Về quan niệm “hiền tài là nguyên khí quốc gia”

Về quan niệm “hiền tài là nguyên khí quốc gia”

Văn Học
Văn Học
Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà càng lên cao; nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí”.

Đây là tư tưởng quan trọng nhất về văn hoá, giáo dục của Thân Nhân Trung được trình bày tập trung, khá rõ ràng trong bài ký đề tên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442).

Tư tưởng trên, trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước.

Trong bài kí, Thân Nhân Trung không nói nhân tài mà nói hiền tài. Hiền tài theo quan niệm người xưa, cũng như của tác giả là người có cả tài năng, không những học rộng hiểu nhiều, có đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân; có cả đức hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh cho bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước. Đó là người “lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học, làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thành danh, mến mộ khí tiết…”. Về khái niệm “nguyên khí”, trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách đề cập. Sách “Bạch Hổ Thông” viết: “Địa giả, nguyên khí sơ sinh, vạn vật chi tổ” (Đất là nơi sản sinh ra nguyên khí, tổ của muôn loài), xem nguyên khí là khí đại hoá lớn lao. Còn sách “Đường thư” viết: Liễu Công Độ thiệp nhiếp sinh. Thường viết: Ngô sở vô thuật, bất dĩ nguyên khí tả hỉ nộ nhĩ” (Liễu Công Độ giỏi việc dưỡng sinh. Ông thường nói : Ta vốn không có thuật gì, chẳng qua biết dựa vào tinh khí mà điều hoà sự yêu ghét, mừng, giận mà thôi), xem nguyên khí là để chỉ tinh khí của người ta. Thân Nhân Trung đã mượn nghĩa từ sách Đường thư: nguyên khí chính là tinh khí và vận dụng một cách sáng tạo.

Có thể nói, trong lịch sử văn hoá, giáo dục trước đời Lê Thánh Tông, chưa có ai đặt vấn đề như ông. Người ta không ai là không biết mối quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Nhưng còn coi người “hiền tài là nguyên khí quốc gia” thì phải ghi nhận bắt đầu từ Thân Nhân Trung, một câu tổng kết chính xác cho cả một đường lối chiến lược về văn hoá, giáo dục của bất cứ một thời đại nào, một chính thể nào.

Tư tưởng ấy, một lần nữa được nhắc lại trong bài kí đề tên bia Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): “Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thanh bình” và “muốn có nền giáo hoá, đất nước thịnh trị thì cái gốc của nó là phải có hiền tài”.

Quan niệm “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” do Thân Nhân Trung đưa ra được các vương triều phong kiến Việt Nam từ triều vua Lê Thánh Tông trở đi coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hoá, giáo dục.

“Nhân tài thịnh, chính trị lên cao, vận nước nhà rực rỡ vô cùng, càng sâu xa càng lâu dài, mà càng sáng sủa lớn lao thêm” (Bia số 4, khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận 7, 1467).

“Quốc gia có người tài cũng như thân thể con người có nguyên khí. Nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu dài, người tài đông đảo thì quốc gia được thái bình vững chãi “(Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616).

Quan niệm như thế là khẳng định hiền tài định đoạt vận mệnh đất nước, dân tộc. Tư tưởng này dẫn đến sự cầu hiền.

Thứ hai, tư tưởng nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc “chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí”.

Vai trò của nhà nước, người đứng đầu chế độ phong kiến là nhà vua. Muốn bồi dưỡng được hiền tài, theo Thân Nhân Trung người trên (nhà vua) phải biết chăm lo cho dân, lo việc nước, khiến cho nước mạnh dân giàu. “Hiền tài phồn thịnh vốn có quan hệ đến khí hóa của trời đất và cốt ở cái gốc giáo hoá của thánh nhân”. Nói sự giáo hoá của thánh nhân là nói về sự quan tâm đặc biệt của nhà vua đối với việc giáo dưỡng tuyển chọn và đãi ngộ nhân tài. Thời đại của Thân Nhân Trung sống, Lê Thánh Tông là một minh quân có tầm nhìn chính trị, có trình độ văn hoá, có tinh thần yêu nước thương dân, chú trọng đến đào tạo và sử dụng hiền tài trong xây dựng đất nước đưa quốc gia Đại Việt trở thành thịnh trị. Việc đào tạo người hiền tài, sử dụng người tài của vua Lê Thánh Tông được phản ánh rõ nét ở 12 khoa thi Tiến sĩ lấy đỗ 502 người, trong đó có 10 người đỗ đệ nhất giáp, đệ nhất danh, và huy động các hiền tài tham gia công cuộc chấn hưng mạnh mẽ nước nhà. Nhà vua còn cho dựng bia khắc tên những người thi đỗ và đặt ở Quốc Tử Giám.

