Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Bạn hiểu thế nào về sự đồng cảm trong cuộc sống? Khi bày tỏ sự đồng cảm với người khác hoặc khi nhận được sự đồng cảm của ai đó, bạn có tâm trạng như thế nào?

Trả lời:

- Theo em, sự đồng cảm trong cuộc sống là cùng chung cảm xúc với điều mình được nghe, được thấy về một vấn đề nào đó.

- Khi bày tỏ hoặc nhận lại sự đồng cảm của người khác, em cảm thấy được tôn trọng, được ai đó quan tâm, sẻ chia. Điều này khiến em thấy hạnh phúc.
Thêm
322
0
3
Người cầm quyền khôi phục uy quyền là đoạn trích xuất sắc được trích từ tiểu thuyết Những người khốn khổ của V. Huy-gô. Đoạn trích miêu tả uy quyền của hai nhân vật: Gia-ve và Giăng Van-giăng. Mỗi nhân vật có cách thể hiện uy quyền riêng của mình. Cùng VHT tham khảo bài soạn sau:

nhung-nguoi-khon-kho-bo-.png

Ảnh sưu tầm

1. Uy quyền của Gia-ve:

Gia-ve là người của nhà nước, một viên thanh tra đang thực thi pháp luật. Bấy lâu, Gia-ve nghi ngờ ông thị trưởng Ma-đơ-len chính là người tù khổ sai Giăng Van-giăng, người mà hắn để cả một đời để tìm kiếm. Giờ đây, sự thật về người tù khổ sai mang tên khác để trốn tránh truy nã đã được làm sáng tỏ. Nắm trong tay sức mạnh của pháp luật, Gia-ve có toàn quyền đối với Giăng-Van-giăng. Ý thức được điều đó, Gia-ve đắc thắng, “túm lấy cổ áo” của Giăng-Van-giăng khiến ông cúi đầu chịu đựng; quát tháo, chửi bới Giăng-Van-giăng một cách thô bỉ; ra lệnh bắt Giăng-Van-giăng phục tùng; nhạo báng lời đề nghị khẩn thiết của Giăng-Van-giăng; sẵn sàng gọi lính vào cùm tay Giăng-Van-giăng để tống vào nhà tù,... Như vậy, giờ đây Gia-ve đang khôi phục uy quyền của mình đối với Giăng-Van-giăng, điều bấy lâu hoàn toàn vô hiệu trước ông thị trưởng Ma-đơ-len.

2. Uy quyền của Giăng-Van-giăng:

Trước khi tình huống truyện xảy ra, ông Ma-đơ-len (chính Giăng-Van-giăng) là người cầm quyền. Ông là một thị trưởng giỏi giang, đáng kính, khiến Gia-ve phải phục tùng. Nhưng lúc bị phát giác, ông trở lại thân phận của kẻ phạm pháp. Mọi quyền lực sẽ bị tước bỏ, buộc phải chấp nhận số kiếp của người tù khổ sai. Tuy nhiên, trong tình huống ở đoạn trích, Giăng-Van-giăng đã làm đảo lộn vị thế giữa ông và Gia-ve: ông cầm thanh sắt để thể hiện sức mạnh nhằm trấn áp kẻ độc ác, lạnh lùng. Giăng-Van-giăng khôi phục uy quyền của mình: uy quyền của một người dám hi sinh bản thân để thực hiện nghĩa vụ của lương tâm. Gia-ve đã phải run sợ trước Giăng-Van-giăng, điều đó chứng tỏ Giăng-Van-giăng mới là người thực sự có uy quyền.

3. Nhận xét

Uy quyền của con người có thể được tạo nên bởi vị thế xã hội (chẳng hạn chức thị trưởng), hoặc bởi vai trò của người thực thi pháp luật (ví dụ viên thanh tra). Tuy nhiên, ở đây, những uy quyền được tạo nên bằng vị thế xã hội đã không hề được thể hiện. Giăng-Van-giăng không còn là ông thị trưởng khiến Gia-ve tuân phục như trước đây; ở chiều ngược lại, viên thanh tra Gia-ve cũng không khiến Giăng-Van-giăng sợ hãi dù ông đang ở vị trí kẻ phạm pháp lẩn trốn bấy lâu giờ đây sắp bị bắt. Khi Giăng-Van-giăng khiến Gia-ve run sợ, ấy là lúc ông đã khôi phục uy quyền của mình. Quyền uy ấy của Giăng-Van-giăng được tạo nên bởi sức mạnh của tình thương, sức mạnh của lương tâm, của đức hi sinh vì người khác.​

Xem thêm
Các bài soạn, bài văn hay, đề thi tại đây.
Thêm
Uy quyền thuộc về Giăng-Van-giăng hay Gia-ve? (Người cầm quyền khôi phục uy quyền, trích Những người khốn khổ của V. Huy-gô)
1K
0
0
Ngoài thành công trong việc xây dựng nhân vật Giăng-Van-giăng, V. Huy-gô cũng đã xây dựng hình tượng nhân vật Gia-ve, biểu trưng cho giai cấp thống trị tàn bạo trong tiểu thuyết Những người khốn khổ. Để hiểu rõ về Gia-ve, VHT mời các em tham khảo bài soạn sau:

gia ve.jpg
Ảnh sưu tầm

* Ngoại hình:

