Đối tượng của văn học nghệ thuật là toàn bộ đời sống. Văn học nghệ thuật nhằm tái hiện đời sống mọi mặt, trong mọi mối quan hệ, bao trùm đủ mọi hạng người, đủ mọi sự việc trên đời. Phạm vi thể hiện của văn học nghệ thuật là không giới hạn, cũng như đời sống là không giới hạn. Từ xa xưa, A-ri-xtốt đã khẳng định văn học nghệ thuật chính là bắt chước đời sống ngay trong cái bao la muôn màu muôn vẻ, trong sự sinh sôi nảy nở và biến hoá vô cùng tận của đời sống.
Đọc các tác phẩm văn học, dù là sử thi, truyện kí, tiểu thuyết hay thơ trữ tình, dễ dàng nhận ra điều này: không có cái gì diễn ra trong đời sống mà không đáng để cho văn học nghệ thuật quan tâm thể hiện; từ con người cho đến cỏ cây, hoa trái, cầm thú, chim muông, ngày và đêm, xã hội và thiên nhiên, mặt đất và bầu trời, quá khứ và tương lai, chính nghĩa và gian tà, tội ác và trừng phạt, thiên đàng và địa ngục, chiến tranh và hoà bình; hài kịch thần thánh và hài kịch nhân gian... Ánh đuốc của văn học nghệ thuật soi rọi vào tất cả, len lỏi vào mọi biểu hiện của đời sống, mọi ngóc ngách của lòng người.
Trong một tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Tổ quốc và gia đình, tiền tuyến và hậu phương, khách thính và mặt trận, kẻ chạy theo danh lợi và người đi tìm chân lí, kẻ chinh phục và người anh hùng dân tộc, quý tộc và nông dân, cảnh hấp hối và sinh nở, những dạ hội và cuộc săn bắn... hơn 600 nhân vật trong Chiến tranh và hòa bình là bấy nhiêu mẫu người, cảnh đời, sự việc khác nhau. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có tài tử giai nhân và quan lại sai nha, có anh hùng hiệp khách và lũ bán thịt buôn người, có tự tình và báo oán, có nhà chứa và nhà tu, có xuân hạ thu đông, cầm kỳ thi tửu; phong hoa tuyết nguyệt, có hội ngộ, lưu lạc, đoàn viên...
Phan Kế Bính đã có nhận xét một cách khá văn chương: “Kìa như những cảnh tượng của tạo hoá, ảo ảo, huyền huyền, kỳ kỳ, quái quái, nghìn hình muôn trạng, biến hóa vô cùng, ai trông cho hết, ai biết cho đủ, như có văn chương mà biết được hầu như không sót điều gì. Kìa như nhân tình thế thái, nào thiện, nào ác, nào nịnh, nào trung, nào những dạ ngoắt ngoéo khắt khe, nào những thói thâm trầm nham hiểm, ai nói cho xuể, ai kể cho xiết, nhờ có văn chương mà vẽ ra không thiếu một nét nào. Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm hết nơi danh thắng ở thiên hạ, xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay dở của thế gian, sinh ra ở dưới mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh ra trước mấy nghìn năm, cũng đều là nhờ có văn chương cả”. Cảnh sắc tạo hóa, chuyện thế thái nhân tình, những danh lam thắng cảnh, chuyện xưa và nay, tất cả đều được phản ánh vào văn học.
Đời sống muôn màu muôn vẻ, cái mà nhà văn hướng vào trước hết chính là con người, là tính cách là tâm hồn của con người, là những cái gì quy tụ vào con người và làm nên số phận, làm nên ý nghĩa cuộc sống của con người. Nói đối tượng của văn học nghệ thuật là toàn bộ đời sống, rồi lại nói con người mới là đối tượng chủ yếu, đối tượng trung tâm, vẫn không mâu thuẫn, mà chính là phù hợp với thực tiễn văn học từ xưa đến nay. Đọc văn tự sự, sử thi, tiểu thuyết, kịch, cái người ta theo dõi, ghi nhớ là những nhân vật với những hành động, tâm lý, số phận khác nhau. Đọc thơ trữ tình, cái thu hút người đọc là những tâm trạng, những khoảnh khắc tâm hồn, những tình cảm của nhà thơ và cũng là của đông đảo con người nói chung. Trong văn tự sự hay trữ tình, thiên nhiên cũng là đối tượng thể hiện, là nguồn cảm xúc thẩm mĩ quan trọng, nhưng thiên nhiên đi vào văn học là gắn liền với tâm tư tình cảm của con người, con người được soi chiếu vào thiên nhiên, và thiên nhiên âm vang những nỗi niềm của con người.
