Phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang

Phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Tràng Giang - Huy Cận là một trong hai tác phẩm thơ mới mang nỗi buồn đặc trưng của hồn thơ ảo não Huy Cận một thời. Khổ đầu bài thơ Tràng giang nói riêng, nỗi buồn trong cả bài thơ nói chung là gì, cùng tìm hiểu bài viết Phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang/ Phân tích Nỗi buồn trong khổ 1 bài thơ Tràng giang để hiểu hơn về cảm xúc của thi nhân và ý tưởng truyền đạt.

Phân tích Nỗi buồn trong khổ 1 bài thơ Tràng giang.png

Phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang​


Các ý chính cần nêu:​

+ Bài thơ mở ra bằng cảnh tượng sông nước mênh mông, bát ngát và nỗi buồn cũng trải ra bất tận, khôn cùng. Động từ "gợn" khiến nhiều người thắc mắc khi liên hệ với hoàn cảnh ra đời bài thơ. "Sóng gợn" gợi tả những vòng xoáy đang lan ra, loang ra, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến vô tận giống như nỗi buồn âm thầm mà da diết, khôn nguôi.

+ Từ "tràng giang" được đặt ngay sau (sóng gợn tràng giang) khiến người ta có cảm giác những con sóng cứ nối nhau đến tận cuối trời sông nước và cùng với nó là nỗi "buồn điệp điệp". Gí thi sĩ và người đọc đều bị cuốn vào "điệp điệp" những con sóng và "điệp điệp" những nỗi buồn - nỗi buồn chồng chất tầng tầng, lớp lớp.

+ Câu một tả sóng, câu hai tả những luồng nưóc: "Con thuyền xuôi mái nước song song". "Xuôi mái" có thể là con thuyền nương theo dòng nước mà trôi, có thể là con thuyền bất lực ngay cả với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi. Không gian vừa mở ra theo chiều rộng, vừa vươn theo chiều dài gợi lên cái không cùng của vũ trụ vô biên. Cái nhỏ nhoi của con người càng nổi bật trên cái mênh mông, xa vắng của trời rộng, sông dài. Ngược lại, cái mênh mông, hoang vắng của trời nưóc càng tô đậm thêm cảm giác lẻ loi, cô đơn của con thuyền.

Hai câu đầu của bài thơ thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ trong Đăng cao của Đỗ Phủ:

Vô biên lạc mộc tiên tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.


(Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc - Dòng sông dài vô tận nước cuồn cuộn trôi)

Huy Cận đã ngấm thơ Đường từ thời niên thiếu. Thơ Huy Cận mang âm hưởng Đường thi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng cái “tôi” Huy Cận là cái “tôi” thơ mới. Cũng là nghệ thuật đối xứng và cách dùng từ láy nhưng Huy Cận đã đẩy những từ láy xuống cuối câu tạo nên những dư ba, âm hưởng vang xa như dội mãi vào vô biên. Cảm giác buồn cứ dâng mãi bao trùm cả không gian mênh mông từ mặt sông, con sóng, dòng nước, con thuyền.

+ Câu thứ tư có một chi tiết tưởng vụn vặt, tầm thường nếu đặt vào hệ thống thi liệu thơ cổ điển. Nhưng đây lại là một câu thơ hiện đại tuyệt bút. Nhà thơ không nói một cánh bèo, một cánh hoa hay một chiếc lá mà chọn một cành củi khô, chính xác là "củi một cành khô". Cách đảo từ cho thấy rõ hơn cái khô cùa củi, cái bé nhỏ, gầy guộc của cành. "Củi một cành khô" mà "lạc" những "mấy dòng" giữa "trăm ngả" sầu thương thì thật đáng sợ, thật khủng khiếp. Đấy là thân phận của những kiếp phù sinh bé nhỏ, lênh đênh, lạc loài nổi trôi giữa dòng đời vô định. Đấy là hiện thân của cái tôi cá nhân tự ý thức thấy mình bơ vơ giữa cõi người, bé nhỏ giữa dòng đời và trở thành tha hương trên chính quê hương mình.

