Baivanhay Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận

Baivanhay Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Cái tôi trữ tình trong bài thơ đó là một cái tôi thật lẻ loi, cô độc mang những nỗi sầu, những cảm giác bất lực, bế tắc trước những đớn đau của quê hương đất nước, mà một thi nhân với lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc như Huy Cận lại phải chịu cảnh bó tay, trơ mắt nhìn đất nước ngày càng tàn tạ, rối ren. Cùng tới với bài viết Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận để hiểu hơn về cái tôi cô đơn ấy.

Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận.png

Dàn ý Phân tích cái tôi trữ tình trong Tràng giang của Huy Cận​

1. Mở bài

- Trước cách mạng, thơ Huy Cận chất chứa những nỗi buồn thế sự, mênh mang của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng trước thời cuộc rối ren.
- Cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian ấy hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang.

2. Thân bài

* Tác giả, tác phẩm:​

- Huy Cận (1919-2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, ông vừa là một chính khách có nhiều năm hoạt động trong bộ máy nhà nước đồng thời cũng là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận phải kể đến như tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng.
- Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng cảnh mênh mông sóng nước của sông Hồng kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, chất thơ vừa cổ điển của thơ Đường lại xen lẫn hiện đại của văn học Pháp.

* Cái tôi trữ tình trong nhan đề và lời đề từ:​

- Cái tôi mang đầy nỗi cô đơn lạc lõng, đó là tâm hồn của một con người nhỏ bé, một thanh niên trẻ tuổi nhưng đa sầu, đa cảm.
- Nhan đề "Tràng giang" gợi ra không gian rộng lớn, bao la của vũ trụ, mang đậm sắc thái cổ điển, càng tô đậm nên cái nỗi buồn của người thi sĩ, nỗi cô tịch, hồi tưởng về quá khứ với chiều sâu của mấy ngàn năm lịch sử huy hoàng.
- "Tràng giang" chỉ mọi con sông trên đất Việt, cũng là chỉ nỗi buồn chung của lớp những con người trước một thời đại rối ren, phức tạp.
- Lời đề từ mở ra cảm xúc chủ đạo của bài thơ viết về một không gian rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ, thức dậy những cảm xúc bâng khuâng, những nỗi nhớ vô định hình của một hồn thơ cô độc, lẻ loi giữa trời đất bao la, bát ngát, trước cái lạnh lẽo mà sông nước mang đến.

* Khổ thơ 1:​

- Nỗi buồn của Huy Cận không dồn dập, mãnh liệt là trái lại êm đềm, gợn nhẹ như những cơn sóng nhỏ của tràng giang, có tính chất tuần hoàn "buồn điệp điệp".
- Hình ảnh thuyền nước là một thi liệu quen thuộc trong văn học cổ điển, thế nhưng trong thơ Huy Cận lại gợi ra nỗi buồn chia ly, tan tác "sầu trăm ngả".
- Hình ảnh củi khô là một hình ảnh hiện đại, mới mẻ ẩn dụ cho những kiếp người lạc lõng, không có sức nặng mặc cho dòng đời đẩy đưa một cách chán chường.

* Khổ thơ 2:​

- Huy Cận tìm kiếm hơi ấm ở một điểm nhìn xa hơn, rộng hơn, nhưng cảnh những cồn cát "lơ thơ", những ngọn gió "đìu hiu" lại càng làm cho tâm hồn thi nhân thêm se sắt, quạnh quẽ.
- Tiếng chợ chiều của làng xa càng tô đậm thâm cái không gian vắng vẻ, im lìm đến ám ảnh và nỗi cô đơn, lẻ loi của tác giả trước cảnh sông nước mênh mông.

- "Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu" một lần nữa lại càng tô đậm cái không gian rộng lớn, nhấn mạnh cái sự xa cách của trời và đất, của sông và bến, bằng những tiểu đối độc đáo và mới mẻ, dường như mọi vật trong vũ trụ đều trở nên xa cách nhau, chúng cũng lẻ bóng như chính cái tâm hồn đơn độc của nhân vật trữ tình.