Phạm vi và trung tâm chú ý của văn học là con người với tư cách là một đơn vị sống cá thể, một cá tính cụ thể, sinh động, không trùng lặp. Khái niệm cá nhân, cá tính là hình thành trong triết học, trong tâm lý học hiện đại cũng có hẳn một ngành là tâm lý học về cá tính. Vấn đề cá tính cũng được đề cập đến trong đạo đức học. Nhưng đối tượng của hình thái ý thức này vẫn không phải là cá tính mà là những quy luật cơ bản của tồn tại hay của tư duy, những quan hệ xã hội giữa người và người, hay là từng kiểu người đại biểu cho những nhóm người về mặt xã hội, kinh tế, chính trị, tâm lý học, đạo đức học. Không có một lãnh vực khoa học nào mà lại chú ý đến cá tính con người chỉ vì đó là những cá tính duy nhất, không lặp lại.
Trong một số khoa học như sử học, có thể có đối tượng là những con người riêng lẻ. Nhưng nhà viết sử có chú trọng đến những đối tượng này cũng chỉ là trên những khía cạnh nhất định: nhân vật lịch sử hiện ra không phải là một cá tính hoàn chỉnh, mà chỉ như một nhà hoạt động xã hội, được miêu tả, xác định và quan tâm trước hết không phải về mặt cá tính, mà về mặt những đóng góp của người ấy vào lịch sử.
Nhà khoa học cốt tìm ra cái chung, trên cơ sở đó tiến hành sự phân loại, xác định các loại hình trong động vật, thực vật, trong xã hội loài người, v.v... Tất nhiên, khoa học cũng tìm hiểu mọi mặt về đời sống con người, nhưng chỉ có thể hướng vào con người toàn diện bằng cách nhận thức từng khía cạnh, từng mặt một. Chẳng hạn, sinh lý học quan tâm đến con người như một cơ thể sinh vật học; tâm lý học quan sát con người như một thực thể tinh thần, cảm xúc ; lô-gíc học thì lấy tư duy làm đối tượng nghiên cứu ; điều khiển học coi con người là một tổ chức tín hiệu sống ; đạo đức học coi con người như một thực thể xã hội, nghiên cứu và đề ra những quy tắc ứng xử giữa người và người; luật học nghiên cứu quyền lợi, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Cộng tất cả các tri thức này lại, cũng chỉ đưa đến một sự hiểu biết trừu tượng về con người, chứ không trực tiếp nắm bắt được những con người như đang sống thực, như là cá tính đang hoạt động, cảm nghĩ nói năng, đi đứng trước mắt ta.
Con người - đối tượng của văn học - được phản ảnh một cách tổng hợp, toàn diện, trong quan hệ mọi mặt, nhưng được tập trung soi rọi trước hết là từ bên trong, không phải về mặt sinh vật học, hay về mặt sinh hoạt chuyên môn. Chính vì đối tượng của văn học không phải con người “chuyên môn” mà con người trong đời sống hằng ngày, trong những mối quan tâm thích thú chung nhất, nên tác phẩm văn học được sự đồng cảm tự nhiên của đông đảo người đọc, không cần phải có kiến thức chuyên sâu mới nhập vào đời sống tinh thần, tình cảm của nhân vật, mới dễ dàng nhận ra và tỏ thái độ trước những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Nếu văn học lấy các nhân vật thầy thuốc, quan tòa, nhà báo, nhà bác học... làm đối tượng thể hiện, thì cũng không cốt đi sâu truyền đạt những kiến thức chuyên môn theo ngành nghề của nhân vật: thể hiện người công nhân, người nông dân trong xưởng máy hay trên cánh đồng hợp tác, nhà văn nếu chìm ngập vào các quá trình sản xuất, sa vào các chi tiết kỹ thuật, thì sẽ không tránh khỏi xa rời chân lý nghệ thuật, rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Dù đi vào đề tài gì, mối quan tâm chính của nhà văn vẫn là xoay quanh vấn đề con người, là số phận, là đường đời của các nhân vật trong những hoàn cảnh, những tình huống khác nhau.