Âm hưởng chung của bài thơ là buồn, nỗi buồn thấm vào từng câu, từng chữ, "Suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng" (Hoài Thanh). Bài thơ tạo một không khí vừa cổ điển, vừa hiện đại. Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trình tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ vể thiên nhiên mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ấn tượng về một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian. Mỗi khổ thơ thực chất là sự triển khai khác nhau của nỗi buồn.


Phân tích khổ 1 Tràng giang bài văn mẫu​

“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước nặng buồn sông núi”


Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như những nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn.Tràng gianglà một trong những tác phẩm hay điển hình cho hồn thơ Huy Cận một thời. Khổ thơ đầu bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, heo hút của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thi sĩ trước không gian vô tận.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”


Bài thơTràng giangđược Huy Cận sáng tác vào một chiều thu, ông đứng ở bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã mang hình ảnh sóng nước sông Hồng buồn man mác vào tác phẩm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Đọc câu thơ người đọc hình dung ra một con sông mênh mang sóng nước. Cụm từ “tràng giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “tràng giang” khiến cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có chiều sâu. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ. Qua cái nhìn đa sầu đa cảm của thi nhân, từng đợt sóng được nhân hóa lên như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng gợn trên sông của hình ảnh thật ấy cũng như những nỗi buồn đang trải dài vô tận. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh nỗi buồn hết lớp này đến lớp khác, nỗi niềm mang nhiều tâm sự của nhà thơ.

Trên con sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé:

“Con thuyền xuôi mái nước song song”

Hình ảnh đối lập giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng càng gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi trữ tình trong Tràng giang thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người. Hình ảnh con thuyền và dòng sông vốn đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hình ảnh cổ điển trong thơ cùng điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ.

Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hình ảnh “nước” trong câu thơ được nhân hóa như con người, cũng có cảm xúc, cũng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hình dung được một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.

Bên cạnh những hình ảnh thân thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại mang đến một hình ảnh và ý thơ độc đáo đặc sắc:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Củi khô” là môt hình ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta bắt gặp một hình ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hình, mang đến một hình ảnh chiếc củi khô nhỏ nhoi đang lạc lõng. Cành củi vốn đã tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “một cành củi khô” mà lại viết “củi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh cái hình ảnh của củi cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.

Phân tích khổ thơ đầu bài Tràng giang, chúng ta có thể thấy xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hình ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “củi” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn man mác của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi sầu nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiên đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, vô định của kiếp người. Đoạn thơ nói riêng cùng bài thơ nói chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ sầu nhân thế của Huy Cận một thời.

Phân tích Nỗi buồn trong khổ 1 bài thơ Tràng giang​

Đọc “Tràng giang”, chẳng ai có thể phủ nhận danh hiệu nhà thơ “buồn” nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn cố hữu trong tâm hồn cùng với cảm giác lạc lõng trong cảnh đất nước mất chủ quyền mà Huy Cận đã viết lên bài thơ “Tràng giang” sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng ấy, cái tôi ấy được thể hiện rõ ràng nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”


Huy Cận là một trong những cái tôi phong cách nổi bật trong phong trào thơ Mới 1930-1945. Thơ Huy Cận mang nỗi buồn hoài cổ ngàn năm cùng nhiều sáng tạo mới mẻ. Bài thơ “Tràng giang” là thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca Huy Cận trước Cách mạng. Trong đó, khổ thơ đầu tiên là khái quát không gian sông nước mênh mông từ điểm nhìn mặt sông.

Đọc khổ thơ đầu tiên mà bỗng rùng mình rợn ngợp một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng mà ở đó 4 nốt trầm ngân lên gồm sóng, thuyền, nước và cành củi.

