Baivanhay Tìm hiểu và phân tích Chiều tối hay nhất

Baivanhay Tìm hiểu và phân tích Chiều tối hay nhất

Phong Cầm
Phong Cầm
  • Thạc sĩ lang thang ^^ 33 đến từ Nam Định
Với bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, bằng một vài nét chấm phá, Bác đã khắc họa được một bức tranh trời chiều xinh xắn nơi núi rừng có ánh lửa hồng của lò than nhà ai chiếu sáng hình ảnh cô gái lao động. Từ bức tranh thơ bừng sáng lên một tấm lòng lạc quan, đôn hậu đối với con người và đặc biệt nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác. Đó chính là nét đặc sắc nhất của bài thơ “ Chiều tối”.

Thân bài:

Hoàn cảnh sáng tác:

Trong tác phẩm “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” tác giả Trần Dân Tiên có cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ như sau: “ Người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho biết Cụ đi đâu.Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xích, có sáu người lính mang súng giải đi, đi mãi nhưng vẫn không cho biết đi đâu. Dầm mưa, dãi nắng, trèo núi, qua truông. Mỗi buổi sáng gà gáy đầu, người ta đã giải Cụ Hồ đi, mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, người ta dừng lại ở một địa phương nào đó giam Cụ vào trong một xà lim, trên một đống ra bẩn, không cởi trói cho Cụ ngủ”.

Sự hài hòa giữ cảnh và tình: ( Biểu hiện tâm trạng trong cảnh vật)

Phải gắn bài thơ,với cảnh tù đày, chuyển lao đầy gian khổ của Bác như thế, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ, gần về tối, người tù ngẩng đầu lên đỉnh trời rồi bất chợt nhận ra cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ và làn mây lẻ loi lững lờ trôi. Dù lâm vào cảnh ngộ bị đọa đày, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Bởi: “ Bác yêu trăng như thể yêu người”. Đối với Bác hoa với trăng là bạn.

Hình ảnh thơ của Bác xuất hiện thật tự nhiên. Tuy là hình ảnh thơ mang màu sắc ước lệ của thơ cổ điển, nhưng vẫn phù hợp với cảnh thực, tâm trạng thực của nhà thơ. Bởi cũng như tâm trạng con người đang mệt mỏi cô đơn, hình ảnh cánh chim xuất hiện ở câu thơ đầu tiên gợi cho ta một cái gì đó mệt mỏi, chán chường

“ Quyên Điểu quy lâm tầm túc phụ”

Ở đây đã có sự hòa hợp cảm thông giữa con người và cảnh vật. Điều đó cũng được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai bởi từ “ Cô vân mạn mạn độ thiên không”. Bản dịch chưa lột tả được hết ý, hết tình trong hình ảnh “ cô vân” và từ “ mạn mạn” trong nguyên tác. Hình ảnh “ cô vân” nói lên làn mây lẻ loi cô đơn gợi nỗi buồn đơn côi của cảnh chiều. Từ “mạn mạn” nghĩa là chậm chậm cũng gợi lên sự uể oải, lững lờ của đám mây chiều. Điều đó làm cho làn mây cũng trở nên có tâm trạng hơn,dường như nó cũng mang nỗi buồn như con người.

Thơ ca cổ điển xưa nay hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả thời gian. Cho nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim, làn mây:

Chim hôm thoi thót về rừng

(Nguyễn Du)

“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”


(Lý Bạch)

Xuân Diệu dịch:

“Chim rừng một loạt cao bay
Trên trời lơ lửng đám mây một mình”


Ở đây thơ Bác cũng có hình ảnh chim bay mỏi nhưng lại có thêm hình ảnh cỏ vân. Song không phải là cô vân độc khứ nhàn, gợi sự nhàn nhã, cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục mà là “Cô vân mạn mạn độ thiên không” làm cho khung cảnh buổi chiều thêm cô đơn, mệt mỏi buồn thương hơn. Đúng là câu thơ của một tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ. Bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn vì xa tổ quốc quê hương, bạn bè đồng chí, trong khi Cách mạng đang mong chờ, buồn vì bị mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi tù. Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình này Bác vui sao được? Chưa kể cảnh ngộ trong bài thơ chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đoạ đầy của người tù. Sự đoạ đầy ban ngày chưa qua, sự đoạ đầy ban đêm đang chờ đợi phía trước.

Hai câu sau: ý thơ của Bác rất hiện đại luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Nhưng nếu bài thơ của Bác chỉ dừng lại ở đó thì nhà thơ Hồ Chí Minh của chúng ta có hơn gì các nhà thơ cổ điển như Bà Huyện Thanh Quan, Đỗ Phủ, Lý Bạch, đặc biệt là nhà thơ Liễu Tống Nguyên với bài thơ “Giang Tuyết” hết sức tĩnh lặng và lạnh lẽo.