* Khổ thơ 3:​

- Thi liệu quen thuộc "bèo" xuất hiện trong thơ Huy Cận lại mang một tầng nghĩa khác, chỉ những cuộc đời lênh đênh, vô định bỏ mặc cho dòng nước đẩy đưa, là sự buông xuôi chấp nhận của một loạt những con người đương thời.
- Huy Cận càng thêm cô đơn, lạc lõng khi cố dõi mắt tìm kiếm một "chuyến đò ngang" mà không thấy, chỉ thấy không gian rộng lớn càng mở ra với "lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".

* Khổ thơ 4:​

- Khung cảnh "mây cao đùn núi bạc" tiếp tục kéo dãn, mở rộng thêm khoảng không vũ trụ rộng lớn, càng thu bé tâm hồn thi nhân, làm thi nhân càng trở nên bơ vơ, lạc lõng hơn.
- Hình ảnh cánh chim nhỏ chính là tượng trưng cho tâm hồn thi sĩ, nhỏ bé, nghiêng cánh muốn tìm chốn nương về nhưng khốn nỗi cả trời đất bao la nhưng chẳng thấy một nhành cây dẫu bóng chiều đã dần sa xuống.
- Từ hoạt cảnh ấy, nỗi niềm nhớ quê hương tha thiết lại tràn về, ngập đầy trong tâm hồn thi sĩ, đó chính là nỗi buồn chung của cả một thế hệ, là nỗi buồn nước mất nhà tan, là niềm suy tưởng về một tổ quốc mấy ngàn năm văn hiến anh hùng nay bỗng trở thành đất nước nô lệ, chịu cảnh rối ren.
- Thi nhân càng nghĩ lại càng thấy đau xót, chán chường, thấy muốn buông bỏ trong sự bất lực trước thời đại.

3. Kết bài

- Cái tôi trữ tình trong bài thơ đó là một cái tôi thật lẻ loi, cô độc mang những nỗi sầu, những cảm giác bất lực, bế tắc trước những đớn đau của quê hương đất nước, mà một thi nhân với lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc như Huy Cận lại phải chịu cảnh bó tay, trơ mắt nhìn đất nước ngày càng tàn tạ, rối ren.

Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận​

Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, quyến rũ nhưng nó thường phủ bởi một nỗi buồn. Đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng của “cái tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của Huy Cận.

Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ nhan đề, Huy Cận đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ Tràng giang mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ Tràng giang mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Lời đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.


Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng Tràng giang dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.


Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một càng khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”.

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống có người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “...không ...không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

“Dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các câu thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như “sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Tràng giang sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất “Huy Cận”, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Cảm nhận về cái tôi trữ tình của Huy Cận​

Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, quyến rũ nhưng nó thường phủ bởi một nỗi buồn. Đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ thể hiện tâm trạng của “cái tôi trữ tình” cô đơn, thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của Huy Cận.

Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Nhan đề và lời đề tự đã thâu tóm cảm xúc cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Từ Hán Việt “Tràng giang” với vần “ang” tạo sự lan tỏa đến mọi khía cạnh của ko gian. Bài thơ mở đầu bằng cảnh sông nước mênh mông vô tận.

Tứ thơ Tràng giang mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Cái tôi trữ tình càng trở nên lạc lõng giữa dòng sông không một chuyến đò, xung quanh chỉ là những cánh bèo trôi dạt. Vừa có ý tả cảnh, nhưng đồng thời nhà thơ cũng như đang ví mình giống như cánh bèo kia: trôi nổi, vô định. Cảnh vật đã mang chút sắc màu tươi tốt: “bờ xanh”, “bãi vàng” nhưng cũng vẫn còn hoang sơ. Nỗi mong mỏi lớn nhất của Huy Cận lúc này đây là được giao cảm, chuyện trò nhưng không một ai “gợi chút niềm thân mật”. Cái tôi trữ tình trở nên cô đơn, lạc lõng. Từ đó, thi sĩ bày tỏ nỗi niềm thầm kín.

Huy Cận với một hồn thơ thường buồn, có lẽ đó là cái buồn cái suy tư bẩm sinh từ trong bụng mẹ, ông mang giọt lệ sầu ảm đạm, đậm ưu tư kết hợp với cái nỗi ám ảnh không gian sâu sắc để sáng tạo ra một thi phẩm xuất sắc như Tràng giang. Cái tôi trữ tình trong bài thơ đó là một cái tôi thật lẻ loi, cô độc mang những nỗi sầu, những cảm giác bất lực, bế tắc trước những đớn đau của quê hương đất nước, mà một thi nhân với lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc như Huy Cận lại phải chịu cảnh bó tay, trơ mắt nhìn đất nước ngày càng tàn tạ, rối ren.