- Bộ mặt gớm ghiếc, đáng sợ.
- Giọng nói hách dịch, “man rợ, điên cuồng”.
-Thái độ đắc thắng khi cảm thấy cuộc săn đuổi Giăn -Van-giăng – một đối thủ xứng tầm – đã kết thúc (“Phá lên cười; Ở đây làm gì còn có ông thị trưởng nữa!”).
- Cái nhìn lạnh lùng, độc ác “như có móc, móc vào người”, như “đi thấu vào đến tận xương tuỷ” của đối thủ.
- Hành động trịch thượng (“túm cổ áo Giăng Van-giăng”), muốn đối thủ khuất phục trước quyền uy của mình (“Gọi ta là ông thanh tra”).
- Muốn thể hiện ta đây làm việc minh bạch, không khuất tất (“Nói to, nói to lên! Ai nói gì với ta thì phải nói to!”).
- Với sự vô cảm, vô tình, Gia-ve đã gián tiếp gây ra cái chết của Phăng-tin (qua kết luận đanh thép của Giăng-Van-giăng).
- Sợ hãi trước thái độ cứng rắn của Giăng Van-giăng (“Sự thật Gia-ve run sợ”).

* Thái độ và cách ứng xử:

- Đối với Phăng-tin:

+ Quát tháo làm náo loạn cả phòng bệnh
+ Dùng lời lẽ thô bỉ, tàn nhẫn, mạt sát Phăng-tin
+ Tàn nhẫn chà đạp lên niềm hi vọng tìm gặp con của Phăng- tin
+ Trước cái chết của Phăng- tin: tiếp tục quát tháo giục Giăng-Van-giăng
=> Lạnh lùng, độc ác, tàn nhẫn trước nỗi đau khổ của con người.

- Đối với Giăng-Van-giăng:

+ Trước sự chứng kiến của Phăng-tin: Đe dọa, uy hiếp, hống hách
+ Trước hành động của Giăng- Van giăng khi Phăng-tin chết: Bị áp đảo thì run sợ, hèn nhát

* Nhận xét

Gia-ve đã bộc lộ bản chất của một tên hung thần, một con thú dữ, một con chó nhà trung thành của XH tư bản tàn bạo sẵn sàng bóp chết một cách tàn nhẫn niềm hi vọng, nguyện vọng nhỏ bé nhất, nhân đạo nhất, thậm chí cả mạng sống đã mong manh như chiếc lá rụng của con người khốn cùng. Tuy nhiên hắn cũng tỏ ra hết sức hèn nhát và hoàn toàn bất lực trước cái uy thế áp đảo, cái lớn lao, cái cao cả và những hành động vô cùng nhân đạo và cao thượng của Giăng- Van-giăng.
+ Như vậy, dưới ngòi bút của V. Huy-gô, Gia-ve hiện lên như một kẻ không tim. Đó là một “cỗ máy”, một thứ công cụ phi nhân tính, chỉ biết thực thi phận sự một cách tàn nhẫn, lạnh lùng, không có tình người.
+ Khi nói về Gia-ve, người kể chuyện không giấu giếm thái độ căm ghét. Qua lời kể hoặc qua cách nhìn của nhân vật khác trong tác phẩm, con người Gia-ve được định danh bằng những cụm từ như: “bộ mặt gớm ghiếc”, “tên chó săn Gia-ve”; “không phải là tiếng người nói mà là tiếng ác thú gầm”… Toàn bộ con người Gia-ve toát lên vẻ độc ác, tàn nhẫn, lạnh lùng. Ấn tượng đó được tạo nên bởi cách tái hiện nhân vật của người kể chuyện.​

Xem thêm
Các bài soạn, bài văn hay, đề thi Ngữ văn 10 tại đây.
Thêm
Nhân vật Gia-ve, Người cầm quyền khôi phục uy quyền, trích Những người khốn khổ của V. Huy-gô
1K
0
0
"Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích trong tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng “Những người khốn khổ" của nhà thơ, nhà tiểu thuyết người Pháp V. Huy-gô. Cùng VHT tham khảo bài soạn ngắn gọn về xuất xứ, tóm tắt đoạn trích, bố cục, nhân vật, nghệ thuật và ý nghĩa của văn bản sau đây.

nhung-nguoi-khon-kho.png

Ảnh sưu tầm


1. Xuất xứ:

Người cầm quyền khôi phục uy quyền” được trích trong tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng “Những người khốn khổ”.

2. Tóm tắt đoạn trích:

- Gia- ve đến bắt Giăng- Van- giăng.
- Phăng- tin đang ốm nặng chứng kiến cảnh người bảo trợ của mình bị bắt sự hãi đến chết.
Giăng- Van- giăng vốn là thị trưởng thì giờ đây lại là tù khổ sai. Gia- ve trước đây vốn dưới quyền Giăng Van- giăng giờ đây ra oai hách dịch.

