Được nhắc đến với những danh xưng như: nhà thơ lạ nhất trong phong trào thơ mới, người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là nhà thơ tiên phong cho Trường thơ loạn. Dù sự hiện diện trên cõi đời của Hàn Mặc Tử chỉ như hương hoa trong khoảnh khắc, nhưng bằng tài năng xuất chúng, với nỗi đau của định mệnh nghiệt ngã, anh đã để lại cho đời một di sản quý báu với nhiều bài thơ “thần bút”, lưu lại những dấu vết bất tử theo thời gian và sống mãi bên cạnh tên tuổi chàng thi sĩ tài hoa nhưng bạc phận. Cùng tìm hiểu rõ hơn về tác giả Hàn Mặc Tử qua bài viết dưới đây.
(Nhà thơ Hàn Mặc Tử - chân dung)
Năm 16 tuổi, Nguyễn Trọng Trí đã bắt đầu sáng tác thơ dưới bút danh Phong Trần và Lệ Thanh. Đến năm 1936,ông đổi bút danh là Hàn Mạc Tử, sau đó lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau khi được bạn bè khuyên bảo, Hàn Mạc Tử đã thêm "Mặt Trăng khuyết" vào chữ "Mạc"để thành ra chữ "Mặc". Và từ đó hiệu của ông là Hàn Mặc Tử, đây là bút danh nổi tiếng nhất của Nguyễn Trọng Trí. Bút danh Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Cũng trong năm 1936, Hàn Mặc Tử đã cho xuất bản tập thơ "Gái quê". Trước đó 1 năm, cơ thể Hàn Mặc Tử đã có dấu hiệu bị bệnh phong nhưng ông chủ quan cho rằng đó là một chứng phong ngứa chứ không nguy hiểm.
Sau khi Hàn Mặc Tử viết xong tác phẩm "Thức khuya", người bạn của ông là ông Phan Bội Châu đã đọc và thấy ấn tượng. Phan Bội Châu liền giới thiệu tác phẩm cho 1 tờ báo. Hàn Mặc Tử nhận được học bổng sang Pháp học, nhưng ông không đi và quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp.
Trong cuộc đời Hàn Mặc Tử, đã có nhiều bóng hồng đi vào hồn thơ của ông. Với cô gái Huế Hoàng Cúc, một mối tình đơn phương từ Hàn Mặc Tử, ông đã viết nhiều bài thơ cho cô gái này, điển hình như: Vịnh Hoa Cúc, Trồng hoa Cúc...Cô gái Mai Đình mang một dáng vóc nhỏ gầy, mộc mạc chân quê. Hàn Mặc Tử đã viết tập "Con gái quê" để viết về người con gái này. Ngọc Sương là một ca gái từ lâu đã yêu thầm nhà thơ Hàn Mặc Tử, chính cô gái này là cảm hứng viên nên tập thơ "Thơ điên" của ông.
Năm 1940, một nữ sinh Huế tên là Thương Thương đã mang đến cho Hàn Mặc Tử một nguồn cảm hứng mới. Thời gian này, ông sáng tác các tác phẩm như: Cuộc tình cuối cùng này đã thụ thai thành “Cẩm Châu Duyên”, “Quần Tiên Hội”…
Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội vì căn bênh phong, một căn bệnh nan y thời bấy giờ. Thân thể ông khô cứng, bàn tay bắt đầu nhăn vì phải dùng lực để hoạt động. Tuy nhiên, bác sĩ lại cho rằng, bệnh của ông là do trực khuẩn Hansen gây nên. Từ khi phát bệnh, bệnh của Hàn Mặc Tử phát triển rất nhanh, ông uống nhiều thuốc của lang băm dẫn đến nội tạng bị phá hỏng.
Ông từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
Có thể nói, nỗi đau về thể xác của Hàn Mặc Tử là vô cùng lớn, nhưng người ta không thể nghe thấy tiếng ông rên rỉ mà chỉ thấy nỗi đau đó xuất hiện trong vần thơ của ông.
Để tưởng nhớ đến một nhà thơ tài ba Hàn Mặc Tử, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã sáng tác ca khúc "Hàn Mạc Tử" để kể về cuộc đời của ông.
Năm 2004, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu con người da diết. Một khát vọng sống đến mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Một người thi sĩ đa tài nhưng cuộc sống ngắn ngủi. Mặc dù ra đi ở tuổi đời rất trẻ nhưng sự nghiệp Thơ ca của ông vô cùng đồ sộ.