Bình giảng về cái tôi trữ tình trong Tràng giang​

Trong phong trào thơ mới và trong cả nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận đều là hai nhà thơ lớn, những tên tuổi hàng đầu có những đóng góp to lớn cho nền văn học của nước nhà. Hai nhà thơ này lại chính là những người bạn thân thiết, đến độ tri âm, tri kỷ thế nhưng mỗi một nhà thơ lại có riêng cho mình một nỗi ám ảnh, một niềm suy tư riêng về cuộc đời. Nếu như Xuân Diệu suốt một đời thơ cứ mang một nỗi ám ảnh thời gian, thiết tha với một lòng nồng nàn yêu thương cuộc sống đầy rạo rực, cháy bỏng. Thì Huy Cận trong những năm trước cách mạng lại thường mang một nỗi ám ảnh không gian, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, thơ của ông luôn chất chứa những nỗi buồn thế sự, mênh mang của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng trước thời cuộc rối ren. Và cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian ấy hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang, bài thơ đã đưa tên tuổi của Huy Cận vụt sáng thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941.


Giữa khung cảnh thiên nhiên hung vĩ, cánh chim bay giữa trời trong buổi chiều tà như bị nuốt chửng bởi không gian bao la đó. Dường nhưu không gian càng rộng lớn lại càng khiến ông cảm thấy rợn ngợp bấy nhiêu.

Khát khao lớn nhất của cái tôi trữ tình giờ mới được bộc lộ: đó là niềm mong ước, khát khao trở về với quê hương. Bài thơ lúc này bỗng trở nên thấm đượm tình yêu đất nước.

Mang chất liệu cổ điển đến với thơ mới, Huy Cận đã đem đến cho người đọc một cảm giác vừa lạ vừa thân thuộc. Khác với cái tôi trữ tình của Xuân Diệu, cái tôi trữ tình của Huy Cận chất chứa những nỗi buồn, nhớ nhung da diết về quê hương đất nước. Nó cho tháy một tình yêu quê hương âm ỉ trong trái tim của người thi sĩ tài năng này.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các câu thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Chưa cần đi sâu vào đọc hiểu bài thơ, chúng ta cũng đã dễ dàng nhận thấy cái tôi trữ tình trong tác phẩm là một cái tôi mang đầy nỗi cô đơn lạc lõng, đó là tâm hồn của một con người nhỏ bé, một thanh niên trẻ tuổi nhưng đa sầu, đa cảm khi đối mặt với thiên nhiên rộng lớn, đối mặt với con sông Hồng mênh mông sóng nước, khung trời bao la, nhưng cảnh vật lại quá đỗi thưa thớt. Nhan đề "Tràng giang" với âm điệu vang vọng của điệp âm "ang", kéo dài và mở rộng ra cái không gian rộng lớn của dòng sông, đó là không gian vũ trụ bao la, và lạnh lẽo, cô quạnh trong tâm hồn tác giả. Hơn thế nữa cái tôi trữ tình của tác giả còn thể hiện ở cách dùng từ, nhan đề "Tràng giang" là một từ Hán Việt, mang sắc thái cổ điển, càng tô đậm nên cái nỗi buồn của người thi sĩ, nỗi cô tịch, hồi tưởng về quá khứ với chiều sâu của mấy ngàn năm lịch sử huy hoàng, dễ khiến độc giả liên tưởng đến nỗi buồn thời cuộc của các bậc trí thức đương thời. Huy Cận không chỉ đích danh con sông Hồng đã khơi nguồn cảm cảm hứng, mà chỉ gọi là "Tràng giang" dường như chỉ chung tất cả những con sông chảy trôi trên mảnh đất hình chữ S. Và tương tự thì những nỗi niềm, những tâm tư của tác giả cũng chính là nỗi niềm chung của thế hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, đó là tâm trạng của những người con sống giữa quê hương, đất nước mến yêu, nhưng tâm hồn luôn cảm thấy lạc lõng, cô đơn, bởi một nỗi đau đớn bất lực trước thời cuộc, trước nỗi đau nước mất nhà tan.

Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng cảnh mênh mông sóng nước của sông Hồng kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, chất thơ vừa cổ điển của thơ Đường lại xen lẫn hiện đại của văn học Pháp, đã đánh dấu phong cách của nhà thơ trước một rừng các nhà thơ mới cùng thời. Đồng thời thể hiện được những nỗi lòng thầm kín của mình về cuộc đời, về kiếp người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời như dòng nước mênh mang, qua đó thể hiện tấm lòng yêu quê hương đất nước âm thầm, sâu sắc.

Phân tích cái tôi trữ tình của Huy Cận​

“Tràng Giang” là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “Lửa thiêng” - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước. Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.

Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đề “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào. Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà. “Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Hình ảnh cánh bèo trong văn học vốn gợi thân phận lênh đênh, trôi dạt của người phụ nữ. Còn đối với Huy Cận, cánh bèo nối hàng không biết trôi về đâu chính là thận phận của kiếp người lênh đênh, phiêu dạt, của số phận nhân dân ta trong cảnh mất nước. Giữa cái không cùng của vũ trụ, mọi sự vật đều trở nên nhỏ bé, đơn độc đến đáng thương. Mong một chuyến đò đâu chỉ là chở người ta qua sông, mà chuyến đò ấy còn mang đi biết bao nỗi niềm, tâm sự của nhân vật trữ tình. Vậy mà mênh mông không một chuyến đò ngang, chỉ có những bờ xanh lặng lẽ nối tiếp với bãi vàng, trải dài đến vô tận. Trước khung cảnh hoang vắng, tĩnh mịch, nỗi cô đơn của con người càng sâu đậm hơn. Nhu cầu tìm hơi ấm tình người nhưng chỉ gặp phải sự hoang vu, lạnh lẽo của cảnh vật. Buồn lại càng buồn hơn.

Ông cô độc trong chính cuộc sống của mình, thiên nhiên bao trùm lên là một nỗi buồn không biết san sẻ cùng ai. Đây chính là một sự cảm nhận khác biệt của Huy Cận về thiên nhiên, tiêu biểu cho phong cách thơ ông trước cách mạng tháng Tám.

Hình ảnh những cánh bèo nổi trôi vô định trên dòng sông dường như khiến cho tâm hồn tác giả thêm buồn mênh mông. Huy Cận khát khao được yêu thương, được bao bọc nhưng thiên nhiên hờ hững, lòng người lạnh nhạt khiến chính nhà thơ rơi vào bế tắc.

Bức tranh thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp, những đám mây lớn đùn lên cao, cùng với ánh hoàng hôn tạo nên khung cảnh kĩ vĩ, tuyệt diệu. Nhưng ngọn núi bạc ấy cao bao nhiêu lại trở nên cô độc bấy nhiêu, cũng như nỗi buồn của người thi nhân giữa đất trời. Trong ánh hoàng hôn, trong khoảnh khắc của ngày sắp tàn, bóng chim nhỏ xuất hiện, như bị không gian nuốt chửng. Dấu chấm đặt giữa hai vế câu đem đến nhiều cách hiểu, là cánh chim nghiêng đi vì bóng chiều nặng trĩu, hay bóng chiều phải sa xuống trước cánh chim. Dù hiểu theo cách nào ta vẫn cảm nhận được đầy đủ sự cô đơn, lạc loài của cánh chim giữa vũ trụ bao la, rợn ngợp. Giữa khung cảnh ấy là nỗi buồn khắc khoải của kẻ tha hương.

Tâm sự nhớ nước, thương nhà thầm kín khiến cho chính bản thân tác giả rơi vào bế tắc và hoang mang. Người đọc tưởng tượng được khung cảnh "chiều sa" ở đây chới với đến não nề. Tâm sự và tình cảm không biết gửi gắm cùng ai, chỉ thấy buồn và sầu mênh mông.

Huy Cận với tấm lòng đa sầu đa cảm gửi gắm trong những vần thơ buồn khiến cho chính mình hụt hẫng, chới với. Nỗi buồn đan tiếp nỗi buồn, hòa vào thiên nhiên đất trời dư vị cuộc sống buồn và nhạt.