3. Bố cục: 2 phần

- Phần đầu: từ câu “Từ ngày ông Ma-đơ-len (Madeleine) gỡ cho Phăng-tin thoát khỏi bàn tay Gia-ve, chị không gặp lại hắn lần nào nữa” đến câu “Phăng-tin đã tắt thở”.
→ nghe những lời lẽ của Gia-ve nói về “ông thị trưởng Ma-đơ-len” đồng thời chứng kiến hành động đầy quyền uy của hắn, Phăng-tin hoảng sợ, ngã đập đầu vào thành giường và tắt thở.
- Phần còn lại: Giăng Van-giăng thể hiện thái độ quyết liệt khiến Gia-ve phải sợ hãi, nhờ đó, ông ngồi xuống thì thầm bên tai Phăng-tin những lời cuối cùng và sửa soạn cho người đã chết.

=> Hai phần có quan hệ nhân quả. Chính thái độ, lời lẽ và hành động của Gia-ve đã gây ra cái chết của Phăng-tin, đúng như Giăng Van-giăng khẳng định: “Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó”. Và cũng chính sự hung hăng, sắt đá của Gia-ve (quyết bắt Giăng Van-giăng) đã buộc ông phải giật một thanh sắt từ cái giường, lăm lăm trong tay, ngăn sự quấy rầy của Gia-ve để thực hiện bổn phận lương tâm đối với Phăng-tin.​

4. Nhân vật Gia- ve

- Nói những lời cộc lốc, thô bỉ.
- Lời nói chưa sự man rợ, điên cuồng như “thú gầm”.
- Cặp mắt nhìn như cái móc sắt.
- Cái cười ghê tởm, phô ra cả hai hàm răng.
→ Phóng đại giúp ta nhìn thấu tỏ nét điển hình của tên ác thú.

5. Nhân vật Giăng-Van-giăng

- Nhẹ nhàng điềm tĩnh, khi thì hạ giọng.
- Là một vị cứu tinh trong mắt Phăng-tin.
=> Nhân vật mang vẻ đẹp lãng mạn và lí tưởng, biểu trưng cho sức mạnh tình thương và công lí.

6. Nghệ thuật

- Ngôi kể: lời của người kể chuyện ngôi thứ ba – kiểu người kể chuyện có tính chất toàn tri.
Trong đoạn trích, quyền năng có giới hạn của người kể chuyện ngôi thứ ba, biểu hiện rõ nhất là đoạn miêu tả những lời thì thầm của Giăng Van-giăng bên tai Phăng-tin (“Ông nói gì? Con người khốn khổ ấy có thể nói gì với người đã chết?... Kẻ chết có nghe thấy không?”). Hoàn toàn có khả năng tồn tại một cách xử lí nghệ thuật khác: người kể chuyện ngôi thứ ba “nghe” hết và nói lại tường tận cho người đọc biết những lời của Giăng Van-giăng. Nhưng ở đây, Vích-to Huy-gô đã không “cấp” cho người kể chuyện cái quyền năng đặc biệt ấy. Như vậy, trong truyện, quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba được thể hiện đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào dụng ý nghệ thuật của tác giả.
- Kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn.
- Kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật: so sánh, phóng đại, ẩn dụ, miêu tả trực tiếp, gián tiếp, trữ tình ngoại đề .
- Xây dựng nhân vật: đối lập, tương phản.

7. Ý nghĩa văn bản

Tô đậm, ca ngợi con người phi thường với trái tim tràn ngập yêu thương.​

Xem thêm
Các bài soạn Ngữ văn 10 tại đây.
Thêm
Người cầm quyền khôi phục uy quyền, ngắn gọn
  • Like
Reactions: QuangNhat
536
1
0
Giăng-Van-giăng là nhân vật chính của tiểu thuyết Những người khốn khổ, để hiểu hơn về nhân vật này, VHT mời các em học sinh cùng tìm hiểu về nhân vật qua đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền, SGK Kết nối tri thức 10, bài 7.

nhung-nguoi-khon-kho-bo-.png
Ảnh sưu tầm

a. Thái độ của Giăng- Van- giăng với Phăng-tin

* Hoàn cảnh và tâm trạng:


- Không muốn sông giả dối, giàu sang mà lương tâm day dứt (không muốn một người vô tội vì mình mà bị kết án oan) nên quyết định Tự thú.
- Nhưng ông lại không có điều kiện để cứu mẹ con Phăng- tin khi ông tự thú, nộp mình cho cảnh sát.
=> Giăng-Van- giăng bị đẩy vào tình cảnh ngặt nghèo Đấu tranh giữa cái cao cả >< cái thấp hèn, giữa tội lỗi>< lòng nhân ái. Cuối cùng Giăng Van-giăng chấp nhận tự thú và nài nỉ Gia- ve cho 3 ngày để lo việc cho Phăng- tin.