Tiêu biểu trong sáng tác của Hàn Mặc Tử có tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ - được trích trong tập Thơ điên. Khi sáng tác bài thơ này, Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, ông đang phải chịu đựng những cơn đau giằng xé từ căn bệnh phong hàn. Thế nhưng khi đọc Đây thôn Vĩ Dạ người đọc như hòa vào một thế giới khác, nơi ấy không phải lời kêu than của một người đang lâm bệnh nặng mà ở đó là một tâm hồn yêu thương thiên nhiên, yêu thương con người da diết. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, một hồn thơ nặng tình, là góc nhìn mới mẻ nơi xứ Huế. Tác giả đã đem đến cho người đọc những vần thơ đầy xúc cảm, một vẻ đẹp thấm đượm nỗi buồn của xứ Huế.
Một số bài thơ cuối đời của tác giả Hàn Mặc Tử còn đan xen những hình ảnh ma quái, là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú.
Năm 1933, Hàn Mặc Tử vào làm cho Sở Đạc Điền Quy Nhơn và quen với Hoàng Tùng Ngâm, có họ hàng với với Hoàng Thị Kim Cúc, còn gọi là Hoàng Cúc. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê cô hàng xóm xinh đẹp, đài các. Hàn Mặc Tử đã làm một số bài thơ để tặng nàng Hoàng Cúc như “Vịnh hoa cúc”, “Trồng hoa cúc”...Nhưng Hoàng Cúc chỉ giữ mối tình trong lòng mà không thể hiện ra ngoài. Sau này, khi viết thư cho một người bạn của Hàn Mặc Tử là nhà thơ Quách Tấn, Hoàng Cúc mới nói rõ tâm tình rằng không có tình ý với Hàn Mặc Tử.
Trong đó có anh cả là Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. Hai chị là Nguyễn Thị Như Lễ, Nguyễn Thị Như Nghĩa. Em là Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày ngày 13 tháng 2 năm 1959), Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền Nguyễn Văn Thảo.
Mộng Cầm là mối tình đầu của nhà thơ khi hai người gặp gỡ nhau tại Phan Thiết và Quy Nhơn. Hai người thề nguyền gắn bó keo sơn, cùng nhau xướng họa thi văn, hẹn hò trăm năm. Nhưng 6 tháng sau khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh, Mộng Cầm đã đi lấy chồng! Nỗi đau đớn tuyệt vọng của thi sỹ có lúc như phẫn uất, điên cuồng: “Làm sao giết được người trong mộng. Để trả thù duyên kiếp phủ phàng”, có lúc chợt vỡ oà thành tiếng khóc não nùng, thê thiết: “Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ/Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng”.
Trong số các người tình của Hàn Mặc Tử, có lẽ không ai yêu ông tha thiết bằng nữ sĩ Mai Ðình, tên thật là Mai Thị Lệ Kiều. Mai Ðình thường gửi những bài thơ ký tên Lệ Kiều xin nhà thơ sửa và đăng báo. Từ đó tình thơ chớm nở. Biết người yêu mang trọng bệnh nhưng bất chấp sự ngăn cản của gia đình cũng như sự né tránh của người yêu, Mai Ðình vẫn gần gũi và chăm sóc ông hết mình. Sau này, khi về thăm mộ nhà thơ, nữ sĩ Mai Ðình đã viết những vần thơ nức nở:
“Bên anh, xin Chúa cho xây mãi
Nấm mồ thương nhớ, khổ thương đau
Hình anh, em khắc trong tim
Cho mai trắng nở quanh viền mộ anh”.
Và còn nhiều nữa những hình bóng giai nhân xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, có những người để lại dấu ấn đậm nét, cũng có những người chỉ là cơn gió thoảng qua, nhưng tất cả đều là những nguồn thơ bất tận, được thi sĩ gửi vào những vần thơ tuyệt tác.
Trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời, Hàn Mặc Tử đã dốc toàn lực viết nên thi phẩm nổi tiếng, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập “Đau thương” để tặng người yêu là Kim Cúc.
“Đây thôn Vỹ Dạ” là giọng tình day dứt – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, đơn phương. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỷ niệm.
Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc.