“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.
 
Từ khóa
bình giảng về cái tôi trữ tình trong tràng giang bờ nam bến chèm sông hồng cảm nhận về cái tôi trữ tình của huy cận dàn ý phân tích cái tôi trữ tình trong tràng giang huy cận nét thơ đầy chất hiện đại phân tích cái tôi trữ tình trong bài tràng giang tứ thơ tràng giang vẻ đẹp cổ điển của bài thơ
1K
0
1

Phong Cầm

Thạc sĩ lang thang ^^
17/5/21
890
911
363,000
33
Nam Định
forum.vanhoctre.com
Xu
7,469,529

Cái tôi trữ tình của Huy Cận - Bài viết của Giáo viên​


Nỗi buồn của nơi quán chật đèo cao, của sông dài trời rộng, nỗi buồn của đêm mưa cô đơn hiu hắt, trong niềm nhớ thương trải ra cùng với những hồn thơ hoang mang, nặng trĩu một nỗi sầu cho suốt một thời kì rất buồn và cũng rất xôn xao. Với Huy Cận, những nỗi buồn ấy như triền miên, day dứt hơn bao giờ hết khi tiếng của điệu hồn thiên cổ cất lên, làm cho mạch sâu ngàn năm chợt da diết, chơi vơi.

Đã có một thời kì, thơ Việt Nam “buồn và xôn xao đến thế”. Đó là thời kì những năm đầu thế kỉ hai mươi, khi bộ mặt thật của “tự do, bình đẳng, bác ái” lộ rõ trước hiện thực, có những con người hoang mang, mất phương hướng và tưởng chừng như chỉ biết lẩn quẩn trong vòng bế tắc. Nhưng không, họ đã đứng lên, ngạo nghễ khẳng định tâm tư, suy nghĩ của mình, dẫu đôi khi yếu đuối rầu rĩ. Những gương mặt với phong cách độc đáo lần lượt xuất hiện. Những hồn thơ tình, thơ điên…có khi xôn xao, khi cuồn cuộn, khi dữ dội bão táp. Nhưng tất cả chỉ nằm trong một chữ tôi bơ vơ, sâu vô cùng tận. Và trong chiều sâu ấy, Huy Cận đã cùng chúng ta nếm trải và ảo não qua thời gian. Nhà thơ không say đắm tình yêu, không vội vàng tận hưởng cuộc sống như Xuân Diệu, cũng không điên cuồng đau thương chất ngất như Hàn Mặc Tử mà cũng chẳng “nhà quê” như Nguyễn Bính…nỗi buồn “mang mang thiên cổ sầu” như ngọn lửa âm ỉ cháy cho những rung động với quê hương, với con người và với cuộc đời. Và độc đáo hơn, ngay trong cách lựa chọn và cách thể hiện của Huy Cận cũng mang một nét riêng biệt, một tâm hồn lúc nào cũng trải ra, sẵn sàng “bâng khuâng” với trời rộng, và sông dài, với nỗi sầu thân thế, nhân thế bao quanh. Và “Tràng Giang” cũng là một trong những chuỗi cảm hứng cho nỗi buồn triền miên, bất tận. Cả bài thơ là sự kết hợp giữa chất cổ điển Đường thi trong cảnh vật và chất hiện đại trong sư cảm nhận của thi sĩ làm bật lên một cái tôi giữa dòng đời – cái tôi Huy Cận, hoàn toàn riêng biệt.

Được gợi tứ từ vẻ đẹp nên thơ của con sông Hồng, những câu thơ của Tràng Giang mang theo ngọn sóng ấy, lăn tăn chảy mãi, bất tận. Đó là sóng của con sông dài hun hút chảy đến cuối trời hay là con sóng trong lòng đang gợi lên, vời vợi, mênh mang? Ấn tượng của những câu thơ đầu là một không gian tràng giang sóng nước:

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”


Một không gian mở ra đậm chất Đường Thi. Đó là sự tập trung cao độ của cái rộng lớn mênh mông, cái tĩnh lặng lan tỏa trong công gian vô tận. Cũng là ngọn sóng theo dòng nước trôi về, nhưng ngọn sóng Tràng Giang không hề cuồn cuộn, dữ dội hay lăn tăn, mà lại là “điệp điệp”.

