Đề cương Tổng hợp kiến thức bài thơ Tiểu đội xe không kính

Đề cương  Tổng hợp kiến thức bài thơ Tiểu đội xe không kính

Kiến thức, phân tích đọc hiểu, dạng đề nghị luận văn học lẫn nghị luận xã hội về bài thơ Tiểu đội xe không kính, đầy đủ, trọn vẹn, chính xác nhất

VĂN BẢN: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

( Phạm Tiến Duật)




I- KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật ( 1941 – 2007), quê ở Phú Thọ. Ông là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, từng sống và làm việc ở binh đoàn vận tải Trường Sơn. Sau 1975, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.
- Đặc điểm sáng tác : Phạm Tiến Duật thường viết về người lính và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mĩ gian khổ, hào hùng. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện cái tôi trữ tình trẻ trung, ngang tàng, tinh nghịch, hóm hỉnh mà rất sâu sắc.
- Tác phẩm chính : Vầng trăng quầng lửa ( 1970), Thơ một trặng đường ( 1971). Ở hai đầu núi (1981), Nhóm lửa (1996)…
Năm 1970. Ông đạt giải Nhất trong cuộc thi Thơ của báo Văn nghệ; năm 2001 được tặng giải thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật;; 2012, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vể văn học nghệ thuật
2, Văn bảna) Hoàn cảnh sáng tác, vị trí
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn gay go, khốc liệt nhất. Bài thơ được in trong tập Vầng trăng quầng lửa ( 1970) .
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính ở trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970 cho bài thơ có sự lôi cuốn hấp dẫn riêng.
b, Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp tự sự và miêu tả.
c, Hai hình ảnh nổi bật trong bài thơ: Hình ảnh những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe.
Bố cục: 4 phần
Phần 1: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1,2)
Phần 2: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3,4)
Phần 3: Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,6)
Phần 4: Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7)
d) Nghệ thuật
- Giọng điệu, ngôn ngữ rất gần với lời nói có câu như văn xuôi khiến bài thơ có nhịp thơ, giọng thơ sôi nổi, tinh nghịch, ngang tàng mà vẫn dầy sức sống.
- Bài thơ giàu chất liệu hiện thực, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, giàu sức gợi.
- Chất trữ tình và hình ảnh thơ lãng lạn đan xen chất tự sự làm cho bài thơ có sự lôi cuốn hấp dẫn riêng.
e) Nội dung
Từ việc khắc họa hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không kính trong bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm; bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu mãnh liệt giải phóng Miền Nam.
3, Ý nghĩa nhan đề văn bản“Tiểu đội xe không kính” chính là một hình ảnh khái quát, tượng trưng cho hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh còn từ “bài thơ” là 1 hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho chất thơ, chất thơ của tâm hồn người lính vút lên giữa hiện thực gian khổ này. Việc thêm vào nhan đề từ “ bài thơ” là dụng ý của nhà thơ PTD, qua đó làm nổi bật chủ đề cuả tác phẩm. Chủ đề tác phẩm không dừng lại ở việc khai thác hiện thực gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà chủ yếu nghiêng về việc khai thác chất thơ. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn người lính vút lên giữa hiện thực gian khổ đó. Như vậy, nhan đề bài thơ: ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người lính, tạo nên chất thơ giữa hiện thực gian khổ.
II, ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1, Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1,2)
  • - Xưa nay, xe cộ rất ít đi vào thơ ca, mà nếu có chăng thì cũng được “thi vị hóa” hoặc “lãng mạn hóa” và mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nhưng những chiếc xe không kính được Phạm Tiến Duật đưa vào thơ lại thực đến mức trần trụi
  • “Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
+ Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặc và lối nói khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích, thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe không kính.
+ Đồng thời, gợi tâm trạng vừa xót xa, tiếc nuối với chiếc xe của mình.
+ Các từ phủ định: “không có … không phải … không có” đi liền với các điêp ngữ “bom giật, bom rung” không chỉ mang ý nghĩa khẳng định mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang tàng.
  • -> Hai câu thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy những thương tích của chiến tranh. Nó chính là một bằng chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời đã đi qua
  • - Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
+ “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ.
+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn thoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính
+ Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua .
- Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như xa như ùa vào buồng lái”
+ Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và những cánh sao đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.
+ Điệp từ, điệp ngữ “nhìn thấy … nhìn thấy … thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường
+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”: Gợi liên tưởn đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim
Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương cảu các anh đối với sự nghiệp giải phóng Miền Nam
+ Đặc biệt, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái
=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
2, Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3,4)
Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần giửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
  • - Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.
  • - Cấu trúc lặp: “không có …, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “chưa có …” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
  • - Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính lái xe Trường Sơn
  • - Hình ảnh “phì phéo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường những hiểm nguy, thử thách
  • - Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh … làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy cảu cuộc chiến đấu.
  • => Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
3, Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,6)
Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom, bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
  • - Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về
  • - Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính
+ Là những lời đông viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đính đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
  • - Cách địch nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm tì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
  • - Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất đỗi vội vã. Nhưng cũng chính hạnh phúc hiếm hoi đó đã xóa tan khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt
  • - Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng – đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi
  • - Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu xanh của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần.
+ Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.
4, Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7)
Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khổ thơ cuối bài kết tinh vẻ đpẹ của hình tượng nững chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe:
“Không có kính, rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động:
+ Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính” , “không có đèn”,”không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những thứ quan trọng cần có lại không có, nhưng cái không cần có lại có thừa
+ Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường qua kết cấu đối lập: bom đạn đã làm cho một chiếc xe bình thường và tưởng như không hoạt động được. Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
  • - “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà
  • Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Mọi thứ cảu xe không cò nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước
=> Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.


III- ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP

A, DẠNG ĐỀ ĐỌC HIỂU

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1:


Cho câu thơ “Không có kính rồi xe không có đèn”
a, Chép tiếp các câu thơ trên để hoàn thành đoạn thơ gồm 4 dòng.
c, Đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Hoàn cảnh sáng tác? Nội dung chính của khổ thơ?
c, Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng được dùng với ý nghĩa như thế nào
d, Viết đoạn văn diễn dịch từ 8 đến 10 câu phân tích hình ảnh người lính lái xe trong đoạn thơ. Trong đoạn có sử dụng câu ghép (Phân tích cấu tạo ngữ pháp)
Gợi ý :

b) Đoạn thơ vừa chép trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả PTD sáng tác năm 1969- trong cuộc kháng chiến chống Mĩ .

Nội dung: thể hiện tình yêu tổ quốc thiết tha của người lính lái xe.

c) Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng được dùng với nghĩa chuyển( hoán dụ), chỉ người lính lái xe , chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước ý chí quyết tâm giải phóng miền nam tổ quốc.

d)

Yêu cầu về hình thức: Viết đoạn văn theo lối diễn dịch, khoảng 8-10 câu, có sử dụng câu ghép

Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo các nội dụng sau:

- Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thể hiện tình yêu tổ quốc của người lính lái xe.

Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ ác liệt ( qua hình ảnh những chiếc xe méo mó, biến dạng)

Bất chấp khó khăn, gian khổ hi sinh những chiếc xe vẫn nối nhau thẳng đường ra tiền tuyến.

Những người lính lái xe quả cảm vẫn vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình, c/m, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá

***Đoạn văn tham khảo:

Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969 đã thể hiện rõ hình ảnh những chiếc xe không kính và tình yêu tổ quốc của người lính lái xe(1). Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động(2).Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính” , “không có đèn”,”không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ đồng thời phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường(3) . Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước(4). “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà(5). Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”(6). Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích(7). Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường(8). Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước(9) Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù, trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.(10)

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2:


Có nhà thơ đã viết một câu thơ nghe thật lạ: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”
Câu 1: Câu thơ trên trích trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
Câu 2: Chép chính xác khổ thơ có dòng thơ trên
Câu 3: Từ “chông chênh” trong câu thơ gợi cho em hiểu điều gì về hoàn cảnh sống và chiến đấu của nhân vật trữ tình?
Câu 4: Hãy kể tên các pbtt được sử dụng trong hai câu thơ cuối? Tác dụng?
Câu 5: Cảm nhận của em về đoạn thơ theo lối diễn dịch từ 6 đến 8 câu (Sử dụng lời dẫn trực tiếp và câu cảm thán)-gạch chân và chỉ ra
Gợi ý:

Câu 3:
Từ láy “chông chênh” diễn tả trạng thái đu đưa không vững trắc, gợi ra con đường gập ghềnh khó đi, thể hiện những gian khổ, khó khăn, nguy hiểm của những người lính trên con đường ra mặt trận

Câu 4: Các bptt được sử dụng trong hai câu cuối là

Điệp ngữ “lại đi”

Ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”

Tác dụng: Diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng

Câu 5:

Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn diễn dịch khoảng 6-8 câu theo lối diễn dịch, có sử dụng lời dẫn trực tiếp và câu cảm thán.

Yêu cầu về nội dung:

Câu mở đoạn( câu chủ đề): Đoạn trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã nói lên tình cảm, sự khó khăn vất vả và niềm hi vọng của những người lính lái xe Trường Sơn.

Các câu khai triển:

- Trong phút giây sinh hoạt ngắn ngủi: Họ cùng nhau nấu cơm khi đến bữa, lúc này họ là những người thân ruột thịt trong gia đình với tình cảm ấm cúng, hạnh phúc.

- Tình cảm đồng chí đã hòa thành tình cảm gia đình để họ sống chết có nhau

- Họ tiếp tục cuộc hành trình chiến đấu với bao khó khăn, nguy hiểm chồng chất nhưng với lòng quyết tâm quả cảm, sẵn sàng hi sinh, họ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” vì đó cũng là công việc thường nhật của họ vẫn tiếp tục trên đường đầy mưa bom bão đạn, những đoàn xe vẫn nối nhau trở những người lính, lương thực, thực phẩm ra tiền tuyến.

Biện pháp điệp ngữ “lại đi” và ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”

đã diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng

- Trên những chặng đường ấy, họ vẫn tin ngày mai sẽ chiến thắng.

- Tình đồng chí, đồng đội của họ thật cao cả biết bao!

Câu kết đoạn( 1 câu): Khẳng định lại nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.

Tóm lại, với việc sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, ẩn dụ, từ láy tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn .

B, DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

Đề 1 : Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật


1. Mở bài :

- Phạm Tiến Duật ( 1941 – 2007) là nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng tự nhiên tinh nghịch, tươi trẻ, đã góp phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên thời chống Mĩ, không khí của thời kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt mà phơi phới tin tưởng.

- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang gay go, khốc liệt. Từ việc khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu lãnh liệt giải phóng Miền Nam.

2. Thân bài:

Luận điểm 1: Hình ảnh chiếc xe không kính:


- Những người lái xe giải thích, giới thiệu một cách tự nhiên, chân thực về người bạn đường thủy chung, gắn bó của họ.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Tác giả lí giải những chiếc xe “ không có kính” “ bởi” . “ bom giật, bom rung”, bởi sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh. Hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng điệu thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe không kính.

- Chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe không có kính sao bao chặng đường lăn lộn khó nhọc đã bị bom Mĩ tàn phá, hủy diệt trở nên méo mó, biến dạng:

Không có kính, rồi xe không còn đèn
Không có mui xe, thùng xe không có xước

Điệp ngữ “ không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phù định “ không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận. Mặc dù bị biến dạng, thiếu nhiều điều kiện để bảo vệ người lái nhưng những chiếc xe vẫn băng ra chiến trường. Đó là mình chứng cho sự tàn phá khốc liệt của bom đạn chiến tranh đồng thời là cách khám phá ra chất thơ độc đáo trong hình ảnh những chiếc xe không kính, chất thơ từ hiện thực chiến trường - chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam, để tôn vinh những chiến sĩ lái xe anh hùng.

Luận điểm 2: Hình ảnh những người lính lái xe

Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phấm chất cao đẹp, sức mạnh thinh thần lớn lao của họ.

a, Tư thế ung dung, hiện ngang sẵn sàng ra trận:

- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe TS với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

+
Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.