* Thái độ đối với Phăng-tin:

- Trước nỗi sợ hãi của Phăng- tin khi Gia- ve xuất hiện:
Nhẹ nhàng điềm tĩnh, trìu mến, làm yên lòng Phăng- tin, trấn an....,=> Làm chỗ dựa tinh thần cho Phăng- tin.
=> Nhận xét: Giăng Van-giăng thấu hiểu, xót thương vô hạn trước nỗi đau và sự bất hạnh của Phăng-tin. Trong tình huống đối mặt với Gia-ve, dù sắp bị bắt nhưng ông hoàn toàn không bận tâm số phận của bản thân, chỉ dành trọn sự quan tâm, lo lắng cho Phăng-tin. Phăng-tin chết đau đớn trước khi gặp lại đứa con gái tội nghiệp khiến Giăng Van-giăng tự thấy mình có phần trách nhiệm.

- Hành động nói với người đã khuất:
Giăng Van-giăng đã nói những gì với Phăng-tin? Khó có thể trả lời dứt khoát câu hỏi đó. Chính người kể chuyện ngôi thứ ba (kiểu người kể chuyện toàn tri) mà vẫn không thể biết hết mọi điều: “Ông nói gì? Con người khổ sở ấy có thể nói gì với người đã chết? Những lời ấy là lời gì vậy? [...] Kẻ đã chết có nghe thấy không?”. Ta biết rằng, mối quan tâm cuối cùng của Phăng-tin không phải là sự sống chết của bản thân, mà là số phận của đứa con gái tội nghiệp. Khi nghe Giăng Van-giăng xin Gia-ve ba ngày để đi tìm Cô-dét (Cossette), Phăng-tin đã run lên bần bật vì biết con gái mình chưa có mặt ở đây như lời người ta đã nói. Phăng-tin chết khi chưa được gặp con đã khiến Giăng Van-giăng cảm thấy hết sức ân hận, khổ sở.
=> Có thể suy đoán rằng, những lời thì thầm cuối cùng của ông bên tai Phăng-tin là lời hứa bảo vệ Cô-dét. Chỉ những lời như thế mới có thể tác động một cách kì lạ, khiến Phăng-tin – một người đã chết – vẫn mỉm cười và gương mặt “sáng rỡ lên một cách lạ thường”.

b. Thái độ và hành động của Giăng-Van-giăng đối với Gia- ve:

* Trước sự hùng hổ hung hãn của Gia- ve:

+ Cử chỉ điềm tĩnh, nhẫn nhịn, tránh xung đột, cầu xin.
+ Thái độ không hề tỏ ra khiếp sợ trước Gia- ve, trước uy quyền.
=> Nhún nhường vì Phăng- tin Tấm lòng cao đẹp của tình thương.
- Trước thái độ tàn bạo của Gia- ve làm Phăng- tin sợ hãi đến chết:( D/c)
+ Cử chỉ dứt khoát, lời lẽ từ có sức mạnh lên án tố cáo mạnh mẽ quyết liệt như một lời kết án của quan tòa.
+ Thái độ phẫn nộ nhưng hết sức kiềm chế với lời lẽ nghiêm khắc, bình tĩnh, chủ động làm Gia - ve khiếp sợ.
=> Lương tri, đạo đức con người đã mang lại cho Giăng- Van- giăng sức mạnh vô song. Vì lẽ đó một nghịch lí xuất hiện: Tuy là kẻ cầm quyền nhưng Gia- ve không phải là kẻ mạnh, kẻ mạnh là Giăng- van- giăng, không phải sức mạnh từ bàn tay mà là sức mạnh từ tâm hồn. Uy quyền thuộc về Giăng- Van- giăng. Cái thiện giành được uy quyền, sức mạnh đẩy lùi cái ác.

* Thái độ với Gia-ve
- Ban đầu, Giăng Van-giăng nói năng bình tĩnh, không chút sợ hãi, mặc dù ông biết mình đã rơi vào tay Gia-ve: “Tôi biết là anh muốn gì rồi”.
- Khi Gia-ve cầm cổ áo ông (hành động khiến Phăng-tin “tưởng như cả thế giới đang tan biến”), Giăng Van-giăng không gỡ tay hắn ra, mà chỉ gọi trần trụi, đích danh “Gia-ve...” với tất cả sự coi thường.
- Nhưng rồi, vì muốn được đi tìm con gái cho Phăng-tin, Giăng Van-giăng sẵn sàng hạ mình trước kẻ mà ông khinh bỉ: “Thưa ông, tôi muốn nói riêng với ông câu này”, “Tôi cầu xin ông có một điều...”.
- Trước sự việc đau thương xảy ra ngoài ý muốn: Phăng-tin ngã đập đầu vào thành giường vì tuyệt vọng, Giăng Van-giăng đã kết tội Gia-ve một cách đanh thép: “Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó”.
- Muốn có không khí tĩnh lặng để thì thầm những lời cuối cùng với linh hồn Phăng-tin và sửa soạn cho chị, ông không ngần ngại thể hiện thái độ cứng rắn trước Gia-ve: cầm thanh sắt và nói một câu tưởng nhẹ nhàng mà chứa đầy sức mạnh của một người có thể làm bất cứ điều gì khi cần thiết: “Tôi khuyên anh đừng có quấy rầy tôi lúc này”. Chính câu nói đó đã khiến Gia-ve phải run sợ.
- Mọi việc xong xuôi, Giăng Van-giăng đã chấp nhận tình thế một cách chủ động, bình tĩnh: “Giờ anh muốn làm gì thì làm”. Ấy là câu nói của một người sẵn sàng đi vào cuộc tuẫn nạn.
=> Như vậy, ngôn ngữ và thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ve thay đổi liên tục, gồm đủ sắc thái, cung bậc, nhưng rất phù hợp, bởi đó là hệ quả sự tác động của tình huống, nhất là từ cách hành xử tàn nhẫn của chính Gia-ve.
Xem thêm
Các bài Ngữ văn 10 tại đây.
Thêm
Nhân vật Giăng-Van-giăng, Người cầm quyền khôi phục uy quyền, Kết nối tri thức 10, bài 7
696
0
0
V.Huy-gô là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch tài năng người Pháp. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được chuyển thành nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Để học tốt văn bản Người cầm quyền khôi phục Uy quyền, sách giáo khoa Kết nối tri thức 10, VHT giới thiệu với các em học sinh bài soạn tìm hiểu vài nét về tác giả V. Huy-gô và tác phẩm của ông.

