Sắc thu chất chứa nỗi lòng Nguyễn Khuyến trong Chùm thơ thu

Sắc thu chất chứa nỗi lòng Nguyễn Khuyến trong Chùm thơ thu

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Xuân Diệu từng nhận xét về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến như sau: “Ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến nhìn gộp chung lại là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật nôm, là Việt Nam”.

Tự bao giờ, mùa thu vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân:

“Ngô đồng nhất lạc dịêp
Thiên hạ cộng tri thu.”

Văn học trung đại miêu tả mùa thu trong nghệ thuật ước lệ:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.”


(Nguyễn Du – Truyện Kiều)​

Cái “màu quan san” của Nguyễn Du sao buồn tê tái dẫu có sáng tạo song vẫn chưa thoát khỏi khuôn sáo ước lệ của văn học cổ. Ngay cả văn học hiện đại Bích Khê cũng chưa thoát khỏi xác ve của mùa thu cũ:

“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.”

Cái buồn của liễu rũ, ngàn giọt lệ nhỏ xuống đời vẫn không làm mất tiếng lòng ngân vang, reo vui, hân hoan chào đón mùa thu. Sắc màu vàng kia không còn là biểu trưng cho sự tàn úa, héo hắt mà là cả một công trình nghệ thuật của thời gian, của tạo hoá. Nguyễn Khuyến là con người của buổi giao mùa từ cổ trung đại sang cận hiện đại cho nên cách viết của ông có những âm ba của mùa thu văn học trung đại song có những nét rất mới, rất khác tạo nên tính cách riêng thật duyên dáng không nhầm lẫn vào đâu được. Ba mảng trời thu được kết nhau như kiểu bức tranh tứ bình: ngư, tiều, canh, mục hay tùng, cúc, trúc, mai. Có điều lạ là Nguyễn Khuyến chỉ bố trí 3 bức tranh Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm và đã tạo nên thế đứng rất riêng trong thi đàn.

Cả ba bài thơ được mở ra trong sắc màu xanh trong của bầu trời, của cuối làng quê bình dị:

“Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

(Thu điếu)

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”

(Thu ẩm)

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao”

(Thu vịnh)

sắc thu lắng đọng nỗi niềm tam nguyên yên đổ.png

(Sắc thu chất chứa nỗi lòng Nguyễn Khuyến trong Chùm thơ thu)

Ở miền Bắc vào thu khí trời se lạnh, bầu trời rất ít mây, chỉ hiện hữu khoảng không bao la đó là cái màu xanh ngắt và sâu thẳm như từng mảng xanh cứ đan chồng vào nhau: “trời thu xanh ngắt mấy tầng cao“. Bầu trời kia xa vời quá, hun hút quá như cõi sâu thẳm tấm lòng nhà thơ cho nỗi buồn chất chồng. Tính thẩm mỹ của văn chương thể hiện ở cái hồn của câu chữ. Không một chút mây, không một gì cả, chỉ có màu xanh nối tiếp chồng chất để kéo bầu trời xa, xa mặt đất, xa ngút ngàn đến chốn vô định. Để con người trở nên chơ vơ, trơ trọi, lạc loài chấp chới.

Cái xanh ngắt trong Thu ẩm là cái xanh đến tuyệt đối như cả một màu xanh trải đến vô tận, không một màu sắc khác. Mùa thu trong đáy mắt đỏ hoe của ông già say rượu đang tự hỏi, tự khám phá bên trong vô tình ai đã tạo nên sắc màu “xanh ngắt” ấy, cái sắc màu đã có từ thuở tạo thiên lập địa hay có từ lúc nhà thơ hiện hữu trần đời để mà chiêm nghiệm nỗi buồn đau đáu của thế kỷ nước mất nhà tan. Cái màu xanh kia bổng trở nên côi cút, sắc màu như chính nhà thơ bơ vơ trong cõi trần ai gió bụi để mà thương tiếc ngậm ngùi. Câu hỏi tu từ không cần một lời giải đáp. Mà giải đáp để làm gì kia chứ? Một câu hỏi được ném vào hoang trống, ném vào cõi không bao la của vũ trụ mà tiếng vọng lại như đau xé lòng nhà thơ. “Ai?”, “Ai nhuộm?”. Có vội vàng chăng khi xem đó là nỗi đau thời thế trong niềm bất lực tộc cùng để rồi đôi mắt lão rưng rức không vầy vẫn cứ đỏ như hạt bụi vô hình nào đó rơi vào đáy mắt xót xa. Màu xanh được trải ra theo chiều rộng dàn trải mênh mông thấm vào hồn nhà thơ thành câu hỏi đắng cay!.