+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính

+ Thủ pháp liệt kê “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã cho ta thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính laí xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.


- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp ngữ “ nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường

+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “ vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “ con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. . Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng MN

+ Đặc biệt hình ảnh so sánh “ như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.

=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.

b, Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ hiểm nguy của người lính( khổ 3+ 4)

Những gian khổ nguy hiểm đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe TS. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

-
Hình ảnh “gió”, “bụi”, “ mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.

- Cấu trúc lặp: “ không có…, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “ chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe TS

- Hình ảnh so sánh: “ Bụi phun tóc trắng như người già” và “ Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính TS.

- Hình ảnh “ phì phèo châm điếu thuốc” và lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách

- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh…làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giwuax gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.

-> Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

c, Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người lính lái xe( khổ 5+ 6)

Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

-
Hình ảnh “ Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.

- Hình ảnh “ Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:

+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.

+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau

+ Là sự sẻ chia vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.

- Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.


- Các định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạng phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họh coa cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt.

- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng- đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi

- Nghệ thuật ẩn dụ: “ trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ . Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần

- Điệp từ “lại đi lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.

d, Lí tưởng cách mạng của những người lính lái xe.

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phái trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim


  • - “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.
  • Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Mọi thứ cảu xe không cò nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích

+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường

+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước

=> Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.

** Thành công về nghệ thuật:
Với lời thơ mộc mạc gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu ngang tàn, trẻ trung; cách khai thác chất liệu của chiến tranh … nhà thơ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo nên một bài thơ với những hình tượng độc đáo.

3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề

- Từ hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã khắc họa bức tượng đài nghệ thuật về người lái xe Trường Sơn. Đó là những con người sôi nổi trẻ trung, có tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, lạc quan phơi phới. Họ đã vượt lên sự ác liệt của chiến tranh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với khí thế tuổi xuân phơi phới “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.



ĐỀ SỐ 2:


Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về 2 câu thơ:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm

Gợi ý:
- Câu chủ đề: Hoàn cảnh kháng chiến khó khăn và niềm lạc quan tin tưởng của những người lính lái xe.
- Từ láy “chông chênh”: đu đưa không vững chắc ® gợi ra hình ảnh con đường gập gềnh khó đi ® Thể hiện sự gian khổ, khó khăn nguy hiểm trên con đường ra trận của những người lính lái xe.
- Điệp ngữ “lại đi” ® nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận.
- Trên đầu họ, trong tâm hồn họ “trời xanh thêm” chứa chan hy vọng, lạc quan dạt dào. Không một sức mạnh nào của giặc Mỹ có thể ngăn cản ® khẳng định ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, khẳng định tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ.
ĐỀ SỐ 3

Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài:
Ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Bài thơ khép lại bằng bốn câu thể hiện “ý chí … Tổ quốc”
- Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, nay càng trở nên hư hại hơn, vật chất ngày cảng thiếu thốn.
"Không có kính … xước"
- Điệp ngữ “không có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường.
- Nhưng không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kì diệu của những chiếc xe không kính ấy.
- Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng cái xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà còn có một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía trước”.
- Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - sức mạnh của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù.
- Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn, không nản” hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống để tiếp tục tiến lên phía trước hướng về miền Nam thân yêu.
- Trái tim yêu thương, trái tim cam trường của người chiến sĩ lái xe trở thành nhãn tư bài thờ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
- Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.




Đề 4: Phân tích và so sánh hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

1. Mở bài: Cần nêu được:


- Giới thiệu tác giả.

- Giới thiệu hai bài thơ.

- Giới thiệu được vấn đề nghị luận.

Tham khảo mở bài:

- Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì, anh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp Việt Nam tập trung những phẩm chất cao quý nhất của cơn người thời đại.

- Hai bài thơ Đồng chí ( Chính Hữu ) và bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật) giúp ta hiểu sâu sắc hơn về chân dung con người Việt Nam đẹp nhất ấy, những con người đã không tiếc máu xương chiến đấu để giữ gìn nền độc lập dân tộc.

2. Thân bài

a) Cảm nhận người lính trong từng bài thơ

Người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: vẻ đẹp chân dung anh bộ đội Cụ Hồ buổi đầu kháng chiến chống Pháp.