Phải chăng đó là cái “điệp điệp” từ trong lòng người trĩu nặng ra cảnh? Không gian sóng nước chợt rợn ngợp, vô cùng hơn khi hình ảnh con thuyền đơn độc, lẻ loi xuất hiện. Chiếc thuyền nhỏ bé lênh đênh trôi dạt theo dòng chảy chẳng biết đi đâu về đâu. Nhưng cô đơn, quạnh quẽ hơn khi thuyền và nước lại di chuyển trái chiều nhau “thuyền về nước lại”. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền nổi nênh cùng “mái nước song song”, làm đậm thêm cho cái mênh mông vô cùng tận của không gian, cái nhỏ bé hữu hạn của con người trong dòng đời ngược xuôi cũng như gợi lên nỗi sầu trăm ngả. Sầu vô cùng, sầu tứ phía, ngàn mây. Thấp thoáng trong những hình ảnh ấy là bòng dáng của Đường Thi gợi lên cái hồn buồn Đông Á từ lâu vẫn ngấm ngầm trong cõi đất Việt trĩu nặng. “Sóng”, “thuyền” làm nên nỗi sầu trăm ngả. Nhưng “củi một cành khô” lại làm nên một cảm giác chênh chao theo cuộc đời heo hút. Hình ảnh “củi” đã nhỏ bé, đã mong manh, nhưng “củi một cành khô” lại càng nhỏ bé, càng mong manh đến tưởng chừng như mất hút trong những con sóng nối tiếp nhau tạo nên cảm giác lạc lõng, bâng khuâng. Sự lẻ loi buồn tủi đến bây giờ mới lên đỉnh điểm. Đẹp nhưng buồn và cô đơn, bức tranh thiên nhiên trong khổ thơ là minh chứng rõ nét cho một cái tôi trữ tình mang theo nhiều trăn trở, cái tôi muốn vượt ra vòng lẩn quẩn u tối nhưng lại bị nỗi sầu thời cuộc đè nặng khiến cho bơ vơ, lạc lõng.

Nếu như bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu mênh mông, điệp điệp thì khổ thơ thứ hai, nỗi buồn ấy chợt sâu lắng, lặng lẽ nhiều hơn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”


Không gian vốn rộng nay càng rộng thêm ra. Vẻ đẹp của bờ bãi mở ra hút tầm mắt bên cạnh những cồn cát nhấp nhô, vô tận. Tiếng lòng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” chút hoài niệm về tiếng chợ quê ấm áp, âm vang. Những cồn cát “lơ thơ” rời rạc, những tiếng “đìu hiu” gợi về không gian xa vắng mênh mông mang theo cái lạnh rùng mình, cái hoang mang cho nỗi niềm cô đơn. Nhưng tiếng chợ chiều giờ đây chỉ là những tiếng ồn ã không đầy đủ vọng về từ xa xăm, không đủ sức làm cho cái tĩnh lặng của không gian tan biến. Và ánh nhìn của nhà thơ bắt gặp cái nhìn của buổi chiều:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”


Vẻ đẹp thiên nhiên với đầy đủ chiều kích, màu sắc hiện lên rõ ràng. “Nắng xuống” – “trời lên” – hai hình ảnh vận động trái ngược nhau làm cho không gian thêm được chiều sâu. Cái nắng thãm cuối ngày mang theo một nỗi buồn hoài cổ, nỗi buồn sâu lắng trước cảnh thiên nhiên đẹp nao lòng. Cảm xúc cứ lướt nhẹ nhàng, để rồi đọng lại trong hình ảnh “bến cô liêu” của sông dài trời rông. Ta tự hỏi tại sao tác giả không dùng bất kì từ nào khác để diễn tả bến bờ mà lại là “bến cô liêu”? Bởi chỉ có “cô liêu” mới đủ sức lột tả hết đượcn hững gì hoang vắng , lạnh lẽo, trống trải, cô đơn trong hồn người.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”