Có thể nói, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò người trí thức lại được đề cao, đãi ngộ như đời Lê Thánh Tông. Chính vì thế, trong gần 40 năm làm vua, Lê Thánh Tông đã đưa nhà Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hồi thế kỷ XV. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là vua “anh hùng, tài lược”.

Tiếp thu tinh hoa văn hoá truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà văn hoá, giáo dục lớn, Người suốt đời chăm lo cho độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho nên, đất nước vừa giành độc lập, Người đặt giáo dục là một trong nhiệm vụ hàng đầu để chấn hưng đất nước. Người chỉ ra rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi mọi người Việt Nam có quyền lợi và bổn phận học kiến thức mới để xây dựng nước nhà; nhất là các cháu thiếu niên phải ra sức học tập để cho non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam được vẻ vang sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Bên cạnh việc chăm lo giáo dục đào tạo Người còn sử dụng chính sách chiêu hiền tài. Người đưa vào chính phủ lâm thời, các bộ, một số trí thức là những bậc nhân sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, các luật sư, bác sĩ, kỹ sư Tây học như Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Tùng…Vận động một số trí thức yêu nước đang nghiên cứu, làm việc ở Châu Âu như Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ…về nước tham gia kháng chiến. Rồi các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời ấy cũng đứng vào hàng ngũ dưới lá cờ của Bác như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đình Thi…Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đội ngũ trí thức ấy đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của dân tộc. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiền tài. Người đặt nhiệm vụ phải đào tạo con người Việt Nam mới vừa hồng vừa chuyên (có đủ đức tài) đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người coi văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể và có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của một đất nước, một dân tộc. Trên tinh thần ấy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “khoa học công nghệ là động lực, giáo dục và đào tạo là nhân tố cơ bản để tạo ra động lực” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành T.Ư khoá IX) cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục, đào tạo và sử dụng hiền tài đã chấn hưng nền giáo dục nước nhà, phát huy bản lĩnh và tài năng, nhận đúng vai trò của người hiền tài trong tiến trình giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, phồn vinh là truyền thống quí báu của cha ông ta được Thân Nhân Trung nêu lên cách đây hơn 500 năm.

Ngày hôm nay, đất nước đang chuyển mình trong hoàn cảnh mới của dân tộc và thời đại, đang hội nhập kinh tế, chuẩn bị nội lực, thực lực cho kinh tế Việt Nam khi nước ta hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và lĩnh vực giáo dục, đào tạo, làm sao để Việt Nam có một nền giáo dục chất lượng cao, chính sách sử dụng nhân tài như thế nào để người tài có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là những vấn đề nóng nhất mà chúng ta cần quan tâm để xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khoá mở cửa vào tương lai dân tộc. Văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp chung của đất nước. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài

Theo TS BÙI QUANG TUYẾN
Trường Đại học Phú Xuân-Huế
 
Từ khóa
dan toc hiền tài hiền tài là nguyên khí của quốc gia khóa học nguyên khí tri thức tương lai dân tộc van hoa đất nước
177
0
1

Văn Học

Viết cùng VHT
19/8/19
105
29
17,984
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
859,755
Thân Nhân Trung là ai?

Thân Nhân Trung (1419-1499), người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, nay là thôn Yên Ninh, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ông làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập nội phụ chính,Tế tửu Quốc Tử giám; được vua Lê Thánh Tông vời vào hoàng cung dạy học cho các hoàng tử, nhà thơ tài năng trong hội Tao Đàn Nhị thập bát tú và được vua Lê Thánh Tông phong là Phó Đô Nguyên suý.

7e6e02544e15a74bfe04-1642823091.jpg

Thân Nhân Trung là danh nhân lịch sử, văn hóa xuất sắc của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV

Dưới triều Lê Thánh Tông, nhà nước phong kiến độc lập Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới trong đó mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá giáo dục đều đạt tới đỉnh cao. Cuộc gặp gỡ giữa "minh quân" Lê Thánh Tông và "lương tướng" Thân Nhân Trung quả không phải là diều dễ gì trong cuộc đời một con người, nhất là dưới chế độ phong kiến và đây là bước ngoặt quyết định sự nghiệp của Thân Nhân Trung.

Từ đây, ông sẽ mang hết tâm lực của mình ra để đền đáp tấm ơn tri ngộ đối với vị "vua hiền" và ngược lại vị vua hiền cũng đã biết dùng đúng tài năng của ông để ông trở thành một danh thần về văn hoá và chính trị nổi tiếng một thời.