nhung-nguoi-khon-kho.png

Ảnh sưu tầm

1. Vich-to Huygô

- Vich-to Huygô (1802- 1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lãng mạn nổi tiếng của nước Pháp TK XIX.
- Ông sinh ra trong một gia đình phức tạp về tư tưởng, trong một thời đại nước Pháp bão tố rối ren về chính trị.
- Tư tưởng có sự chuyển biến từ tư tưởng quân chủ sang tư tưởng dân chủ đứng về phía nhân dân, mang một niềm khát khao tự do và trái tim tràn đầy yêu thương
- Là nhà văn được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới 9/1985.

2. Sự nghiệp

- Vich-to Huygô là một trong những nhà văn, nhà thơ lãng mạn tiêu biểu ở Pháp ở thế kỉ XIX. Ông hướng ngòi bút vào những người khốn khổ, phát hiện những mâu thuẫn của xã hội và giải quyết trên nguyên tắc tình thương.
+ Ông được đánh giá là “thần đồng thơ ca”, “người khổng lồ” và “một thiên tài sáng tạo”.
+ Phong cách sáng tác: hướng ngòi bút vào những người khốn khổ, phát hiện những mâu thuẫn của xã hội và giải quyết trên nguyên tắc tình thương.
=> V. Huy-gô chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

- Tác phẩm tiêu biểu: (SGK)
+ Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (tiểu thuyết,1831)
+ Những người khốn khổ (tiểu thuyết, 1862)
+ Lao động biển cả (tiểu thuyết, 1866)
+ Thằng cười (tiểu thuyết, 1869)
+ Chín mươi ba(tiểu thuyết,1874)
+ Lá thu (tập thơ, 1831)
+ Trầm tư (tập thơ, 1856)
+ Truyền kì các thế kỉ (tập thơ, 1859)
+ Éc-na-ni (Hernani, kịch, 1830)

2. Tiểu thuyết “Những người khốn khổ”

Những người khốn khổ là tiểu thuyết nổi tiếng của Vich-to Huy-gô. Bối cảnh của tác phẩm là nước Pháp những năm đầu thế kỉ XIX. Nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết là Giăng Van-giăng.

a. Hoàn cảnh sáng tác

Ngay từ 1829, V.Huy-gô đã có ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Sau năm 1830 Huy-gô đặc biệt chú ý đến các vấn đề xã hội (phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, những bất công xã hội, sự sa đoạ của con người). Huy-gô bắt tay vào việc sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này vào năm 1840, lúc đầu gọi là “Những cảnh cùng khổ” và hoàn thành vào năm 1861, được xuất bản năm 1862.

b. Tóm tắt tác phẩm

Giăng Van-giăng nuôi một đàn cháu nhỏ, vì nghèo mà một hôm phải đánh cắp bánh mì. Anh bị bắt và bị kết án năm năm tù. Bốn lần vượt ngục không thoát, anh bị giam mười bốn năm. Sau bao thăng trầm của cuộc sông, Giăng Van-giăng cũng có được một chút địa vị trong xã hội, nhưng không phải là với cái tên Giăng Van-giăng ngày xưa. Lúc này anh có tên là Ma-đơ-len, thị trưởng của một thành phố nhỏ, được mọi người yêu mến, kính trọng. Trong nhà máy của Ma-đơ-len, cô thợ Phăng-tin, vì có một đứa con hoang nên bị giám thị ghét bỏ và đuổi đi mà Giăng Van-giăng không biết. Lúc cô gần chết, ông Ma-đơ-len mới biết nỗĩ oan ức của cô, ông hứa sẽ chăm sóc Cô-dét.

Vừa lúc ấy, để cứu một người khác bị tội oan, Giăng Van-giăng ra thú nhận trước tòa về chân tướng của mình. Một lần nữa ông bị tù, và lần này ông đã vượt ngục. Đến cuộc cách mạng 1832, ông chiến đấu ngoài chiến lũy bên cạnh các chiến sĩ cộng hòa. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Giăng Van-giãng còn gặp nhiều nỗi oan khổ. Lúc ấy Cô-dét trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Cô gặp Ma- ri-uýt, nhờ có sự hi sinh của Giăng Van-giăng, họ lấy được nhau.