Đến với Thu điếu, vẫn giữa cái nền xanh đến tuyệt đối kia, một chút màu trắng rất nhẹ, rất mỏng và rất xốp “lơ lửng” trên bầu trời như tâm sự lửng lơ của nhà thơ.

Nếu như hai bài thơ Thu vịnh, Thu ẩm, bầu trời xanh ngắt kia trở nên côi cút, thiếu vắng mây thì bài thơ Thu điếu có mây lại đến hững hờ, chừng như có mà như không. Lại một đám mây kia cũng sẽ tan loãng như tâm sự man mác của nhà thơ cứ dàn trải cùng cỏ cây dưới đất, con đường làng quạnh vắng buồn tênh. Một nỗi buồn không tên, không hình khối mà sao cứ sâu nặng lòng người. Cụ Tam Nguyên ơi! Uống rượu thu không thảnh thơi, câu cá thu lại không lãng quên nỗi đau đời, ngắm vịnh mùa thu lại cứ đọng vang tiếng lòng những âm ba của quá khứ để phải thẹn với lòng không học tập gương người xưa. Còn buồn kia tức là còn tấm lòng đối với nhân quần còn canh cánh nỗi đau đời trong nét bút tài hoa ấy là còn nhân nghĩa ở đời. Cái đáng giận ở chỗ giữa thời tao loạn kia có những con người còn không biết nhục nỗi nhục mất nước, không biết đau nỗi đau nhà tan thì có còn xứng đáng đứng trong trời đất này chăng?

Từ sắc màu thu của trời, ta hãy trở lại đất để cảm nhận cái màu xanh của cây của cỏ của nước và của cả nỗi lòng nhà thơ. Sắc xanh của Thu điếu thật đẹp xanh trời, xanh cây cỏ, xanh sóng biếc, xanh con đường làng. Bài thơ là một bức tranh với gam màu xanh hài hòa. Trên bầu trời là màu xanh, khoảng giữa lãng đãng vài đám mây trắng như kéo bầu trời xuống thấp hơn, trong một làng quê vắng lặng bình dị của vùng chiêm trũng, cuộc sống diễn ra trong âm thầm lặng lẽ có phần buồn thảm. “Ao thu lạnh lẽo” đến se lòng người. Cả một mùa thu lắng đọng trong chiếc ao bé nhỏ. Mặt ao xanh biếc, sắc màu xanh của nước kia hoà trong khí trời se lạnh. Thi thoảng một làn gió khẽ lay động “gợn tí” sóng lăn tăn rồi chìm khuất vào tĩnh lặng vốn có để cây cỏ cũng dàu dàu, để con đường làng với hai hàng trúc đứng lặng hun hút quanh co không một bóng người qua lại. Chừng như sợi nắng thu cũng ngập ngừng không buồn kéo mình qua cỏ rối. Mà tất cả như bất động như không gian lặng ngắt của một nhà sư đang ngồi thiền, đang trầm mặc. Cái không gian của một con người đang muốn tìm lãng quên cõi hồng trần mà tìm đến thanh tịnh vô vi. Hay chính nhà thơ tìm quên, chạy trốn nỗi đau đời mà ngọn lửa lòng vẫn quặn thắt niềm đau mất nước để thi thoảng mặt nước khẽ chau đi như cái nhíu mày trầm tư rồi trở về thanh thản, rồi lại bị khuấy động bởi một chú cá quẫy đuôi đớp động, rồi chìm khuất giữa cái màu xanh của ao bèo. Một bọt nước trắng giữa làn sóng xanh, cạnh màu xanh bèo bọt rồi lại vỗ tan như một sự rung động mơ hồ tan biến. Tìm về cuộc sống bình dị, rũ áo từ quan nhưng Nguyễn Khuyến không phải Từ Thức “Lên non tìm động hoa vàng ngủ quên” mà ông vẫn thức, thức để cảm nhận hết niềm đau của một dân tộc mất nước để cảm thấy lạc loài cô đơn:

“Nước non man mác về đâu tá
Bè bạn lơ thơ sót mấy người
.”

