Soạn văn "Vợ nhặt" ngắn nhất - Tuần 21 Kì 2 Ngữ Văn 12

Soạn văn  "Vợ nhặt" ngắn nhất - Tuần 21 Kì 2 Ngữ Văn 12

Vợ nhặt là một tác phẩm được đánh giá rất cao trong nền văn xuôi hiện đại. Theo nhiều người, “Vợ nhặt” thuộc số những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Vậy để hiểu rõ hơn tình cảnh nhân dân ta trong thời kì Nạn đói năm 1945 và hiểu rõ hơn về tác phẩm thông qua hai nhân vật chính là Tràng và Thị, cùng nhau học Soạn văn "Vợ nhặt" ngắn nhất - Tuần 21 Kì 2 Ngữ Văn 12 nhé!

Tên truyện là Vợ nhặt ý chỉ vợ của Tràng là “Vợ nhặt”. Anh dân nghèo nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh đúc riêu cua. Điều này cho thấy thân phận con người, trong hoàn cảnh mất nước bị bọn xâm lược đẩy vào nạn đói như nạn đói ở nước ta năm 1945 thật là rẻ rúng. Người ta có thể dễ dàng nhặt được một người vợ hẳn hoi như nhặt được cái rơm, cái rác vậy.

Tình huống éo le trên nêu bật hai ý nghĩa của thiên truyện. Một là tố cáo tội ác thực dân phát xít và bọn tay sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. Bóng đen của cái chê't do đó phủ xuống mọi xóm làng đến nỗi con người trở thành rẻ rúng thảm hại, không hơn gì cái rơm cái rác có thể nhặt được ở bất cứ đầu đường xó chợ nào. Iỉai là tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của người dân lao động. Dù rơi vào hoàn cảnh hết sức bi đát họ vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn muốn cưu mang lẫn nhau và vẫn hi vọng ở tương lai. Đó cũng chính là ý nghĩa nhân bản sâu sắc của tác phẩm này.


4269


Soạn văn "Vợ nhặt" ngắn nhất - Tuần 21 Kì 2 Ngữ Văn 12
Câu 1

Dựa vào mạch truyện có thế chia tác phẩm thành 4 đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng”.

Chàng trai đưa “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ.

- Đoạn 2: Từ “It lâu nay, hắn xe thóc” đến “đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”.

Nói rõ về hoàn cảnh đôi lứa đã gặp nhau và thành vợ thành chồng.

- Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng lại, lắng tai nghe” đến “ có tiếng hờ khóc vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói”. Tình cảm của bà cụ Tứ (người mẹ) già nghèo khố đối với đôi vợ chồng mới.

- Đoạn 4: Phần còn lại.

Những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết tuy có tủi hờn thân phận nhưng vẫn nhen nhóm lòng tin về sự đối đời trong những ngày sẽ tới.

Mạch truyện sẽ được dẫn dắt hợp lí. Có thể nói tất cà các tình huống được thế hiện trong truyện đều khởi đầu từ việc anh Tràng nhặt được vợ giữa những ngày đói khùng khiếp ấy.

Thế nhưng tác phẩm lại dược mở ra từ cảnh Tràng đưa “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ. Nêu tác giả dưa đoạn thứ hai lên trước theo trình tự thời gian thì truyện sẽ kém phần hấp dần hơn.

Câu 2

1.
Mở đầu truyện Vợ nhặt, tác giả giới thiệu nhãn vật Tràng đưa vợ về nhà trong con mắt dấy ngạc nhiên của cá xóm ngụ cư. Người ta ngạc nhiên vì, thứ nhất, một người nông dân nghèo, xấu xí lại là dân ngụ cư như Tràng mà cũng lấy được vợ, mà lại là vợ theo. Thứ hai là thời buổi đói khát ấy, người như anh ta, nuôi thân, nuôi mẹ chẳng xong mà còn dám đèo bòng vợ con. Tuy nhiên, sự việc này diễn ra lại rất hợp lí. Bởi lẽ, nếu bình thường không phải là năm đói kém, thì có ai mà thèm lấy Tràng. Cũng may, ở đây là “vợ nhặt” không phải lề nghi cheo cưới chi cả cho nên Tràng mới có được vợ.

Mọi người trong xóm đều hết sức ngạc nhiên khi thấy Tràng lấy được vợ. Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bên, người trong xóm lạ lắm. Người ta xì xào bàn tán với nhau: Biểt có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ngay cả mẹ cúa Tràng cũng ngạc nhiên: Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhi? Người dàn bà nào lại. đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Một hồi lâu, bà lão vẫn “băn khoăn” không hiểu nổi. Chuyện Tràng lấy vợ cũng còn là chuyện bất ngờ đối với chính anh ta. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bâygiờ hắn vẫn còn ngờ ngợ - như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cùng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng...