Nhân vật thứ hai là Phăng-tin, người mẹ tuy bị xã hội chà đạp nhưng vẫn là tấm gương về tình mẫu tử, đức hi sinh và lòng nhân ái. Phăng-tin đã hi sinh cả đời mình để lo cho con gái. Còn Gia-vơ-rốt tuy là đứa trẻ bị vứt trên hè phố Pa-ri nhưng vẫn tràn đầy lòng thơ ngây, yêu đời, dũng cảm và nghĩa hiệp.

3. Đánh giá

Những người khốn khổ là cuốn tiểu thuyết được xây dựng từ nhiều sự kiện và con người có thật trong đời sống xã hội thời Vich -to Huy -gô. Không chỉ mang giá trị hiện thực, quyển tiểu thuyết còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác giả đã phê phán sắc sảo sự bất công của xã hội tư sản thể hiện qua hệ thống luật pháp và nhà tù đồng thời thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với những con người cùng khổ.​

Xem thêm
Các bài soạn Ngữ văn 10 tại đây.



Thêm
Vài nét về Vich-to Huy-gô và tiểu thuyết Những người khốn khổ, Kết nối tri thức 10 bài 7
2K
0
0
Nhằm giúp học sinh nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện: người kể chuyện ngôi thứ ba và người kể chuyện ngôi thứ nhất, điểm nhìn, lời người kể chuyện, lời nhân vật, VHT giới thiệu đến học sinh Tri thức Ngữ văn bài 7 sách kết nối tri thức 10. Qua bài học này, học sinh được trang bị nhiều kĩ năng đọc thể loại truyện, tiểu thuyết.
nguoi-ke-chuyen-quoc-bao-1.jpg

Ảnh: Sưu tầm

1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba

- Người kể chuyện ngôi thứ nhất là người kể xưng “tôi” hoặc dùng một hình thức tự xưng tương đương. Tuỳ theo mức độ tham gia vào mạch vận động của cốt truyện, người kể chuyện ngôi thứ nhất có thể là nhân vật chính, nhân vật phụ, người chứng kiến, người kể lại câu chuyện được nghe từ người khác hay xuất hiện với vai trò tác giả “lộ diện”. Người kể chuyện ngôi thứ nhất thường là người kể hạn tri (không biết hết mọi việc), trừ trường hợp là tác giả “lộ diện” vận dụng quyền năng “biết hết” của mình”.

- Người kể chuyện ngôi thứ ba là người kể chuyện ẩn danh, không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm, không tham gia vào các sự việc, chỉ được nhận biết qua lời kể. Người kể chuyện ngôi thứ ba có khả năng nắm bắt tất cả những gì diễn ra trong câu chuyện, kể cả những biểu hiện sâu kín trong nội tâm nhân vật, do vậy có khả năng trở thành người kể chuyện toàn trị (biết hết mọi chuyện), song người kể chuyện ngôi thứ ba có sử dụng quyền năng toàn tri hay không còn tuỳ thuộc vào nguyên tắc tổ chức truyện kể của từng tác phẩm.

- Lời người kể chuyện là lời kể, tả, bình luận của người kể chuyện, có chức năng khắc hoạ bối cảnh, thời gian, không gian, miêu tả sự việc, nhân vật, thể hiện cách nhìn nhận, thái độ đánh giá đối với sự việc, nhân vật.
Lời của người kể chuyện phân biệt với lời của nhân vật, thuật ngữ chỉ lời nói gắn với ý thức và các thể hiện hiện của nhân vật bằng hình thức lời nói trực tiếp hay gián tiếp.

- Quyền năng của người kể chuyện thể hiện ở phạm vi miêu tả, phân tích, lí giải và mức độ định hướng đọc trong việc cắt nghĩa, đánh giá sự kiện, nhân vật được khắc hoạ trong tác phẩm văn học.

2. Cảm hứng chủ đạo của một tác phẩm văn học
Cảm hứng chủ đạo là tình cảm, thái độ được thể hiện xuyên suốt tác phẩm đối với những vấn đề cuộc sống được nêu ra. Cảm hứng chủ đạo chi phối hình thức thể hiên, toát lên toàn bộ tác phẩm và có khả năng tác động mạnh vào cảm xúc của người tiếp nhận.​
.........................................................
Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 10 tại đây.
Thêm
Người kể chuyện và cảm hứng chủ đạo - Tri thức Ngữ văn bài 7, SGK trang 37, Kết nối tri thức 10
678
0
0

Tiếng Việt có rất nhiều từ vay mượn từ tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh. Trong đó, các từ vay mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán gọi là từ Hán Việt. Bài thực hành Sử dụng từ Hán Việt của sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Kết nối tri thức) sẽ giúp học sinh nhận biết và hiểu được ý nghĩa, tác dụng và và hiệu quả nghệ thuật của từ ngữ Hán Việt. Để học tốt bài học này, mời các bạn học sinh 10 cùng VHT tham khảo bài soạn thực hành tiếng Việt sau:

551673689482-soan-bai-thuc-hanh-tieng-viet-su-dung-tu-han-viet-tiep-theo-ngan-gon.png

Ảnh sưu tầm

* Câu 1 SGK trang 26
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo)​

a) Tìm và giải nghĩa một số từ Hán Việt có trong đoạn trích chưa được chú thích ở văn bản Bình Ngô Đại Cáo.
b) Nêu tác dụng biểu đạt của hệ thống từ Hán Việt có trong đoạn trích.

c) Đặt câu với các từ: nhân nghĩa, văn hiến, hào kiệt.