Hàn Mặc Tử - Ngôi sao ấy xẹt qua bầu trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Nửa đời người chưa qua hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của mình, để lại cho nền văn học Việt Nam một đời thơ giá trị.
(Nhà thơ Hàn Mặc Tử - chân dung)
1. Tiểu sử nhà thơ Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử hay còn được gọi là Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, còn có một số bút danh khác như Lệ Thanh, Phong Trần.. Ông là một nhà thơ khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn, đồng thời cũng là nhà thơ tiên phong cho Trường thơ loạn.Năm 16 tuổi, Nguyễn Trọng Trí đã bắt đầu sáng tác thơ dưới bút danh Phong Trần và Lệ Thanh. Đến năm 1936,ông đổi bút danh là Hàn Mạc Tử, sau đó lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau khi được bạn bè khuyên bảo, Hàn Mạc Tử đã thêm "Mặt Trăng khuyết" vào chữ "Mạc"để thành ra chữ "Mặc". Và từ đó hiệu của ông là Hàn Mặc Tử, đây là bút danh nổi tiếng nhất của Nguyễn Trọng Trí. Bút danh Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Cũng trong năm 1936, Hàn Mặc Tử đã cho xuất bản tập thơ "Gái quê". Trước đó 1 năm, cơ thể Hàn Mặc Tử đã có dấu hiệu bị bệnh phong nhưng ông chủ quan cho rằng đó là một chứng phong ngứa chứ không nguy hiểm.
Sau khi Hàn Mặc Tử viết xong tác phẩm "Thức khuya", người bạn của ông là ông Phan Bội Châu đã đọc và thấy ấn tượng. Phan Bội Châu liền giới thiệu tác phẩm cho 1 tờ báo. Hàn Mặc Tử nhận được học bổng sang Pháp học, nhưng ông không đi và quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp.
Trong cuộc đời Hàn Mặc Tử, đã có nhiều bóng hồng đi vào hồn thơ của ông. Với cô gái Huế Hoàng Cúc, một mối tình đơn phương từ Hàn Mặc Tử, ông đã viết nhiều bài thơ cho cô gái này, điển hình như: Vịnh Hoa Cúc, Trồng hoa Cúc...Cô gái Mai Đình mang một dáng vóc nhỏ gầy, mộc mạc chân quê. Hàn Mặc Tử đã viết tập "Con gái quê" để viết về người con gái này. Ngọc Sương là một ca gái từ lâu đã yêu thầm nhà thơ Hàn Mặc Tử, chính cô gái này là cảm hứng viên nên tập thơ "Thơ điên" của ông.
Năm 1940, một nữ sinh Huế tên là Thương Thương đã mang đến cho Hàn Mặc Tử một nguồn cảm hứng mới. Thời gian này, ông sáng tác các tác phẩm như: Cuộc tình cuối cùng này đã thụ thai thành “Cẩm Châu Duyên”, “Quần Tiên Hội”…
Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội vì căn bênh phong, một căn bệnh nan y thời bấy giờ. Thân thể ông khô cứng, bàn tay bắt đầu nhăn vì phải dùng lực để hoạt động. Tuy nhiên, bác sĩ lại cho rằng, bệnh của ông là do trực khuẩn Hansen gây nên. Từ khi phát bệnh, bệnh của Hàn Mặc Tử phát triển rất nhanh, ông uống nhiều thuốc của lang băm dẫn đến nội tạng bị phá hỏng.
Ông từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
Có thể nói, nỗi đau về thể xác của Hàn Mặc Tử là vô cùng lớn, nhưng người ta không thể nghe thấy tiếng ông rên rỉ mà chỉ thấy nỗi đau đó xuất hiện trong vần thơ của ông.
Để tưởng nhớ đến một nhà thơ tài ba Hàn Mặc Tử, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã sáng tác ca khúc "Hàn Mạc Tử" để kể về cuộc đời của ông.
Năm 2004, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.
2. Tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử
- Âm thầm
- Bẽn lẽn
- Duyên muộn
- Đời phiêu lãng
- Em lấy chồng
- Gái quê
- Hái dâu
- Lòng quê
- Mất duyên
- Một đêm nói chuyện với gái quê
- Mơ
- Nắng tươi
- Nhớ chăng
- Nhớ nhung
- Nụ cười
- Quả dưa
- Sượng sùng
- Tiếng vang
- Tình quê
- Tình thu
- Tôi không muốn gặp
- Trái mùa
- Uống trăng
- Biển hồn ta
- Chơi trên trăng
- Cô gái đồng trinh
- Cô liêu
- Hồn là ai
- Một miệng trăng
- Ngoài vũ trụ
- Ngủ với trăng
- Người ngọc
- Rướm máu
- Rượt trăng
- Sáng láng
- Say trăng
- Trăng tự tử
- Trút linh hồn
- Trường tương tư
- Ước ao
- Vớt hồn
- Biển hồn ta
- Chơi trên trăng
- Cô gái đồng trinh
- Cô liêu
- Hồn là ai
- Một miệng trăng
- Ngoài vũ trụ
- Ngủ với trăng
- Người ngọc
- Rướm máu
- Rượt trăng
- Sáng láng
- Say trăng
- Trăng tự tử
- Trút linh hồn
- Trường tương tư
- Ước ao
- Vớt hồn
- Bắt chước
- Cao hứng
- Chuỗi cười
- Đà Lạt trăng mờ
- Đây thôn Vĩ Dạ
- Ghen
- Huyền ảo
- Lưu luyến
- Mơ hoa
- Mùa xuân chín
- Sáng trăng
- Say nắng
- Thi sĩ Chàm
- Thời gian
- Tối tân hôn
- Trăng vàng trăng ngọc
- Bà Rịa - Vũng Tàu (Đường Hàn Mạc Tử, phường 7, Vũng Tàu)
- Đà Nẵng (Đường Hàn Mạc Tử, phường Thuận Phước, Hải Châu)
- Đắk Lắk (Đường Hàn Mặc Tử, phường Tân An, Buôn Ma Thuột)
- Huế (Đường Hàn Mạc Tử, phường Vỹ Dạ, Huế, Thừa Thiên Huế)
- Nghệ An (Đường Hàn Mạc Tử, phường Trung Đô, Vinh)
- Phan Thiết (con đường dẫn lên Lầu Ông Hoàng)
- Quảng Bình (Đường Hàn Mặc Tử, phường Đồng Mỹ, Đồng Hới)
- Thanh Hóa (Phố Hàn Mặc Tử, phường Trường Thi, Thanh Hóa)
- Thành phố Hồ Chí Minh (Đường Hàn Mạc Tử, phường Số 12, Tân Bình và đường Hàn Mạc Tử, phường Tân Thành, Tân Phú)...
3. Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử
Là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới. Thế giới văn chương của ông luôn phong phú đầy màu sắc mang đậm phong cách cá nhân. Ông đã đưa vào Thơ mới sự sáng tạo, những hình ảnh đầy ấn tượng. Thế giới nội tâm đa dạng Hàn Mặc Tử đem đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm để đời. Ngoài sử dụng bút pháp lãng mạn, ông còn sử dụng bút pháp tượng trưng và bút pháp siêu thực.Đọc thơ của Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu con người da diết. Một khát vọng sống đến mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Một người thi sĩ đa tài nhưng cuộc sống ngắn ngủi. Mặc dù ra đi ở tuổi đời rất trẻ nhưng sự nghiệp Thơ ca của ông vô cùng đồ sộ.
Tiêu biểu trong sáng tác của Hàn Mặc Tử có tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ - được trích trong tập Thơ điên. Khi sáng tác bài thơ này, Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, ông đang phải chịu đựng những cơn đau giằng xé từ căn bệnh phong hàn. Thế nhưng khi đọc Đây thôn Vĩ Dạ người đọc như hòa vào một thế giới khác, nơi ấy không phải lời kêu than của một người đang lâm bệnh nặng mà ở đó là một tâm hồn yêu thương thiên nhiên, yêu thương con người da diết. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, một hồn thơ nặng tình, là góc nhìn mới mẻ nơi xứ Huế. Tác giả đã đem đến cho người đọc những vần thơ đầy xúc cảm, một vẻ đẹp thấm đượm nỗi buồn của xứ Huế.
Một số bài thơ cuối đời của tác giả Hàn Mặc Tử còn đan xen những hình ảnh ma quái, là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. Nhưng dù được viết theo khuynh hướng nào, thơ Hàn Mặc Tử vẫn là những vần thơ trong sáng, lung linh, huyền ảo, có một ma lực với sức cuốn hút diệu kì đối với người yêu thơ Hàn Mặc Tử.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều sắc màu. Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú.