Con người là tổng hòa của những quan hệ xã hội. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật không thể không soi rọi vào các điều kiện xã hội bao bọc và chi phối đời sống của những hạng người khác nhau. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật đồng thời phản ánh xã hội. Như thế, vấn đề con người vốn là vấn đề cốt lõi của văn học, đồng thời cũng là vấn đề xã hội.
Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức của văn học cũng là ở đó. Con người làm ăn sinh sống, vui buồn, hy vọng, lo toan là từ trong một xã hội nhất định, từ sự chung đụng giữa người và người, từ những quan hệ mọi mặt gắn liền và ràng buộc những con người với nhau. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở từ những tình cảm tự nhiên nhất như khát vọng hạnh phúc, tình yêu, tình cảm gia đình, tình bè bạn, tình đồng loại, tất cả đều chịu sự chi phối của xã hội. Trong xã hội cũ, quyền lợi và nguyện vọng của các giai cấp va chạm nhau, giàu sang của người này xây dựng trên những nỗi bất hạnh của kẻ khác... Văn học nghệ thuật quá khứ qua thân phận của một Thúy Kiều, một chị Dậu, một Chí Phèo mà nói lên muôn ngàn kiếp sống trong xã hội có áp bức bóc lột. Tình cảm gia đình, khát vọng hạnh phúc nằm trong phần sâu của tâm hồn con người, từ lâu đã là đối tượng tìm tòi, thể hiện của văn học. Nhưng những chủ đề như là “muôn thuở” ấy sẽ mất đi ý nghĩa sâu xa nếu tách khỏi thân phận của con người, nếu tách khỏi những điều kiện xã hội cụ thể bao quanh con người. Mối tình của Rô-mê-ô và Juy-li-ét, của Trương Chi, của Thuý Kiều sở dĩ day dứt ám ảnh, là vì số phận của tình yêu không tách rời với cuộc đời chung, với số phận của nhân dân trong xã hội cũ. Mối tình của anh Trỗi càng đẹp khi đi đôi với hành động anh hùng và trong những ngày cuối cùng oanh liệt của anh.
Đọc tục ngữ, ca dao, các truyện dân gian là đến với đời sống và tâm hồn nhân dân, hiểu rõ thêm nhân dân ta đã lao động, chiến đấu, sống cuộc sống tinh thần và tình cảm của mình như thế nào. Đọc Truyện Kiều, ta hình dung được bộ mặt của chế độ phong kiến với tất cả bọn sai nha quan lại, bọn đầu trâu mặt ngựa đã chà đạp lên nhân phẩm, tài tình của con người. Đọc Nhật ký trong tù, phơi trần sự thật về các lao tù mà Bác đã trải qua, ta hình dung được bộ mặt xấu xa tham tàn của bọn thống trị Trung Quốc, qua đó càng thấm thía với tấm lòng yêu nước thương dân bao la và những phẩm chất cao đẹp của Bác.
Những sáng tác ấy có giá trị lớn vì chứa đựng sự thực sâu xa của đời sống. Nhân vật Sơn Tinh, Thủy Tinh là những vị thần, nhưng truyện thần thoại chính là được xây dựng từ thực tế lịch sử, khi những công trình đê điều bắt đầu được xây dựng để chống bão lụt từ bao đời đè nặng lên cuộc sống và trí tưởng tượng của nhân dân. Thánh Gióng không phải là thánh, cũng không phải là tên của một người nào đã từng sống thực, mà là biểu tượng của dũng khí đánh đuổi xâm lược của người anh hùng tập thể là dân tộc Việt Nam. Con người có thể có chí đội đá vá trời, đào núi và lấp biển, nhưng không ai có tài hoá đá được, nhưng truyện Vọng Phu vẫn mang được sự thực của cuộc đời, của những đau khổ, của lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
Trong văn nghệ, sáng tạo là bằng tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng dù có bay bổng tinh vi đến đâu cũng là bắt nguồn từ thực tế, từ những yếu tố làm nên cuộc sống hằng ngày, “có bột mới gột nên hồ”. Không có chất bột này, không có chất liệu lấy trong hiện thực đời sống, thì cũng không có chất “hồ” của nghệ thuật, nó kết hợp lại với nhau những cái hình như rời rạc tạm bợ, ngẫu nhiên, nó nối liền keo sơn những cái tưởng vô can, xa lạ thành những người, những cảnh, những tình huống sống động. Tưởng tượng, sáng tạo là bay bổng trên cuộc sống hằng ngày để mà bao quát hết thảy, thu tóm hết thảy và tạo nên một bức tranh đậm đà, mới lạ, hợp với mơ ước của con người hơn.