(Nguyễn Khuyến - Cảm hứng)​

Màu xanh bèo, màu xanh cỏ, màu xanh trúc, màu xanh nước, xanh trời giữa chập chùng màu xanh kia điểm xuyến một chiếc là vàng rơi rất nhẹ, như lá rụng trước sân chùa. Sắc vàng tàn úa của thời gian tạo nét hồn của bài thơ.

Nguyễn Khuyến từ quan về ở ẩn nhưng lòng không có cái thanh thản yêu thiên nhiên tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”


Nguyễn Bỉnh Khiêm​

Hay khi “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” Nguyễn Công Trứ để “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”. Cái tâm của Nguyễn Khuyến luôn xao động giữa bề mặt tĩnh lặng thì một chiếc lá vàng lặng lẽ lìa cành khẽ chao đảo đong đưa trong gió rồi cắm thẳng xuống mặt ao tạo tiếng vèo rồi thanh âm ấy cũng chìm khuất giữa hư vô.Thời thế đảo điên, nước mất nhà tan, cụ Tam Nguyên quay về hoá thân vào ông câu, câu cá mà cá “đâu đớp động”, hoá thân vào ông lão mới uống vài chén rượu thu đã say, ngắm sắc thu toan cất bút đề thơ vịnh mùa thu lại xấu hổ không dám viết, hoá thân vào lão nông thì “Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”. Bi kịch đời người sao lại đớn đau đến thế. Quặn lòng Nguyễn Khuyến để cả trăng thu gục đầu ngậm ngùi.

Trên tầng xanh thẳm vòi vọi của trời thu, một cần trúc “lơ phơ”, “hắt hiu”. Màu xanh pha vàng của thân trúc cùng với vài chiếc lá xanh đã sắp nhuộm màu vàng tàn úa vẽ nên sắc màu thu cô quạnh. Vẫn mặt ao xanh nước biếc, lời thơ thật giản dị mà đằm thắm đã diễn tả đặc sắc vùng quê vắng lặng vào mùa thu muộn có bầu trời xanh không một vẩn mây, cao xanh vời vợi, với ao đầm trong veo long lanh ánh trăng mơ hồ huyền ảo như phủ sương giăng đầy ngàn cây cỏ nội. Không gian bài thơ khơi gợi sự liên tưởng đến hồn thơ Lý Bạch:

“Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.”


(Tĩnh Dạ Tứ)​

Sắc trắng bàng bạc kia từ ánh trăng trên bầu trời cao như trong những làn sương mong manh rồi chút gió heo may nhẹ thoáng lay động cành trúc xao xác lòng người, sắc màu thu trong Thu vịnh tưởng như nồng ấm lên trong “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”. Trên màu xanh của giậu nở hoa lại không khơi gợi sức sống mà còn tô đậm thêm vẻ u hoài, tàn úa “hoa năm ngoái”. Hoa không còn là hoa của năm nay nữa mà là hoa của quá khứ, hoa của một thời xa xăm nào đó vọng lại những sắc hương tàn úa. Cánh hoa của hoài niệm trong lòng xót xa. Nguyễn Du đã mượn cảnh: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” của Thôi Hộ mà diễn tả tấm lòng Kim Trọng khi trở lại vườn xưa mà Thúy Kiều đã xa khuất vào cõi trầm luân của gió bụi cuộc đời để chàng Kim phải: “Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi”. Đó là cái đau của kẻ tình si của tuổi vào yêu còn bồng bột. Còn cụ Tam Nguyên như nuốt nước mắt vào trong lòng “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe” mà ngắm sắc hoa xưa sau bao nhiêu năm lặn lội chốn quan trường mà buồn thương tủi nhục nơi thẳm tâm hồn để hoá thân vào “ông phổng đá”, “tiến sĩ giấy” mà trầm mặc mà lắng nghe tiếng lòng u uẩn, mà nghe cả tiêng ngỗng lạc đàn kêu giữa trời Nam: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”. Trời hỡi! Ngỗng nước nào mà bay lạc vào giữa trời thu để cất tiếng kêu thống thiết? Nếu như tiếng cuốc gọi hè khắc khoải năm canh máu chảy là tiếng chiêu hồn nước thì tiếng ngỗng giữa đêm thu muộn là tiếng ngỗng lạc đàn vong quốc vong thân. Trần Mạnh Hảo khi đọc thơ Nguyễn Khuyến đã viết: “Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là “ngỗng nước nào?. Rằng người không còn giữ được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ cả với ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu” (Nguyễn Khuyến nằm chung với khói mây - Kiến thức ngày nay xuân 99). Trần Mạnh Hảo còn viết tiếp: “Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả ruột gan (sách đã dẫn trang 21). Vậy thì tiếng thu của Nguyễn Khuyến chỉ còn là sắc màu kỷ niệm pha màu hoài cổ.