Nỗi buồn vì tiếng chợ chiều đã vãn, không gian dường như chỉ thêm cô độc hơn khi chẳng có một dấu hiệu nào báo hiệu cho sự sống. Hoàn toàn tĩnh lặng, những cánh bèo nối liền nhau trong tâm tưởng “đi đâu về đâu” được sắp đặt khéo léo như ý niệm về thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp người. Đằng au đó là nỗi băn khoăn trăn trở của cả một lớp người bế tắc. “Hàng nối hàng” là sự đặc tả về mật độ nhưng đồng thời đó cũng là cảm giác miên man dằng dặc. Hai câu thơ tiếp theo là sự vô vọng tìm về phía ánh sáng. Không một chuyến đò cũng không một chiếc cầu, chẳng còn mối dây liên hệ, cũng chẳng còn niềm thân mật nào bám víu vào tâm hồn cũng như cảnh vật. Đến lúc này, những gam màu mới đậm thêm, tô rõ cho buổi chiều tà những gam màu buồn lặng lẽ. Khoảnh khắc ánh xanh của bờ bãi và nét vàng phôi pha xuất hiện như chính là lúc con người chìm đắm trong nỗi buồn thăm thẳm vô bờ.

Khép lại bài thơ là một khổ thơ tập trung những nét thiên nhiên và nét tâm tình con người. Ở đó là cả một nỗi buồn thân thế mênh mông vô cùng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”


Ánh hoàng hôn hắt lên trong những đám mây dày đặc tạo nên một màu bạc tráng lệ, hùng vĩ. Những lớp mây chất chồng lên nhau như một sự ngưng đọng, sự ngập đầy dần của nỗi niềm con người. Cánh chim bơ vơ càng thể hiện nỗi thấm thía, cô đơn và sự lạc lõng, bé nhỏ của mình. Cánh chim chở bao nhiêu khát vọng muốn vượt lên trên nhưng dường như trước bóng chiều nặng trĩu, u tịch, cánh chim ấy không thể kéo nổi sức nặng bầu trời và dần mất đà, “sa” nhanh theo bóng chiều. Cảm giác chênh chao một lần nữa xuất hiện gợi lên biết bao nhiêu cảm xúc mới khác nhau để rồi nổi bật lên trong nỗi sầu là tình yêu quê hương da diết khôn nguôi:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”


Đến đây, dòng tràng giang của đất trời đã hòa nhịp vào dòng “tràng giang” của lòng người. Nhịp chảy vẫn cứ vô tình nối tiếp đều nhau thêm triền miên, bất tận. Hai chữ “dợn dợn” thật đắt, vừa là dợn dợn trongtâm cảnh và cũng vừa là dợn dợn trong tâm hồn. Tràng Giang là một trong những tứ thơ hay và sâu lắng nhất thể hiện cái tôi trữ tình của Huy Cận, cái tôi buồn sầu trăm ngả, sẵn sàng nôn nao trước cảnh vật, chỉ chực chờ trào ra nơi đầu ngọn bút:

“Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn”


(Buồn đêm mưa)

Một nỗi cô đơn quạnh quẽ đọng trong không gian thấm đẫm mưa lạnh. Cảnh vật sầu một nỗi đơn sơ, hoang vắng nhưng cũng chính là nỗi sầu từ trong chính tâm can tỏa ra ngoài. Ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng hai từ ngữ cùng trường nghĩa “lạnh” – “hàn”, sự lặp lại không hề vô tâm, vô tình mà là một sự lặp lại một cách có chủ đích như để nhắc nhớ, để làm đậm thêm cái lạnh lẽo, cô quạnh trong không gian cũng như trong lòng. Một nỗi bao la bao trùm lấy con người. Mưa đã buồn, lòng người còn buồn hơn. Sầu não, muộn phiền đến tê tái, những giọt sầu cứ thế mà rơi rớt, mà “nằng nặng”, “buồn buồn”. Ta có cảm giác như không gian đang trĩu xuống, đọng một nỗi niềm thời gian

Một nỗi buồn thấm thía, một nỗi buồn không hề bất chợt mà xuyên suốt trong cả thời kỳ sáng tác của Huy Cận mang theo cả nỗi ám ảnh của sông dài trời rộng, quán chật đèo cao:

“Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang..
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao


(Đẹp xưa)

Không gian lưng chừng đèo mở ra cái vô cùng tận của vũ trụ, thời gian. Những cảnh vật ở đây sao heo hút, bâng khuâng, lòng người sao ngập ngừng buồn tủi. Mưa gió cứ vô tình lướt ngang, trời mây vẫn cứ vô tình trôi đâu hay trong tâm hồn con người đang chợt dâng lên nỗi sầu chất ngất. Những tâm tư đóng kín lại, chỉ còn nỗi giá lạnh băn khoăn chực chờ trong tâm hồn Huy Cận, chỉ muốn quên và buồn riêng mình mà thôi.