Văn học là tấm gương của đời sống. Nhưng đời sống bao la, muôn màu muôn vẻ, biến đổi phát triển không ngừng, không có tấm gương nào mà soi cho khắp. Một cuốn phim quay lại tất cả những gì xảy ra trong một đời người là không thể quan niệm được hay nếu có thì cũng không ai có thể bỏ cả cuộc đời mình để xem cái cuốn phim lê thê ấy. Người ta đã tính là muốn ghi lại tất cả những gì đã xảy ra đối với một người, tất cả những cảm giác, ấn tượng, tất cả cái gì đã thoảng qua đầu óc con người, chỉ trong một ngày thôi, thì hàng trăm trang giấy cũng chưa đủ mà làm thế cũng chỉ đẻ ra những cái hết sức rời rạc, chắp vá, luẩn quẩn, vô nghĩa.
Những việc gì đã được ghi lại trong Truyện Kiều? Gia đình Vương viên ngoại đang sống yên vui bỗng xảy ra cơn gia biến. Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, lỗi thề với Kim Trọng, rơi vào lầu xanh của bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, vừa gặp Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư đánh ghen lại rơi vào lầu xanh, được Từ Hải cứu thoát và báo ân báo oán, tưởng kết thúc đời mình ở sông Tiền Đường, cuối cùng gặp lại Kim Trọng trong cuộc đoàn viên, Truyện Kiều là truyện của một cuộc đời. Thế nhưng, cũng như đối với màn ảnh hay sân khấu, những sự việc quan trọng trong mười lăm năm ấy được soi rọi, miêu tả cũng chỉ tính theo số giờ. Nhưng những giờ phút ngắn ngủi này chính là ngưng đọng những vui buồn không thể quên được của cuộc đời “Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm”.
Sáng tác là do một sự thôi thúc từ bên trong. Có thúc đẩy bên trong là do những kích thích từ bên ngoài, từ một vừng trăng, một hạt sương mai, một cảnh chiều tà, cho đến cảnh đất nước tươi đẹp, hùng vĩ, từ bóng dáng yêu kiều của người thương cho đến những hành động cao cả, những con người, những sự đời làm cho ta tin yêu cảm phục hay khinh ghẻ, bất bình... Đó là những cái gắn bó trực tiếp với mình mà mình là người trong cuộc hay chỉ là người chứng kiến, gần gũi hoặc ngẫu nhiên, có những cái đập mạnh ngay từ đầu, có những cái gặp đi gặp lại rồi gây ấn tượng. Sự đời giống như những con sóng lớn nhỏ đến vỗ vào lòng không để ta yên, hay như những hạt phù sa cứ tích tụ dần lâu ngày thành dải đất màu mỡ, chờ đợi, đòi hỏi được gieo trồng. Cứ thế cuộc sống kết tinh và cựa quậy trong ta, với tất cả hương sắc, với tất cả ngọt bùi cay đắng, với tất cả những cái đáng yêu, đáng giận của nó... Ta gọi đó là vốn sống.
Ở văn nghệ sĩ, cái vốn những người và việc, những ấn tượng, tình cảm, tư tưởng có sức ám ảnh day dứt lớn, đòi hỏi được thể hiện, được thoát khỏi trí tưởng tượng mà hiện hình ra ngoài, sống đời sống thực với âm thanh, màu sắc, hình tượng riêng của nó.
Trong bài báo Những nhận xét về chỉ thị kiểm duyệt mới nhất của Phổ, Mác viết: “Chân lý là phổ biến, nó không phải chỉ thuộc riêng tôi, nó thuộc mọi người, nó làm chủ tôi, chứ không phải tôi làm chủ nó”. Điều đó có nghĩa: chân lý là cái mà văn nghệ sĩ phải truy tìm và phục tùng, chứ không tự ý xuyên tạc được. Nghệ sĩ phải “nói bằng ngôn ngữ của bản thân đối tượng” chứ không được vo tròn hay bóp méo đối tượng theo sự tùy tiện chủ quan hay do một sự sắp đặt bên ngoài nào. Học thuyết kinh tế chính trị học cũng như triết học duy vật biện chứng của Mác đã chứng minh một cách không thể chối cãi rằng lịch sử là do con người tạo ra, nhưng lại tuân theo những quy luật tác động một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Cũng như thế, thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là mức độ chân lý đời sống được phản ánh và tái tạo trong đó.