Sắc màu thu trong “tầng khói phủ” (Thu vịnh) khác với Thôi Hiệu trong Hoàng hạc lâu:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Thôi Hiệu xa quê, nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê, còn Nguyễn Khuyến sống giữa quê nhà mà như lạc loài. Quê đó là quê xưa, còn giờ đây mảnh hồn quê chỉ còn là xác thu dật dờ, là “hoa năm ngoái” là “ngỗng nước nào”, là con cá quẫy đuôi lặn khuất “dưới chân bèo”. Hàng giậu ở miền Bắc thường được trồng hoa dâm bụt, loại hoa nở không theo mùa, không cần chăm chút vẫn nở hoa. Vậy mà lại là “hoa năm ngoái”. Sao quặn thắt đến thế!

Trời thu trong “Thu ẩm” buồn trong mắt ông già say. Có lẽ trong cả ba bài thơ, Thu ẩm lại nhiều màu sắc vàng hơn cả. Màu vàng của “năm gian nhà cỏ” màu vàng của đom đóm lập lòe, màu vàng của "làn áo lóng lánh bóng trăng loe". Nhà hội họa tài hoa đã pha sắc màu cho bức tranh thật độc đáo. Màu xanh ngắt đến tuyệt đối kia phủ cả bầu trời cao rộng, dưới đất màu đen của đêm tối lập lòe những đốm vàng của đom đóm như những vì sao nhỏ chấm li ti ẩn hiện, mặt nước lóng lánh bóng trăng trong gió thu nhẹ êm như thể bóng trăng trên mặt nước không thể vỡ ra mà nó chỉ “loe” ra rồi lại trở về hình dáng cũ như một chút xao động của nỗi lòng cô tịch. Giữa chập chùng đêm sâu hiện ra màu vàng của căn lều cỏ, màu vàng nhạt úa khiêm tốn chiếm một góc nhỏ của bức tranh mà lại là điểm mạnh của hội họa. Thế nhưng một chút đỏ rất nhỏ lại là linh hồn của bài thơ là nét chấm phá vô cùng độc đáo, đó là ánh mắt ông lão say, không đang khóc thì đúng hơn. Say thế nào được khi mới chỉ “dăm ba chén” chưa đủ đưa lão vào cơn say mà chỉ đủ để khơi gợi nỗi buồn đau quặn thắt trong lòng. Sắc màu động pha với tĩnh, tĩnh hòa vào động. “Thấp le te”, “ngõ tối đêm sâu” là tĩnh thì “đóm lập lòe” là động, “màu khói nhạt” là tĩnh mà “phất phơ” lại là động, “lóng lánh bóng trăng loe” là động còn “xanh ngắt” lại là tĩnh, “vầy” là động từ, còn “không vầy” là bất động mà “đỏ hoe” lại là động. Màu thu kia sao mà day dứt nỗi lòng đến thế còn gì? Nét động trong thơ Nguyễn Khuyến không âm vang mạnh mẽ mà như từng đợt sóng ngầm như vết thương đã liền da thịt, thi thoảng lại nhói đau đến buốt rứt tê lòng. Sắc màu đỏ hoe trong đáy mắt lão nông rưng rức lệ, lão đang khóc cho tang thương cuộc đời. Nước mất thì nhà yên sao được! Nhà thơ mượn màu thu ở chốn làng quê bình dị tạo cảm hứng chủ đạo trong dòng thơ trữ tình mà nói lên lòng yêu nước sâu kín.