4. Hàn Mặc Tử thời trẻ
Cha Hàn Mặc Tử là một thông ngôn nên thường phải thuyên chuyển công tác nhiều nơi. Chính vì vậy mà, từ bé Hà Mặc Tử đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).Năm 1933, Hàn Mặc Tử vào làm cho Sở Đạc Điền Quy Nhơn và quen với Hoàng Tùng Ngâm, có họ hàng với với Hoàng Thị Kim Cúc, còn gọi là Hoàng Cúc. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê cô hàng xóm xinh đẹp, đài các. Hàn Mặc Tử đã làm một số bài thơ để tặng nàng Hoàng Cúc như “Vịnh hoa cúc”, “Trồng hoa cúc”...Nhưng Hoàng Cúc chỉ giữ mối tình trong lòng mà không thể hiện ra ngoài. Sau này, khi viết thư cho một người bạn của Hàn Mặc Tử là nhà thơ Quách Tấn, Hoàng Cúc mới nói rõ tâm tình rằng không có tình ý với Hàn Mặc Tử.
5. Cuộc sống gia đình Hàn Mặc Tử
Cha mẹ của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Văn Toản lấy, Nguyễn Thị Duy, hai ông bà sinh được 8 người con, Hàn Mặc Tử là con thứ 4 trong gia đình.Trong đó có anh cả là Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. Hai chị là Nguyễn Thị Như Lễ, Nguyễn Thị Như Nghĩa. Em là Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày ngày 13 tháng 2 năm 1959), Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền Nguyễn Văn Thảo.
6. Những bóng hồng đi qua cuộc đời Hàn Mặc Tử đã để lại cảm hứng trong thơ ông rất nhiều
Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ của Hàn Mặc Tử, và ông cũng đã đổ biết bao máu lệ để tặng cho họ những vần thơ. Nhờ tình yêu, Hàn Mặc Tử đã cống hiến cho đời những thi phẩm vừa lãng mạn vừa dữ dội.Mộng Cầm là mối tình đầu của nhà thơ khi hai người gặp gỡ nhau tại Phan Thiết và Quy Nhơn. Hai người thề nguyền gắn bó keo sơn, cùng nhau xướng họa thi văn, hẹn hò trăm năm. Nhưng 6 tháng sau khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh, Mộng Cầm đã đi lấy chồng! Nỗi đau đớn tuyệt vọng của thi sỹ có lúc như phẫn uất, điên cuồng: “Làm sao giết được người trong mộng. Để trả thù duyên kiếp phủ phàng”, có lúc chợt vỡ oà thành tiếng khóc não nùng, thê thiết: “Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ/Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng”.
Trong số các người tình của Hàn Mặc Tử, có lẽ không ai yêu ông tha thiết bằng nữ sĩ Mai Ðình, tên thật là Mai Thị Lệ Kiều. Mai Ðình thường gửi những bài thơ ký tên Lệ Kiều xin nhà thơ sửa và đăng báo. Từ đó tình thơ chớm nở. Biết người yêu mang trọng bệnh nhưng bất chấp sự ngăn cản của gia đình cũng như sự né tránh của người yêu, Mai Ðình vẫn gần gũi và chăm sóc ông hết mình. Sau này, khi về thăm mộ nhà thơ, nữ sĩ Mai Ðình đã viết những vần thơ nức nở:
“Bên anh, xin Chúa cho xây mãi
Nấm mồ thương nhớ, khổ thương đau
Hình anh, em khắc trong tim
Cho mai trắng nở quanh viền mộ anh”.
Và còn nhiều nữa những hình bóng giai nhân xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, có những người để lại dấu ấn đậm nét, cũng có những người chỉ là cơn gió thoảng qua, nhưng tất cả đều là những nguồn thơ bất tận, được thi sĩ gửi vào những vần thơ tuyệt tác.
Trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời, Hàn Mặc Tử đã dốc toàn lực viết nên thi phẩm nổi tiếng, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập “Đau thương” để tặng người yêu là Kim Cúc.
“Đây thôn Vỹ Dạ” là giọng tình day dứt – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, đơn phương. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỷ niệm.
Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc.
Hàn Mặc Tử - Ngôi sao ấy xẹt qua bầu trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Nửa đời người chưa qua hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của mình, để lại cho nền văn học Việt Nam một đời thơ giá trị.