(Sưu tầm tổng hợp)
Đọc các tác phẩm văn học, dù là sử thi, truyện kí, tiểu thuyết hay thơ trữ tình, dễ dàng nhận ra điều này: không có cái gì diễn ra trong đời sống mà không đáng để cho văn học nghệ thuật quan tâm thể hiện; từ con người cho đến cỏ cây, hoa trái, cầm thú, chim muông, ngày và đêm, xã hội và thiên nhiên, mặt đất và bầu trời, quá khứ và tương lai, chính nghĩa và gian tà, tội ác và trừng phạt, thiên đàng và địa ngục, chiến tranh và hoà bình; hài kịch thần thánh và hài kịch nhân gian... Ánh đuốc của văn học nghệ thuật soi rọi vào tất cả, len lỏi vào mọi biểu hiện của đời sống, mọi ngóc ngách của lòng người.
Trong một tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Tổ quốc và gia đình, tiền tuyến và hậu phương, khách thính và mặt trận, kẻ chạy theo danh lợi và người đi tìm chân lí, kẻ chinh phục và người anh hùng dân tộc, quý tộc và nông dân, cảnh hấp hối và sinh nở, những dạ hội và cuộc săn bắn... hơn 600 nhân vật trong Chiến tranh và hòa bình là bấy nhiêu mẫu người, cảnh đời, sự việc khác nhau. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có tài tử giai nhân và quan lại sai nha, có anh hùng hiệp khách và lũ bán thịt buôn người, có tự tình và báo oán, có nhà chứa và nhà tu, có xuân hạ thu đông, cầm kỳ thi tửu; phong hoa tuyết nguyệt, có hội ngộ, lưu lạc, đoàn viên...
Phan Kế Bính đã có nhận xét một cách khá văn chương: “Kìa như những cảnh tượng của tạo hoá, ảo ảo, huyền huyền, kỳ kỳ, quái quái, nghìn hình muôn trạng, biến hóa vô cùng, ai trông cho hết, ai biết cho đủ, như có văn chương mà biết được hầu như không sót điều gì. Kìa như nhân tình thế thái, nào thiện, nào ác, nào nịnh, nào trung, nào những dạ ngoắt ngoéo khắt khe, nào những thói thâm trầm nham hiểm, ai nói cho xuể, ai kể cho xiết, nhờ có văn chương mà vẽ ra không thiếu một nét nào. Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm hết nơi danh thắng ở thiên hạ, xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay dở của thế gian, sinh ra ở dưới mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh ra trước mấy nghìn năm, cũng đều là nhờ có văn chương cả”. Cảnh sắc tạo hóa, chuyện thế thái nhân tình, những danh lam thắng cảnh, chuyện xưa và nay, tất cả đều được phản ánh vào văn học.
Đời sống muôn màu muôn vẻ, cái mà nhà văn hướng vào trước hết chính là con người, là tính cách là tâm hồn của con người, là những cái gì quy tụ vào con người và làm nên số phận, làm nên ý nghĩa cuộc sống của con người. Nói đối tượng của văn học nghệ thuật là toàn bộ đời sống, rồi lại nói con người mới là đối tượng chủ yếu, đối tượng trung tâm, vẫn không mâu thuẫn, mà chính là phù hợp với thực tiễn văn học từ xưa đến nay. Đọc văn tự sự, sử thi, tiểu thuyết, kịch, cái người ta theo dõi, ghi nhớ là những nhân vật với những hành động, tâm lý, số phận khác nhau. Đọc thơ trữ tình, cái thu hút người đọc là những tâm trạng, những khoảnh khắc tâm hồn, những tình cảm của nhà thơ và cũng là của đông đảo con người nói chung. Trong văn tự sự hay trữ tình, thiên nhiên cũng là đối tượng thể hiện, là nguồn cảm xúc thẩm mĩ quan trọng, nhưng thiên nhiên đi vào văn học là gắn liền với tâm tư tình cảm của con người, con người được soi chiếu vào thiên nhiên, và thiên nhiên âm vang những nỗi niềm của con người.