Thân Nhân Trung được triều đình tin dùng trong việc tuyển chọn nhân tài và đào tạo nhân tài cùng các công việc quan trọng khác trong triều. Các kỳ thi hương, thi hội ông đều có đóng góp tích cực, việc xem xét bài vở của các thí sinh, vua đều giao cho Thân Nhân Trung xem xét đọc duyệt để trình lên.

Uy tín và vai trò của Thân Nhân Trung càng được đề cao vào năm 1493, khi ông được giữ chức Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám . Với trọng trách này, Thân Nhân Trung lại càng phải tăng thêm trách nhiệm chăm lo vun trồng cho sự nghiệp nhân tài của đất nước.

Ý nghĩa câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”

Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) phụng mệnh vua trao, Thân Nhân Trung đã soạn bài văn bia “Đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442)”. Trong bài văn bia này, Thân Nhân Trung đã khéo vận dụng tri thức tiền nhân, đề cao nguyên khí quốc gia gắn với việc kén chọn và sử dụng nhân tài của các bậc đế vương và đưa ra chân lý bất hủ: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”.

cau-noi-noi-tieng-the-hien-tu-tuong-trong-dung-hien-tai-gan-voi-su-hung-thinh-cua-dat-nuoc-duoc-trich-trong-bai-van-bia-ghi-danh-tien-si-tai-van-mieu-quoc-tu-giam-con-nguyen-gia-tri-den-ngay-nay-1642823091.jpg

Câu nói nổi tiếng thể hiện tư tưởng trọng dụng hiền tài gắn với sự hưng thịnh của đất nước được trích trong bài văn bia ghi danh tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Hiền tài tức là những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, có bản tính hiền lương, có học thức uyên sâu và bản lĩnh, tài năng hơn người. Nguyên khí là khí chất ban đầu, trong sạch, vững mạnh, làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật. Hiền tài cũng là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông núi, của truyền thống dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt là nguồn lực tinh hoa nhất của mỗi dân tộc, đó chính là hiền tài.

Giữa hiền tài và vận mệnh đất nước có mối quan hệ khăng khít, bền chặt. Bởi người hiền tài có vai trò quyết định đến sự thịnh – suy của một đất nước. Họ không những họ đóng vai trò quyết định trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, giữ yên bề cõi mà còn có đống góp rất lớn về mặt giáo dục, kinh tế, ngoại gia, văn hóa thuật… Mỗi một hiền nhân đều là một vì sao sáng chói về đạo đức và tài năng.

Trong bất kì thời đại nào, hiền tài cũng đều là lực lượng then chốt, nắm giữ và thực hiện các trọng trách mà đất nước giao phó. Lúc đất nước có chiến tranh, họ xung phong xông pha trận mạc, giết giặc lập công, giữ yên bờ cõi. Công trạng lẫy lừng của các hiền nhân như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiếp, Ngôi Thời Nhậm,… đời đời còn ghi nhớ. Lúc đất nước hoà bình, họ đem sức mình dựng xây đất nước, phát triển văn hoá, giáo dục, kinh tế đất nước cốt đem lại cuộc sống thái bình, phồn thịnh cho muôn dân. Những hiền sĩ sống hết mình vì đất nước như: Nguyễn Hiền, Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An,… tên tuổi đến nay vẫn còn vang danh.

Đất nước có nhiều hiền tài, danh sĩ thì xã hội hưng thịnh, văn hoá nghiêm trang. Ngược lại, hiền tài cạn kiệt hoặc có mà quy ẩn lánh đời bởi bất mãn đối với chính cương thì đất nước tất suy yếu. Lịch sử mấy nghìn năm của nước ta đã chứng minh rõ ràng điều đó. Như vậy, muốn cho nguyên khí thịnh vượng, đất nước phát triển vững bền thì không thể không phát hiện, chăm chút, bồi dưỡng nhân tài.

Tư tưởng đó cũng với tên tuổi của Thân Nhân Trung đã tồn tại xuyên suốt mọi thời đại và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày nay trở thành biểu tượng của trí tuệ và văn hóa Việt Nam; là điểm đến của học sinh, sinh viên cả nước, là niềm tự hào của Đảng, Nhà nước, của Thủ đô Hà Nội mỗi khi đón tiếp các đoàn khách ngoại giao.

Đào tạo nhân lực, nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Thân Nhân Trung không chỉ dừng lại trong xã hội thời Lê mà câu nói ấy đối với chúng ta vẫn còn nguyên giá trị, khi đào tạo nhân lực, nhân tài đang trở thành quốc sách hàng đầu, khi văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay.