Suốt cuộc đời bình bị sống, dẫu xuất thân từ con nhà khoa bảng, cuộc đời đỗ đạt làm quan cao chức trọng mà sao những tâm hồn thật trong sáng nhẹ nhàng. Không khoa trương, không chọn những cảnh sắc hùng vĩ nên thơ, cụ Tam Nguyên chọn màu thu ở làng quê yên vắng. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương làng xóm thấm vào máu thịt. Một chiếc ao bé nhỏ, một hàng giậu quen thuộc, một ngõ trúc vắng lặng, một căn lều cỏ. Tất cả tạo nên một trời thu rất Việt Nam, rất Nguyễn Khuyến mà không thể nhầm lẫn được. Sâu lắng trong tình yêu thiên nhiên, nông thôn ấy là tấm lòng yêu nước sâu kín mà người đọc thơ cụ Tam Nguyên phải vận dụng nhiều giác quan mới cảm nhận được. Đọc thơ tiên sinh phải chuyển từ nhận thức trực quan sang liên tưởng rồi suy tưởng trong logic văn chương mới thấy hết cái thần, cái “ý tại ngôn ngoại’ vô cùng độc đáo. Phải tinh tế mới nhận thấy một điều là cả ba con người trong ba bài thơ thu đều cùng chung một tâm sự, cùng một tâm trạng cô đơn bé nhỏ, cùng một tấm lòng yêu nước sâu kín nhưng bất lực trước thời thế, cùng đẳm thấm nỗi đau thân phận bé nhỏ của con người. Tình nước, tình nhà day dứt xót xa trong tấm lòng yêu nước bất lực càng thấm thía niềm đau.
Phải vô cùng tinh tế, người câu ngồi giữa mặt ao bé nhỏ để nghe hương thu thấm dần. Cái thế “tựa gối ôm cần” như muốn chìm khuất trong sắc xanh của trời, nước, cây cỏ. Không mũ cao áo dài, không trịnh trọng kiểu cách ở chốn quan trường, con người như hoá đá vọng quốc như muốn gọi hồn thu của quá khứ về thương hồn thu hiện tại. Sắc màu thu sẽ trở nên vô nghĩa nếu thiếu bóng dáng con người, mà sao con người lại cô độc đến thế kia! Hay người ngồi câu đang ngồi mặc niệm dưới cảnh thu. Hồn thơ của Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên lòng yêu nước sâu xa trong chất trữ tình sâu lắng yêu nước trong đau đớn tủi nhục, thậm chí có lúc tự chế giễu mình: “Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng” (Tự Trào). Khi người không còn giúp ích được gì cho nước trong buổi thực dân xâm lược thì thôi quay về giữ cái lòng thành.

Nỗi đau kẻ sĩ đến thế còn gì hơn! Thậm chí ngồi giữa cảnh thu, một chút cảm hứng vừa nhen lên, toan cất bút mà không dám viết vì: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Còn hứng thú gì nữa giữa thời thế ấy, có gì để ca ngợi. Ông Đào Tiềm treo ấn từ quan về ở ẩn để tìm quên và quên hết còn tiếng lòng nhà thơ vẫn xao đọng, trăn trở dưới trời thu, ngồi câu cá thu, uống rượu thu, làm thơ thu mà khóc cho thu đã mất. Ngồi hưởng thu không một phút thư nhàn. Hồn thu đã mất tự bao giờ mà cơn gió heo mây vẫn cứ rưng rưng tìm về, se thắt lá vàng bay để cành trúc lơ phơ hiu hắt, để tiếng ngỗng lạc đàn cất tiếng gọi bi thương vọng đến lòng thi nhân niềm quặn thắt và cái ông già lụ khụ lầm lũi kia trong gian nhà cỏ thấp lè tè ấy đã rưng rưng mắt đỏ để bầu trời thu côi cút đổ lệ tang thương.

Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành
 
Từ khóa
ao thu lạnh lẽo bức tranh thu chùm thơ thu một trời thu rất việt nam sắc thu chất chứa nỗi lòng nguyễn khuyến thu ẩm thu vịnh thu điếu trời thu xanh ngắt mấy từng cao từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
2K
3
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top