Câu 3

2.
Tên truyện là Vợ nhặt, nghĩa là một thứ vợ do nhặt nhạnh vu vơ mà có được chứ không phải là vợ do cheo cưới đàng hoàng mà có.

Điều này cho thấy canh ngộ của người đàn bà là “vợ nhặt” của Tràng thật tội nghiệp. Ngay cả cái tên mà chị cũng không có được. Ngồi vêu ra ở cửa nhà kho cùng với mấy người con gái, chị chờ nhặt nhạnh những hạt rơi hạt vãi hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Gặp Tràng, lần dầu cười cợt hồn nhiên, nhưng lần sau chị biến đổi nhanh và rõ: thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chí còn thấy hai con mắt. Chỉ vì đói quá chị đã gợi ý để được ăn: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Và chỉ cần một lời dồng ý của Tràng là chị ăn luôn. Chị ăn bánh đúc một chặp bốn bát.

Sau đó, Tràng nói đùa mà chị cứ cho là thật. Chị đã theo anh, chấp nhận theo không anh khi hầu như chưa hiểu chút nào về Tràng và hoàn cảnh của anh. Suy cho cùng, lấy chồng, làm “vợ nhặt” của Tràng chẳng qua với chị là một cách chạy trốn cái đói mà thôi.

Câu 4

Khi thế hiện niềm khao khát tồ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Kim Lân dã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc:

- Lúc quyết định lấy vợ: Thoạt đầu Tràng có chút phân vân, do dự: Mới đầu anh chàng cũng chợn: nghĩ thóc gạo này đến cái thân mình củng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nhưng rồi sau đó anh chàng đã tặc lưỡi: “Chặc, kệ!”. Điều này đúng như ý đồ của tác giả: Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết, mà chí nghĩ dến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu. dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống vù vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người (nhà văn Kim Lân nói về truyện Vợ nhặt).

Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cu: Phút này, Tràng như đã thành một con người khác, phớn phở lạ thường, môi cười tủm tỉm, mắt sáng hẳn lên, mặt vênh vênh tự đắc, nhưng cũng có lúc “cứ lúng ta lúng túng” đi bên vợ. Nhưng chủ yếu vẫn xúc động với cảm giác mới mè khác lạ “mơn man” như một bàn tay vuốt nhẹ.

- Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Tràng cảm thấy “êm ái, lửng lơ, như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, xung quanh mình có cái gì vừa thay đối mới mẻ khác lạ. Từ cảm giác sung sướng hạnh phúc Tràng ý thức trách nhiệm, bốn phận của mình “bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thây hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này...”.

Câu 5

Lúc đầu, bà cụ Tứ không ngờ con mình lấy được vợ. Nên thấy người đàn bà trong nhà, bà không hiểu là ai. Hàng loạt câu hỏi đã hiện lên trong đầu óc bà: Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ? Ô hay, thế là thế nào nhỉ?... Vì sao... Vì bà cụ nghĩ là tình cảnh nghèo khó, xấu xí, bị khinh bỉ của con mình thì làm sao có thể lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp khi ấy.

Đến lúc biết con mình đã “nhặt” được vợ về, bà cụ Tứ vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo. Bà cụ mừng vì dầu sao con trai mình cũng đã có được vợ, dù chỉ là “vợ nhặt” như thể nhặt của rơi ngoài đường. Bà cụ là người từng trải, hiểu biết nên đã cảm thấy biết bao nhiêu cơ cực, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình. Tiếp đó bà lại thương cảm cảnh ngộ đứa con dâu: Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Và bà đã nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:

- Ừ thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.

Người mẹ già giàu lòng vị tha đó còn xa xôi nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình và tương lai không biết sẽ ra sao của con trai và con dâu. Chỉ một câu nói: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá cũng chan chứa biết bao sự thông cảm yêu thương.

Hiểu được trách nhiệm của mình đối với con, bà cụ Tứ đã cố nén bao nỗi buồn lo, động viên con tin tưởng ở sự sống và tương lai. Bà cụ đã dọn dẹp, sửa sang nhà cửa: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có ca khẩm khá hơn... Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này".