Từ câu thơ mở đầu, người ta đã thấy nỗi buồn dằng dặc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Tác giả dùng từ “tràng giang” như nhãn tự, điểm mấu chốt xuyên suốt bài thơ. Dùng từ Hán Việt “tràng giang” vừa để phân biệt với con sông Trường Giang (Trung Quốc) vừa lấy âm “a” và điệp “ang” gợi tả không gian rộng mênh mông, dài bất tận và sâu ngút ngàn. Giữa con sông rộng ấy có một chuyển động rất nhỏ rất tinh – “gợn”. Một con sóng nhỏ bé, chuyển động giữa ngợp trời biển rộng hẳn cô độc lắm, cô độc nên nó mới mang trong mình nỗi buồn lớn khủng khiếp, “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn như gấp lên ngàn vạn lần cùng từ láy “điệp điệp”.

“Con thuyền xuôi mái nước song song”

Câu thơ thứ hai, tác giả chuyển tới điểm nhìn con thuyền. Tưởng chừng như thuyền sẽ mang đến chút hơi thở sự sống. Song, Huy Cận chỉ thấy nỗi buồn thê lương hơn khi thuyền rơi vào trạng thái “xuôi mái”, buông bỏ, phó mặc. Con thuyền không mục đích, không phương hướng. Như vậy, cũng như hình ảnh sóng trên, hình ảnh thuyền cũng là bút pháp lấy động tả tĩnh. Tưởng như sóng như thuyền đang vận động, song thực tế lại hoàn toàn bất động.

Câu thơ thứ ba có lối cấu trúc vận động khá đặc biệt:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Hình ảnh thuyền và nước dường như phá vỡ quy luật thường tình. Nước chảy thuyền trôi. Một con thuyền đang xuôi mái tất yếu sẽ di chuyển theo hướng nước chảy. Thế nhưng, hai thực thể vốn vận động cùng chiều này lại đối lập “về” – “lại”. Tuy vậy, sự phi logic trong tự nhiên lại rất có lí trong vận động tâm trạng tác giả. Tâm hồn đầy lo âu, mặc cảm, lạc lõng kia có thể nào thấy được cảnh tượng thiên nhiên hòa hợp, sum vầy?

Nếu như ba câu thơ đầu toàn là những thứ quen thuộc như sóng, thuyền, nước thì câu thơ cuối lại xuất hiện hình ảnh rất lạ:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Văn học trung đại trước đó nói đến nào là “tùng cúc trúc mai”, nào “long ly quy phượng”, còn Huy Cận? Huy Cận đề cập một từ “củi” mà như phá vỡ mọi quy luật, mọi khuôn mẫu phép tắc nền thi ca trước đó để rồi dẫn đường cho cái tôi độc đáo, sáng tạo.

Câu thơ sử dụng nghệ thuật đảo trật tự cú pháp, thay vì “một cành củi khô”, Huy Cận đã đảo toàn bộ trật tự thành “củi một cành khô”.

Về nội dung, câu thơ hội tụ mọi nỗi cô đơn, ảo não, buồn tủi của một kiếp hồng nhan lo lắng về dòng đời bất trắc. “Củi”, “khô” là vật chết. “một cành” là đơn độc. “lạc mấy dòng” – sự lạc lõng, chơi vơi. Tất cả những gì hiện diện trong câu thơ là chết chóc, chán chường, cô độc, bất lực trước dòng đời.

Như vậy, những hình ảnh vừa quen vừa lạ, giàu hàm súc, giàu sức gợi cùng cách gieo vần, điệp âm và sử dụng các từ láy “điệp điệp”, “song song” mà khổ thơ hội tụ mọi đặc trưng của nền thơ ca hiện đại. Mặt khác, phân tích khổ đầu bài thơ Tràng giang ta cũng thấy được cái tôi Huy Cận buồn “ảo não”, đầy hoài cổ cho thấy chân dung một trí thức đa sầu đa mang, yêu thiên nhiên và yêu quê hương sâu sắc. Bài thơ “Tràng giang”của Huy Cận xứng đáng đưa nhà thơ trở thành “đỉnh cao” thơ Mới.
 
Từ khóa
hồn thơ sầu nhân thế của huy cận nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới nỗi buồn trong khổ 1 bài thơ tràng giang phân tích khổ 1 tràng giang
2K
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top