- Đó là những anh bộ đội xuất thân từ nông dân giàu lòng yêu nước. Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn “ Ruộng nương anh …lung lay”.

- Trong gian khổ, thiếu thốn buổi đầu cách mạng ( áo rách, quần vá, chân không giầy những cơn sốt run người …) họ vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, dũng cảm, vượt khó.

- Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thấm thiết:

+ Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về ảnh ngộ xuất thân nghèo khó:.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

+ Tình đồng chí được nảy sinh bởi họ cùng chung mục đích, chung lí tưởng từ đôi người xa lạ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã nhanh chóng tập hợp trung đội quân Cách mạng và quen nhau, rồi cùng chung nhiệm vụ, chung chiến hào.

+ Tình đồng chí nảy nở và càng bền chặt khi họ cùng chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ: “ đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong gian khổ thiếu thốn buổi đầu cách mạng, họ tìm đến bên nhau, chia nhau từng hơi ấm yêu thương từ tấm chăn mỏng, thấu hiểu, đồng cảm, kết thành đôi tri kỉ rồi trở thành Đồng chí.

+ Là đồng chí, họ luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau nơi chiến hào đánh giặc:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Ba câu thơ kết là bức họa tuyệt đẹp về hình ảnh hai người lính canh gác bên nhau trong cái hoang vu bát ngát của núi rừng Việt Bắc. Mặc cho cái lạnh thấm vào da thịt, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau chung một chiến hào.

Tình đồng đội là sức mạnh tinh thần kì diệu nhất để các anh vững vàng tay súng bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.

* Hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vô cùng ác lieejtm người lính đã ngời lên phẩm chất cao đẹp.

- Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, coi thường hiểm nguy.

- Tình đồng chí đồng đội cao đẹp, gắn bó keo sơn.

- Tình yêu Tổ quốc thiết tha và ý chí chiến đấu vì Miền Nam ruột thịt.

b) Điểm giống và khác nhau về hình ảnh người lính trong hai bài thơ

* Điểm giống nhau:

- Người lính trong hai câu thơ đều có những phẩm chất cao quý của anh bộ đội Cụ Hồ

+ Lòng yêu nước thiết tha, sự dũng cảm, can trường

+ Tinh thần lạc quan, lãng mạn, yêu đời

+ Tình đồng chí đồng đội thiêng liêng cao đẹp.

- Bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn, tìm ra chất thơ ngay trong những chi tiết đời thường đã tạo ra chân dung người lính chân thực nhưng cũng rất lãng mạn.

* Điểm khác nhau:

- Hoàn cảnh của hai cuộc kháng chiến khác nhau. Cuộc kháng chiến chống Pháp buổi đầu, người kính gặp muôn vàn gian khổ, thiếu thốn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ. Họ phải chịu sự khốc liệt của bom đạn chiến tranh, sự tàn bạo dã man của kẻ thù.

- Tiếp nối vẻ đẹp của người lính thời chống Pháp, người lính thời chống Mĩ đã nâng tình cảm đồng chí lên thành tình cảm gia đình ruột thịt để họ có thêm sức mạnh quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.

- Ngôn ngữ thơ trong bài Đồng chí giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày của những người lính nông dân, cảm xúc dồn nén, hình ảnh cô đọng ,hàm súc. Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính , người lính trong thời chống Mĩ lại hiện lên sinh động qua ngòi bút trẻ trung, ngôn ngữ hóm hỉnh, ngang tàn, đậm chất khẩu ngữ …

3. Kết bài :

- Khẳng định : lòng yêu nước và sự quyết tâm chống giặc ngoại xâm là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam xưa nay. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, vẻ đẹp đó được tỏa sáng và phát huy trong hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.

- Liên hệ bài học: Thế hệ cháu con tiếp nối cha ông, giữ gìn dất nước tươi đẹp và sống có trách nhiệm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.

C, DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Đề 1: Viết đoạn văn khoảng hơn 200 chữ theo lối tổng- phân- hợp trình bày cảm nhận, suy nghĩ về lí tưởng sống của người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

1.Yêu cầu:

Về hình thức:


+ Độ dài khoảng 200 chữ tương đương với khoảng trên 20 dòng

+ Trình bày theo lối tổng- phân- hợp

Về nội dung:

+ Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống và chiến đấu hết sức gian khổ, hiểm nguy: bom đạn giặc Mĩ, thời tiết khắc nghiệt( gió, mưa, nắng..)

+ Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn cao quí đáng khâm phục:

. Tư thế ung dung, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi gian khổ

. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết như tình anh em ruột thịt

. Ý chí chiến đấu vì MN ruột thịt.

2. Hướng dẫn viết:

- Cặp câu chủ đề:

+ Câu mở đoạn: Đọc bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD, ta vô cùng cảm phục lí tưởng sống cao đẹp của những người chiến sĩ lái xe.

+ Câu kết: Lí tưởng sống cao đẹp của những người lính lái xe cũng là lí tưởng của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ

- Các câu phát triển đoạn( Các câu khai triển):

+ PTD đặt hình ảnh những người lính trong bài thơ của mình vào một không gian đặc biệt- không gian của chiến tranh.

+ Những người lính làm việc ở binh đoàn vận tải trường Sơn- nơi tập trung nhiều nhất trận mưa bom, bão đạn mà giặc Mĩ trút xuống hòng cắt đứt sự tri viện vào MN.

+ Những chiếc xẻ vận tải lăn lộn trên con đường TS ấybị bom đạn giặc Mĩ tàn phá làm mất kính.

+ Bước lên buồng lái, không có kính mà những chiến sĩ lái xe vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi; Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Với họ việc xe “không có kính”, không ảnh hưởng gì đến tư thế, đến tầm nhìn, họ vẫn hiên ngang đoàng hoàng đối mặt thẳng thắn với những gian khổ, hi sinh. Ngồi trong buồng lái, xe vẫn tiến nhanh về phía trước để họ luôn nhận thấy “ Con đường chạy thẳng vào tim”, các anh vẫn giao hòa trực tiếp với thiên nhiên. Cả thiên nhiên đã đồng hành cùng các anh trên mỗi con đường ra trận, để các anh nhận ra: “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Ngồi trong buồng lái không có kính, bên cạnh những trận mưa bom bão đạn, những người lính còn phải đối mặt trực tiếp với những gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết TS là “Gió vào xoa mắt đắng”, là “ bụi phun tóc trắng như người già” và còn là “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.

+ Những thử thách ấy cứ chồng chất lên để thử thách tinh thần của các anh. Song, dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu, bụi đường có thể nhuộm trắng mái đầu tuổi trẻ, mưa có thể khiến áo quần các anh ướt sũng nhưng các anh không cần quan tâm “ chưa cần rửa, chưa cần thay”.

+ Nhiệt tình cách mạng của các anh là trên hết. Nó được cụ thể hóa bằng độ dài cung đường “ lái trăm cây số nữa”|. Biểu hiện cao đẹp nhất trong lí tưởng sống của các anh còn là lòng yêu TQ, ý chí chiến đấu vì MN thân yêu.

+ Cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe sau bao nhiêu lặn lội đã bị bom đạn giặc Mĩ tàn phá, hủy diệt đến mức trơ trụi: không kính, không đèn, thùng xe xước. Điệp ngữ “không có” ba lần lặp lại như nhân lên khó khăn thử thách với các anh ba lần. Những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích như thế nhưng các anh không chùn bước, bất chấp tất cả, tiến về phương Nam.

+ Các anh lính đã giải thích lí do xe chạy hết sức đơn giản: Vì MN phía trước”. Hơn ai hết, những chiến sĩ hiểu rằng MN đang cần có họ. Điều kiện cần và đủ để chiếc xe ấy chạy: chỉ cần trong xe có một trái tim. Trái tim ấy chứa đựng tình yêu TQ, lòng căm thù giặc sục sôi, khát khao MN giải phóng, chính trái tim các anh đã thắp lên ngọn lửa để xe thẳng tiến về MN. Con đường TS không một ngày, một giờ đứt mạch.



 
  • Like
Reactions: baivanhay
4K
1
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.