Theo GS. TS. Nguyễn Đình Chiến, Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triến Nhân lực Nhân tài Việt Nam, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới lần 2, thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, thời kỳ đòi hỏi phải có những động lực mới cho sự phát triển bền vững. “Động lực mới đó bao gồm cả nội lực và ngoại lực; hai yếu tố này ở Việt Nam hiện nay đang được Đảng và Nhà nước ta có những chính sách mới để huy động tối đa phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, quan trọng nhất là nội lực; mà nội lực bao gồm nhiều nguồn lực khác nhau; song quyết định nhất hiện nay là nhân lực, nhân tài”, ông chia sẻ.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ XII về giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh: “Đối mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực...” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Lần thứ XII, tr113). Vấn đề phát triển nguồn nhân lực, nhân tài luôn được dân tộc ta chăm lo trong suốt cả chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Song do nhiêu lý do khác nhau mà nhân lực, nhân tài Việt Nam ở từng thời kỳ, có lúc bị phân tán, tự phát, ẩn dật, thậm chí bị thui chột. Hiện nay, hơn lúc nào hết, đất nước ta phải tập trung đào tạo cho được một đội ngũ nhân lực nhân tài hùng hậu phục vụ đắc lực cho sự phát triển bền vững.

Trung tướng - GS.TS Nguyễn Đình Chiến cho rằng nhân lực, nhân tài là động lực cho sự phát triển bền vững
Cũng theo Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triến Nhân lực Nhân tài Việt Nam, nói đến đào tạo nhân lực, nhân tài là nói đến xây dựng con người, mà con người, ngoài là một thực thể vật chất còn là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Nên, xây dựng con người là xây dựng một thế hệ biết làm chủ thiên nhiên và xử lý tối ưu các mối quan hệ xã hội để tạo ra nhiều của cải vật chất cho một xã hội tốt đẹp. Đồng tình với quan điểm của Thân Nhân Trung, ông Chiến cũng cho rằng nhân lực, nhân tài là cách gọi, còn bản chất nó là một; đó là cụm từ chỉ người tài; như lịch sử dân tộc ta trong Văn miếu Quốc tử giám gọi: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Bản chất nhân lực, nhân tài là “Hiền tài”; hay nhân tài cũng vậy; như Bác Hồ nói “Vừa hồng vừa chuyên”. “Do đó, chúng ta đào tạo nhân lực, nhân tài là đào tạo ra những người có tài, có đức; những người có tài và biết đem tài năng của mình phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc, trong đó có mình và gia đình mình. Để đào tạo nhân lực, nhân tài một cách khoa học và thiết thực đáp ứng cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; có thể phân ra bảy loại nhân tài sau đây: Nhân tài lãnh đạo, quản lý đất nước; Nhân tài sáng chế, phát minh và nhà khoa học; Nhân tài làm kinh tế và quản lý kinh tế; Nhân tài quân sự, gốm cả Quân đội và Công an; Nhân tài y học; Nhân tài văn học, nghệ thuật, thể thao; Nhân tài sư phạm...”, Trung tướng Nguyễn Đình Chiến nhận định.

Cũng theo ông, nhân tài Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo, đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đào tạo đội ngũ nhân tài vững mạnh là trực tiếp nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ nhân tài là đầu tư cho phát triển bền vững.

Đào tạo đội ngũ nhân tài là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị; trong đó, Đảng, Nhà nước giữ vai trò quyết định. Nhân tài Việt Nam có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp phát triển xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

GS. TS. Nguyễn Đình Chiến cho hay, đối chiếu với tình hình tực tế ở Việt Nam hiện nay sẽ thấy được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đào tạo nhân lực, nhân tài để tạo ra những động lực mới cho sự phát triến; song, vẫn còn phân tán và trong chiến lược phát triển dài hạn hầu nhu vẫn còn "khoán" cho các học viện, nhà trường đại học; chưa có sự liên kết chung tay của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt tận dụng các nhà khoa học đầu đàn đã hết tuổi quản lý, chưa có chính sách rõ rệt để lôi kéo họ tham gia việc làm trọng yếu này. Do đó, Viện Chiến lược Phát triến nhân lực nhân tài Việt Nam để ra mục tiêu chung là: Xây dung hệ thống luận chứng khoa học tổng thế tham muu cho Đảng và Nhà nước (trực tiếp thông qua Trung ương Hội Khoa học phát triễn nguồn nhân lực – nhân tài Việt Nam) những vấn đề chiển lược về phát triến nhân lực, trọng dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nguồn suu tam
 

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.

Bình luận mới

Top