Phạm vi và trung tâm chú ý của văn học là con người với tư cách là một đơn vị sống cá thể, một cá tính cụ thể, sinh động, không trùng lặp. Khái niệm cá nhân, cá tính là hình thành trong triết học, trong tâm lý học hiện đại cũng có hẳn một ngành là tâm lý học về cá tính. Vấn đề cá tính cũng được đề cập đến trong đạo đức học. Nhưng đối tượng của hình thái ý thức này vẫn không phải là cá tính mà là những quy luật cơ bản của tồn tại hay của tư duy, những quan hệ xã hội giữa người và người, hay là từng kiểu người đại biểu cho những nhóm người về mặt xã hội, kinh tế, chính trị, tâm lý học, đạo đức học. Không có một lãnh vực khoa học nào mà lại chú ý đến cá tính con người chỉ vì đó là những cá tính duy nhất, không lặp lại.
Trong một số khoa học như sử học, có thể có đối tượng là những con người riêng lẻ. Nhưng nhà viết sử có chú trọng đến những đối tượng này cũng chỉ là trên những khía cạnh nhất định: nhân vật lịch sử hiện ra không phải là một cá tính hoàn chỉnh, mà chỉ như một nhà hoạt động xã hội, được miêu tả, xác định và quan tâm trước hết không phải về mặt cá tính, mà về mặt những đóng góp của người ấy vào lịch sử.
Nhà khoa học cốt tìm ra cái chung, trên cơ sở đó tiến hành sự phân loại, xác định các loại hình trong động vật, thực vật, trong xã hội loài người, v.v... Tất nhiên, khoa học cũng tìm hiểu mọi mặt về đời sống con người, nhưng chỉ có thể hướng vào con người toàn diện bằng cách nhận thức từng khía cạnh, từng mặt một. Chẳng hạn, sinh lý học quan tâm đến con người như một cơ thể sinh vật học; tâm lý học quan sát con người như một thực thể tinh thần, cảm xúc ; lô-gíc học thì lấy tư duy làm đối tượng nghiên cứu ; điều khiển học coi con người là một tổ chức tín hiệu sống ; đạo đức học coi con người như một thực thể xã hội, nghiên cứu và đề ra những quy tắc ứng xử giữa người và người; luật học nghiên cứu quyền lợi, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Cộng tất cả các tri thức này lại, cũng chỉ đưa đến một sự hiểu biết trừu tượng về con người, chứ không trực tiếp nắm bắt được những con người như đang sống thực, như là cá tính đang hoạt động, cảm nghĩ nói năng, đi đứng trước mắt ta.
Con người - đối tượng của văn học - được phản ảnh một cách tổng hợp, toàn diện, trong quan hệ mọi mặt, nhưng được tập trung soi rọi trước hết là từ bên trong, không phải về mặt sinh vật học, hay về mặt sinh hoạt chuyên môn. Chính vì đối tượng của văn học không phải con người “chuyên môn” mà con người trong đời sống hằng ngày, trong những mối quan tâm thích thú chung nhất, nên tác phẩm văn học được sự đồng cảm tự nhiên của đông đảo người đọc, không cần phải có kiến thức chuyên sâu mới nhập vào đời sống tinh thần, tình cảm của nhân vật, mới dễ dàng nhận ra và tỏ thái độ trước những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Nếu văn học lấy các nhân vật thầy thuốc, quan tòa, nhà báo, nhà bác học... làm đối tượng thể hiện, thì cũng không cốt đi sâu truyền đạt những kiến thức chuyên môn theo ngành nghề của nhân vật: thể hiện người công nhân, người nông dân trong xưởng máy hay trên cánh đồng hợp tác, nhà văn nếu chìm ngập vào các quá trình sản xuất, sa vào các chi tiết kỹ thuật, thì sẽ không tránh khỏi xa rời chân lý nghệ thuật, rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Dù đi vào đề tài gì, mối quan tâm chính của nhà văn vẫn là xoay quanh vấn đề con người, là số phận, là đường đời của các nhân vật trong những hoàn cảnh, những tình huống khác nhau.
Con người là tổng hòa của những quan hệ xã hội. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật không thể không soi rọi vào các điều kiện xã hội bao bọc và chi phối đời sống của những hạng người khác nhau. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật đồng thời phản ánh xã hội. Như thế, vấn đề con người vốn là vấn đề cốt lõi của văn học, đồng thời cũng là vấn đề xã hội.
Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức của văn học cũng là ở đó. Con người làm ăn sinh sống, vui buồn, hy vọng, lo toan là từ trong một xã hội nhất định, từ sự chung đụng giữa người và người, từ những quan hệ mọi mặt gắn liền và ràng buộc những con người với nhau. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở từ những tình cảm tự nhiên nhất như khát vọng hạnh phúc, tình yêu, tình cảm gia đình, tình bè bạn, tình đồng loại, tất cả đều chịu sự chi phối của xã hội. Trong xã hội cũ, quyền lợi và nguyện vọng của các giai cấp va chạm nhau, giàu sang của người này xây dựng trên những nỗi bất hạnh của kẻ khác... Văn học nghệ thuật quá khứ qua thân phận của một Thúy Kiều, một chị Dậu, một Chí Phèo mà nói lên muôn ngàn kiếp sống trong xã hội có áp bức bóc lột. Tình cảm gia đình, khát vọng hạnh phúc nằm trong phần sâu của tâm hồn con người, từ lâu đã là đối tượng tìm tòi, thể hiện của văn học. Nhưng những chủ đề như là “muôn thuở” ấy sẽ mất đi ý nghĩa sâu xa nếu tách khỏi thân phận của con người, nếu tách khỏi những điều kiện xã hội cụ thể bao quanh con người. Mối tình của Rô-mê-ô và Juy-li-ét, của Trương Chi, của Thuý Kiều sở dĩ day dứt ám ảnh, là vì số phận của tình yêu không tách rời với cuộc đời chung, với số phận của nhân dân trong xã hội cũ. Mối tình của anh Trỗi càng đẹp khi đi đôi với hành động anh hùng và trong những ngày cuối cùng oanh liệt của anh.
Đọc tục ngữ, ca dao, các truyện dân gian là đến với đời sống và tâm hồn nhân dân, hiểu rõ thêm nhân dân ta đã lao động, chiến đấu, sống cuộc sống tinh thần và tình cảm của mình như thế nào. Đọc Truyện Kiều, ta hình dung được bộ mặt của chế độ phong kiến với tất cả bọn sai nha quan lại, bọn đầu trâu mặt ngựa đã chà đạp lên nhân phẩm, tài tình của con người. Đọc Nhật ký trong tù, phơi trần sự thật về các lao tù mà Bác đã trải qua, ta hình dung được bộ mặt xấu xa tham tàn của bọn thống trị Trung Quốc, qua đó càng thấm thía với tấm lòng yêu nước thương dân bao la và những phẩm chất cao đẹp của Bác.
Những sáng tác ấy có giá trị lớn vì chứa đựng sự thực sâu xa của đời sống. Nhân vật Sơn Tinh, Thủy Tinh là những vị thần, nhưng truyện thần thoại chính là được xây dựng từ thực tế lịch sử, khi những công trình đê điều bắt đầu được xây dựng để chống bão lụt từ bao đời đè nặng lên cuộc sống và trí tưởng tượng của nhân dân. Thánh Gióng không phải là thánh, cũng không phải là tên của một người nào đã từng sống thực, mà là biểu tượng của dũng khí đánh đuổi xâm lược của người anh hùng tập thể là dân tộc Việt Nam. Con người có thể có chí đội đá vá trời, đào núi và lấp biển, nhưng không ai có tài hoá đá được, nhưng truyện Vọng Phu vẫn mang được sự thực của cuộc đời, của những đau khổ, của lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
Trong văn nghệ, sáng tạo là bằng tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng dù có bay bổng tinh vi đến đâu cũng là bắt nguồn từ thực tế, từ những yếu tố làm nên cuộc sống hằng ngày, “có bột mới gột nên hồ”. Không có chất bột này, không có chất liệu lấy trong hiện thực đời sống, thì cũng không có chất “hồ” của nghệ thuật, nó kết hợp lại với nhau những cái hình như rời rạc tạm bợ, ngẫu nhiên, nó nối liền keo sơn những cái tưởng vô can, xa lạ thành những người, những cảnh, những tình huống sống động. Tưởng tượng, sáng tạo là bay bổng trên cuộc sống hằng ngày để mà bao quát hết thảy, thu tóm hết thảy và tạo nên một bức tranh đậm đà, mới lạ, hợp với mơ ước của con người hơn.