“Ngàn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không
Thuyền đơn, ông tơi nón
Một mình câu tuyết sông”


Song thơ Bác rất cổ điển mà cũng rất hiện đại cho nên đến hai câu sau Bác viết:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hàng”


Đến hai câu thơ này bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt gần gũi ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời lẽ bình thường. Nhưng ý thơ thì sinh động và đẹp đẽ biết bao trong nguyên văn “Sơn thôn thiếu nữ”, mà dịch thành “có em xóm núi” thì lời dịch đã làm sai lệch mất ý thơ rất hay trong nguyên tác. Với câu thơ ấy, bác đã đưa hình ảnh cô gái lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời chiều với cánh chim bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Ta nên nhớ rằng trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người, và con người bị hoà vào thiên nhiên:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”


Bài thơ “Chiều tối” được kết thúc bằng một hình ảnh thật tự nhiên mà bất ngờ thú vị “xay hết lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa hồng ấm áp đã bừng sáng.

Như thế là bài thơ tứ tuyệt của Bác đã diễn tả được sự vận động của thời gian từ chiều đến tối hẳn. Tìm hiểu trong câu thơ nguyên tác của Bác, chúng ta thấy câu thơ không có chữ “tối” mà nói được cái tối, bởi thời gian cứ trôi dần theo cánh chim bay, làn mây, cùng nhịp vòng quay cối xay ngô. Điệp từ “bao túc” được Bác dùng theo trật tự đảo gợi được sự đều đều của vòng quay, cối xay ngô của sự tuần hoàn luân chuyển của thời gian và cho đến khi cối xay dừng lại lò than đã rực hồng, tức là thời gian đã tối hẳn. Có thế mới làm nổi rõ được cái rực hồng của lò than vốn đã hồng từ lúc nào. Ở đây, tưởng dùng cái sáng để nói cái tối. Đó là một thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Thế mà bản dịch đã đưa thêm một chữ tối vào làm giảm tính hàm xúc và mất đi vẻ đẹp cổ điển tinh tế có màu sắc rất Đường Tống này của hình ảnh thơ Bác.

Cùng với sự vận động của thời gian ấy là sự vận động của cảnh sắc, tư tưởng tính chất của tác giả. Sự vận động và chuyển biến thật bất ngờ khoẻ khoắn. Từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo đến cô đơn đến ấm nồng. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ vượt vúi băng rừng, lội suối; còn phía trước biết đâu một số tối nhà ngục lạnh giá đầy muỗi rệp, xích xiềng đang chờ đợi. Đã thế, cảnh chiều buông nơi miền sơn cước tỉnh Quảng Tây lại dễ khêu gợi nỗi sầu tha hương, vậy ý thơ của Bác đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ buồn đến vui, một cái vui tràn đầy trong cuộc sống (Hoài Thanh). Điều này được thể hiện rõ nhất ở chữ “hồng” cuối bài thơ. Đây chính là chỗ đẹp nhất của bài “Chiều tối”.

“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bản chung thành đáo kháng huyền
”.

Không phải là hình ảnh “Lửa trại cây bến, sầu vương giấc hồ” trong thơ “Trương kể” mà là ánh lửa hồng đầm ấm reo vui hạnh phúc, ánh lửa hồng của sự sống, niềm lạc quan. Với một chữ “hồng” Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề đã diễn tả trong 3 câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên gương mặt cô gái sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật đời thường, người ta gọi là nhãn tự (chữ con mắt). Một mình chữ “hồng” đã làm cân bằng sinh khớ cho cả bài thơ, đúng như Hoàng Trung Thông đã nhận xét: “Với chữ “hồng” đó, có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm nhân ái, lạc quan Bác Hồ“. Chữ “hồng” cũng góp phần tạo nên chất hội hoạ cho bài thơ, khắc hoạ được một bức tranh có cảnh vật có con người, có gam màu tối sáng. Như vậy Bác Hồ đã vượt lên trên cái cảnh ngộ khổ đau buồn bã của bản thân để hướng tâm hồn mình đến quan tâm chia sẻ với niềm vui giản dị của cô gái là xay ngô nơi xóm núi. Mới biết mọi vui buồn sướng khổ của chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều khi không thể giải thích được bằng cảnh ngộ riêng của Người mà phải căn cứ vào cảnh ngộ của người khác; của nhân dân, của nhân loại. Đây là một tấm lòng nhân đạo lớn đã đạt đến mức “nâng niu tất cả chỉ quên mình”.

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”


Kết Luận:

“Chiều tối” là một bài thơ nhỏ mà đã thể hiện một phong cách lớn: phong cách Bác Hồ:

“Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ tình yêu của bốn phương”


Bài thơ đã toả sáng một tấm lòng nhân đạo bao la. Chính tấm lòng ấy đã làm cho bài thơ “Chiều tối” không phải là kết thúc bằng hình ảnh bóng đêm tăm tối mà bừng sáng một ngọn lửa hồng ấm áp.

5422

(Chiều tối - Ảnh minh họa)
Bài mẫu: Phân tích "Chiều tối" đạt giải HSG thành phố 2007

“Chiều tối” là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng – cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)


Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)


“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

… còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.


Bài phân tích của bạn Nguyễn Nguyễn Thái Bảo, Lớp 11D2 khối chuyên ngữ, trường THPT chuyên Hùng Vương – Thành phố Việt Trì – tỉnh Phú Thọ
(Giải nhất cuộc thi HSG toàn thành phố năm 2007).
 

Đính kèm

  • chieu toi.jpg
    chieu toi.jpg
    7.2 KB · Lượt xem: 92
Từ khóa
chieu toi ho chi minh phân tích chiều tối hay nhất tìm hiểu bài chiều tối
918
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top