Câu 6

Đặc sắc nghệ thuật của Vợ nhặt thể hiện ở:


- Tạo được một tình huống độc đáo và cảm động;

- Cách trần thuật dựng đỗì thoại tự nhiên hấp dẫn;

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo.

a. Tình huống truyện độc đáo và cảm động

Chỉ riêng tên truyện cũng đủ cho thấy một tình huống éo le độc đáo: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa buồn và càng ngẫm nghĩ càng thấy "ai oán xót thương”. Đó cũng là một tình huống thâm đẫm tình người, có sức lôi cuốn chú ý của người đọc: Vợ nhặt, “nhặt” được vợ.

b. Cách trần thuật chuyện, dựng đối thoại tự nhiên, hấp dẫn

- Tác giả đảo lộn trật tự thời gian một cách hợp lí để trần thuật tự nhiên và hấp dẫn: bắt đầu bằng sự việc Tràng đưa vợ về nhà trong lúc cả xóm ngụ cư nhìn theo kinh ngạc. Đến nhà rồi chính Tràng cũng kinh ngạc khi nhìn thị ngồi ngay giữa nhà. Chính lúc ấy nhà văn mới theo dòng hồi tưởng của Tràng mà trần thuật lại đầu đuôi câu chuyện anh này nhặt được vợ. Sau đó ông mới để mạch chuyện chảy xuôi cho đến hết.

- Tác giả dùng lối trần thuật qua đối thoại giữa các nhân vật. Nhiều đoạn đối thoại thật tự nhiên, hóm hỉnh và hấp dẫn như đoạn đối thoại giữa đôi vợ chồng Tràng hay đoạn giữa mấy người đàn bà trong xóm về người vợ mới của Tràng. Từ ngữ trong đốỉ thoại cũng rất hợp với lời nói cửa miệng hằng ngày của người dân nghèo trước đây. Như đoạn Tràng và vợ trên đường về, hai người hầu hết đều nói câu cụt ngủn, thiếu chủ ngữ. Cách nói của Tràng theo lốii bông phèng bình dân: Vợ mới vợ miếc, lên giường lên giếc.
Bà cụ Tứ đôi chỗ dùng thành ngữ tục ngữ “phải duyên phải kiếp”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Nói chung các trường hợp trên đều rất tự nhiên và hấp dẫn.

c. Nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo

Truyện có ba nhân vật chính:

-
Vợ Tràng: Tuy vì đói khát cùng đường đến mức bốp chát, chua ngoa, liều lĩnh và trơ trẽn, không còn chút e thẹn cố hữu của người phụ nữ nhưng cũng đã trở nên hiền hậu, chịu thương chịu khó khi trở thành nàng dâu mới.

- Tràng: Chợt vui khi đưa vợ về nhà qua lối xóm mặt phớn phở, hai mắt sáng lấp lánh. Chợt buồn khi cùng với vợ về đến nhà thấy cảnh nhà xơ xác, quạnh hiu, bừa bộn.

Anh vui vì bỗng dưng mà được vợ nhưng buồn vì lo không biết mẹ mình có chấp nhận không và cảnh nhà có vượt qua được cái đói nghèo không.

Sau đó, anh thấy lòng đầy yêu thương, vui sướng vì mình đã nên người. Sự gắn bó tình cảm trong cảnh khổ, tình yêu thương với vợ, hạnh phúc gia đình khiến anh hướng tới tương lai, thấy mình phải đứng đắn hơn và có trách nhiệm hơn với vợ, với mẹ, không thể sống ơ thờ, tùy tiện như trước nữa. Trong đầu óc anh hai lần hiện ra lá cờ đỏ thật to và đám người cùng nhau đi phá kho thóc.

- Bà cụ,
mẹ Tràng: là một người mẹ rất mực thương yêu con nhưng vì hoàn cảnh nghèo khổ, không thể lo toan được hạnh phúc cho con. Bà cụ biết mình không làm tròn bổn phận người mẹ là phải lo lấng sao cho con cái nên vợ nên chồng, ăn nên làm nổi, sinh con đẻ cái nở mặt với đời. Bởi vậy, nay con bỗng dưng lấy được vợ bà vừa vui vừa mừng vừa nghĩ lại mà tủi cho con mình. Không những thế, bà còn lo âu: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.

Nói chung, Kim Lân đã thê hiện tâm lí của cả ba nhân vật chính trên một cách chân thực và sinh động qua bộ điệu, ngôn ngữ hoặc trực tiếp diễn tả tâm trạng ý nghĩ của họ một cách điêu luyện tài tinh.
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa Từ khóa
bà cụ tứ kim lân mẹ tràng vo nhat
2K
0
0
Trả lời

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.