Nhưng cũng không hẳn vì thế mà cái hồn nao nao của Huy Cận chỉ nặng sầu cô đơn. Vẫn còn đó những ước vọng, khát khao về một tình yêu trong sáng, về một mối giao cảm thiết tha, dẫu mỏng manh thầm lặng:

“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong.
Hôm xưa em đến mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đên,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng”


(Áo trắng)

Một hình ảnh trong sáng, thánh thiện bừng lên giữa không gian thời cuộc u tối, vô tình. Một giấc mộng giản đơn, mong manh đi tìm tấm lòng đồng cảm với tình yêu, tình người. Nét bừng sáng của tà áo tinh khôi như làm nhạc điệu của nỗi sầu thiên cổ chợt lạc đi, để rung động cho một tình cảm sâu kín. Bước chân e thẹn kia chợt làm cho không gian u tối bao quanh tâm hồn nhà thơ chợt bừng sáng, ấm áp. Chàng Huy Cận say sưa viết, say sưa kiếm tìm cho một tình cảm chan chứa, nồng nàn. Nhưng cuộc đời tréo ngoe, những tâm tư chợt quay lưng lại giữa tiếng gọi thiết tha, tiếng than thở khóc thương cho mối tình nhân thế:

“Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?”


(Tình tự)

Niềm giao cảm đã mất, tình yêu không bền, chết đi trong tiếng thở dài của cô đơn, trong sự lạnh lùng vô cảm của cuộc đời, để rồi khúc nhạc sầu có lúc ngỡ như dịu đi chợt bùng lên, réo rắt sầu thương:

“Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường”


(Nhạc sầu)



Câu hỏi cất lên như vô tình, như muốn quên đi tiếng lòng mình đang buồn thương đến thắt nghẹn. Lời tự vấn cho nỗi niềm riêng tư hay là tự vấn chính cuộc đời bạc bẽo? Tình riêng chẳng bền lâu, tình người chẳng còn là nơi để bám víu, những khúc nhạc sầu từ cõi lòng cứ thế ngân lên, rợn ngợp. Trời chiều bâng khuâng, “mồ côi” như chính thân phận của những con người hoang mang không biết lấy niềm tin nơi đâu để đỡ đần. Nói thay cho những cõi lòng ấy, thương người nhưng cũng là để thương chính mình, Huy Cận nhận ra dù có muốn vượt ra những giới hạn tối tăm nhưng không thể. Biết làm sao được khi tất cả các chốn đều khép kín, vô tình, chỉ còn lại cái “rét mướt” kéo nhịp cùng nhạc sầu ảo não, cô đơn.

Chẳng cần “nâng khăn lau mắt lệ” mới có thể diễn tả được nỗi cô đơn, nỗi buồn trong chính tâm hồn mình, trong lòng Huy Cận đã dào dạt nỗi niềm bâng khuâng. Lặng lẽ, mải miết, ông vẫn đi tìm để được hòa vào nhịp sống của thế giới nội tâm bên trong lòng người.


Dẫu biết rằng đó là bi lụy, cô đơn, nhưng nỗi sầu của cái tôi trong thơ Mới nói chung và nhất là thơ Huy Cận nói riêng vẫn dào dạt, đắm say. Họ vẫn cứ viết bằng tất cả tâm tư, tình cảm, để được nói lên tiếng nói tha thiết muốn được đón lấy cuộc đời, được sống với khát vọng và niềm tin của chính mình. Những vần thơ ấy cứ lặng thầm chảy mãi cho nỗi niềm của cả một thế hệ, một thời đại để rồi sau này chợt ngân lên như một dấu ấn của thời gian.


ĐỖ LÊ BẢO DUYÊN| Chuyên văn Lê Quý Đôn​
 

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top