Văn học là tấm gương của đời sống. Nhưng đời sống bao la, muôn màu muôn vẻ, biến đổi phát triển không ngừng, không có tấm gương nào mà soi cho khắp. Một cuốn phim quay lại tất cả những gì xảy ra trong một đời người là không thể quan niệm được hay nếu có thì cũng không ai có thể bỏ cả cuộc đời mình để xem cái cuốn phim lê thê ấy. Người ta đã tính là muốn ghi lại tất cả những gì đã xảy ra đối với một người, tất cả những cảm giác, ấn tượng, tất cả cái gì đã thoảng qua đầu óc con người, chỉ trong một ngày thôi, thì hàng trăm trang giấy cũng chưa đủ mà làm thế cũng chỉ đẻ ra những cái hết sức rời rạc, chắp vá, luẩn quẩn, vô nghĩa.
Những việc gì đã được ghi lại trong Truyện Kiều? Gia đình Vương viên ngoại đang sống yên vui bỗng xảy ra cơn gia biến. Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, lỗi thề với Kim Trọng, rơi vào lầu xanh của bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, vừa gặp Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư đánh ghen lại rơi vào lầu xanh, được Từ Hải cứu thoát và báo ân báo oán, tưởng kết thúc đời mình ở sông Tiền Đường, cuối cùng gặp lại Kim Trọng trong cuộc đoàn viên, Truyện Kiều là truyện của một cuộc đời. Thế nhưng, cũng như đối với màn ảnh hay sân khấu, những sự việc quan trọng trong mười lăm năm ấy được soi rọi, miêu tả cũng chỉ tính theo số giờ. Nhưng những giờ phút ngắn ngủi này chính là ngưng đọng những vui buồn không thể quên được của cuộc đời “Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm”.
Sáng tác là do một sự thôi thúc từ bên trong. Có thúc đẩy bên trong là do những kích thích từ bên ngoài, từ một vừng trăng, một hạt sương mai, một cảnh chiều tà, cho đến cảnh đất nước tươi đẹp, hùng vĩ, từ bóng dáng yêu kiều của người thương cho đến những hành động cao cả, những con người, những sự đời làm cho ta tin yêu cảm phục hay khinh ghẻ, bất bình... Đó là những cái gắn bó trực tiếp với mình mà mình là người trong cuộc hay chỉ là người chứng kiến, gần gũi hoặc ngẫu nhiên, có những cái đập mạnh ngay từ đầu, có những cái gặp đi gặp lại rồi gây ấn tượng. Sự đời giống như những con sóng lớn nhỏ đến vỗ vào lòng không để ta yên, hay như những hạt phù sa cứ tích tụ dần lâu ngày thành dải đất màu mỡ, chờ đợi, đòi hỏi được gieo trồng. Cứ thế cuộc sống kết tinh và cựa quậy trong ta, với tất cả hương sắc, với tất cả ngọt bùi cay đắng, với tất cả những cái đáng yêu, đáng giận của nó... Ta gọi đó là vốn sống.
Ở văn nghệ sĩ, cái vốn những người và việc, những ấn tượng, tình cảm, tư tưởng có sức ám ảnh day dứt lớn, đòi hỏi được thể hiện, được thoát khỏi trí tưởng tượng mà hiện hình ra ngoài, sống đời sống thực với âm thanh, màu sắc, hình tượng riêng của nó.
Trong bài báo Những nhận xét về chỉ thị kiểm duyệt mới nhất của Phổ, Mác viết: “Chân lý là phổ biến, nó không phải chỉ thuộc riêng tôi, nó thuộc mọi người, nó làm chủ tôi, chứ không phải tôi làm chủ nó”. Điều đó có nghĩa: chân lý là cái mà văn nghệ sĩ phải truy tìm và phục tùng, chứ không tự ý xuyên tạc được. Nghệ sĩ phải “nói bằng ngôn ngữ của bản thân đối tượng” chứ không được vo tròn hay bóp méo đối tượng theo sự tùy tiện chủ quan hay do một sự sắp đặt bên ngoài nào. Học thuyết kinh tế chính trị học cũng như triết học duy vật biện chứng của Mác đã chứng minh một cách không thể chối cãi rằng lịch sử là do con người tạo ra, nhưng lại tuân theo những quy luật tác động một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Cũng như thế, thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là mức độ chân lý đời sống được phản ánh và tái tạo trong đó.
(Sưu tầm tổng hợp)
Sửa lần cuối: