để đã kích Mỹ Diệm là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn. Khi này, ông lấy tên Oah (tức là tên Hoan)
Phong cách thơ của nhà thơ Chế Lan Viên được chia ra làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám: Trong thời kì này thơ của ông mang màu sắc kinh dị, thần bí, bế tắc với những hình ảnh tang thương. Đây đúng nghĩa là một trường thơ loạn.
- Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám: Khuynh hướng của ông đề cập tới “Cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của Cách mạng”. Trong những năm 1960-1975, thơ Chế Lan Viên mang một màu sắc hoàn toàn mới. Ông viết những áng thơ sử thi hào hùng và đậm tính thời sự.
Phong cách thơ của Chế Lan Viên chia làm 3 giai đoạn
- Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của ông là một Trường thơ loạn đúng nghĩa: Nội dung thơ kinh dị và bế tắc, tất cả đổ nát như một đống hoang tàn. Có máu, sọ người, hình ảnh đổ máu, với tháp chàm. Thông qua những hình ảnh đổ nát và kinh dị, người đọc có thể hình dung được một vương quốc hùng mạnh thời vàng son và nổi niềm hoài cổ của nhà thơ.
- Sau Cách mạng tháng Tám, thơ của ông có sự thay đổi theo một xu hướng hoàn toàn mới. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới một khuynh hướng sử thi hào hùng, đậm chất chính luận, mang tính thời sự.
- Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên dần trở về với đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi".
5. Các tác phẩm tiêu biểu của Chế Lan Viên
Tác phẩm thơ tiêu biểu:
- Điêu tàn
- Gửi các anh
- Ánh sáng và phù sa
- Hoa ngày thường - Chim báo bão
- Những bài thơ đánh giặc
- Đối thoại mới
- Ngày vĩ đại
- Hoa trước lăng Người
- Dải đất vùng trời
- Hái theo mùa
- Hoa trên đá
- Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)
- Ta gửi cho mình (1986)
- Di cảo thơ I, II, III
- Tuyển tập thơ chọn lọc
- Vàng sao
- Thăm Trung Quốc (bút ký)
- Những ngày nổi giận (bút ký,)
- Bác về quê ta (tạp văn,)
- Giờ của đô thành (bút ký)
- Nàng tiên trên mặt đất
- Kinh nghiệm tổ chức sáng tác
- Nói chuyện thơ văn
- Vào nghề
- Phê bình văn học
- Suy nghĩ và bình luận
- Bay theo đường bay dân tộc đang bay
- Nghĩ cạnh dòng thơ
- Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân
- Ngoại vi thơ
- Nàng và tôi
Chế Lan Viên là một thi sĩ tài hoa và sâu nặng ân tình:
- Thi sĩ tài hoa: Nhắc đến nhà thơ Chế Lan Viên nhà văn Lê Thành Nghị, Chủ tịch Hội đồng lý luận, Hội Nhà văn Việt Nam đã thốt lên rằng: “Từ thuở viết ‘Điêu tàn’ cho đến những tập cuối cùng của ‘Di cảo’, Chế Lan Viên đã làm cho người đọc đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Sức sáng tạo của Chế Lan Viên có thể nói là phi thường và dấu ấn thơ ông để lại trong đời sống tinh thần thời đại mà ông sống quả là hết sức sâu sắc.”
- Chế Lan Viên là một người nóng nảy và ân tình: Nhà văn Phan Quang là người đồng hương và thân thiết với Chế Lan Viên kể rằng, ông biết Chế Lan Viên từ lúc ông hai mươi tuổi. Chế Lan Viên là người trung trực, sự trung trực mang tính nghệ sĩ, đôi khi thẳng thắn thái quá. Ông là người “ra đường thấy cảnh bất bình chẳng tha” nên thấy gì không đúng là hay cãi khiến nhiều người yêu và cũng nhiều người không ưa ông.
- Bên cạnh đó, ông còn là một người sống rất có tình nghĩa, ông dễ rơi nước mắt trước những điều buồn bã.
7. Những câu nói hay về Chế Lan Viên
Những câu nói hay của Chế Lan Viên đi sâu vào suy nghĩ của mỗi người như:
- Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
- Người dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ. Nếu dưới vực sâu còn dũng khí.