Trả lời:

a. Một số từ Hán Việt có trong đoạn trích chưa được chú thích ở văn bản Bình Ngô đại cáo:


- “Trừ bạo”: diệt trừ những kẻ bạo ngược, làm hại dân lành.
- “Phong tục”: thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo.
- “Độc lập”: đứng một mình tự tồn tại mà không dựa vào ai.
- “Nhân nghĩa”: là lòng thương người ᴠà ѕự đối хử ᴠới người theo lẽ phải, là tình cảm, thái độ, ᴠiệc làm đúng đắn, phù hợp ᴠới đạo lí của dân tộc Việt Nam.
- “Văn hiến”: Truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp của một dân tộc.
- “Hào kiệt”: Người có tài cao, chí lớn, hơn hẳn người thường.

b. Tác dụng biểu đạt của hệ thống từ Hán Việt trong đoạn trích trên:

- Giữ được những từ ngữ mang nội hàm của một giai đoạn, một học thuyết (nhân nghĩa).
- Làm cho đoạn văn ngắn gọn nhưng vẫn mang hàm ý biểu đạt đầy đủ ý nghĩa mà người viết muốn thể hiện.

c. Đặt câu với các từ: nhân nghĩa, văn hiến, hào kiệt.

- Anh ấy là người ăn ở có nhân nghĩa.
- Thầy cô luôn dạy, mỗi người chúng ta cần phải sống nhân nghĩa, yêu thương con người.
- Đại Việt thực là một nước văn hiến.
- Anh hùng hào kiệt trong thiên hạ đã quy tụ về đây.
- Việt Nam là là một quốc gia có truyền thống văn hiến lâu đời.
- Hưng Đạo vương được mệnh danh là một anh hùng hào kiệt của dân tộc Việt Nam.

* Câu 2 trang 26 SGK

Đọc lại đoạn (3) của văn bản Bình Ngô đại cáo (từ "Ta đây" đến “dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”) lập bảng hoặc vẽ sơ đồ liệt kê các điển tích và nêu tác dụng biểu đạt của chúng theo gợi ý sau:

(1) Đau lòng nhức óc (thống tâm tật thủ: chữ mượn từ sách Tả truyện)

=> Tác dụng biểu đạt: Tăng sức biểu cảm, cho thấy thái độ căm giận vô cùng giặc Minh.

(2). Nếm mật nằm gai (thường đảm ngọa tân: dẫn điển vua nước Việt đời Đông Chu là Câu Tiễn bị vua nước Ngô là Phù Sai cướp nước, bèn nuôi chí phục thù, trước khi ăn thì nếm mật đắng, khi ngủ thì nằm trên gai để không quên mối thù cũ.)

=> Tác dụng biểu đạt: Tăng sức biểu cảm, cho thấy sự kiên trì của tướng sĩ Lam Sơn để giành lại đất nước.

(3). Quên ăn (phát phấn vong thực: mượn chữ trong sách Luận ngữ, nói về việc khi chí ham học nổi lên thì quên cả ăn.)

=> Cho thấy ý chí miệt mài nghiền ngẫm binh thư để tìm kế sách đánh giặc cứu nước.

(4). Lược thao (ghép từ hai từ lục thao và tam lược; Lục thao là tên một cuốn sách dạy về quân sự tương truyền do Lã Vọng đời Chu soạn, gồm 6 thiên; Tam lược là tên một cuốn sách do Hoàng Thạch Công soạn, gồm 3 phần.)

=> Tác dụng biểu đạt: Cho thấy sự nghiền ngẫm binh thư của tướng sĩ Đại Việt đã đến độ tường tận.

(5). Tiến về đông (mượn chữ từ một câu nói của Lưu Bang (Hán Cao tổ) với Tiêu Hà khi bị Hạng Vũ ép dồn về phía Tây: “Dư diệc dục đông hĩ, an năng uất uất cửu cư ư thử” (Ta cũng muốn tiến về phía đông chứ sao có thể rầu rĩ ở mãi chốn này được).

=> Tác dụng biểu đạt: Tỏ ý tiến về Đông Đô, lòng khao khát cũng như Hán Cao tổ đời trước.

(6). Dành phía tả (dẫn điển Tín Lăng Quân nước Ngụy thời Đông Chu, nghe tiếng Hầu Doanh là hiền sĩ liền đem xe đi đón, tự ngồi bên phải giữ cương ngựa, dành chỗ bên trái là chỗ tôn quý để Hầu Doanh ngồi.

=> Tác dụng biểu đạt: Thể hiện tấm lòng cầu hiền chân thành.

(7). Dựng cần trúc (yết can vi kì: giơ cậy lên làm cờ; mượn tích Hoàng Sào lúc mới dấy binh khởi nghĩa không kịp làm cờ phải giơ sào lên thay; bài Quá Tần luận của Giả Nghị đời Hán cũng có câu: "trảm mộc vi binh, yết can vi kì" (chặt gỗ làm khí giới, giơ sào len làm cờ)).

=> Cho thấy sự vượt qua thiếu thốn, gian khó và sự đoàn kết của nghĩa quân Lam Sơn.

(8). Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào (dịch từ cụm từ đầu giao hưởng sĩ (đổ rượu ngọt xuống sông để khao quân); dẫn điển xưa nói việc nước Tấn và nước Sở đánh nhau, có người dâng vua Sở một bình rượu ngon, vua Sở sai đổ rượu xuống sông để quân sĩ đón dòng mà uống, sau Sở đánh thắng Tấn.)

=> Tác dụng biểu đạt: Thể hiện tướng lĩnh và nghĩa binh Lam Sơn có lòng thương yêu nhau như cha với con.

* Câu 3 trang 26 SGK

Hầu hết các yếu tố "nghĩa" trong nguyên tác Bình Ngô đại cáo đã được dùng lại nguyên vẹn không dịch ra tiếng Việt (ví dụ: nhân nghĩa). Hãy liệt kê và giải thích ý nghĩa của các từ đó.

Trả lời


Từ “nhân nghĩa”, “đại nghĩa” trong nguyên tác chưa được dịch ra tiếng Việt.

- Đại nghĩa: là chính nghĩa cao cả.

- Nhân nghĩa: là lòng thương người ᴠà ѕự đối хử ᴠới người theo lẽ phải, là tình cảm, thái độ, ᴠiệc làm đúng đắn, phù hợp ᴠới đạo lý của dân tộc Việt Nam.

* Câu 4 trang 26 SGK

Tìm một số từ Hán Việt có yếu tố "nhân" được dùng với nghĩa như trong từ nhân nghĩa. Giải nghĩa các từ đó?

Trả lời

- Nhân ái: lòng yêu thương con người.
- Nhân đạo: lòng tốt tự nhiên của con người.
- Nhân hậu: có lòng thương người và ăn ở có tình nghĩa.
- Nhân từ: có lòng thương người và hiền lành.
- Nhân văn: thuộc về văn hóa loài người, thuộc về con người.

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 10, sách Kết nối tri thức đầy đủ và ngắn gọn tại đây.
Thêm
Sử dụng từ Hán Việt - Thực hành tiếng Việt, bài 6, sách Kết nối tri thức, Ngữ văn 10
566
0
0
Nguyễn Trãi là người toàn tài nhưng lại gặp nhiều điều ngang trái nên ông đã về ở ẩn ở Côn Sơn. Cảnh ngày hè là bài thơ được viết sau khi Nguyễn Trãi về quê ở ẩn. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên ngày hè, vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi và đặc điểm thơ Nôm của tác giả. Cùng VHT tự học trước ở nhà bài thơ Cảnh ngày hè qua bài soạn dưới đây.

phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-sieu-hay-1.jpg-1.jpg

Ảnh sưu tầm

Xem thêm
Bình Ngô đại cáo - Kết nối tri thức
Tác gia Nguyễn Trãi - Kết nối tri thức

I. Tìm hiểu chung

1. Quốc âm thi tập


- Tập thơ gồm 254 bài, là tập thơ chữ Nôm đầu tiên.

- Giá trị:

+ Nội dung: Phản ánh tư tưởng tình cảm, vẻ đẹp toàn diện của Nguyễn Trãi. Đó là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, giữ gìn nhân cách, hoà cảm với thiên nhiên.

+ Nghệ thuật: sáng tạo trong thể thơ Nôm, Đường luật, có xen câu lục ngôn với câu thất ngôn.

- Bố cục của tập thơ: 4 phần : Vô đề, Môn thì lệnh (thời tiết), Môn hoa mộc (cây cỏ), Môn cầm thú (thú vật)

2. Xuất xứ

Cảnh ngày hè
nằm trong mục Bảo kính cảnh giới, vị trí số 43 trên tổng số 62 bài.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống

* Hoàn cảnh ngắm cảnh của tác giả:


Câu 1 ngắt nhịp 1/2/3 chậm rãi - tác giả thảnh thơi, nhàn nhã đang dạo bước thưởng ngoạn cảnh. Đó là những khoảnh khắc hiếm thấy trong c/đ nhà thơ.

* Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống:

- Hình ảnh:

+ Cây hòe: “đùn đùn tán rợp giương”=> dùng từ láy lại là động từ mạnh gợi tả sức sống của cây như từ bên trong hối hả trào ra bên ngoài khiến tán cây vươn ra mạnh mẽ, che rợp cả không gian.

+ Hoa lựu: “phun thức đỏ”=> động từ “phun” khiến màu đỏ như tạo thành dòng tuôn chảy, tô đậm sắc đỏ của hoa.

+ Sen hồng: toả ngát mùi hương.

=> cảnh thiên nhiên quen thuộc, gần gũi với làng quê Việt Nam.

- Âm thanh:

+ Tiếng của làng nghề chài lưới lao xao vọng lại.

+Tiếng ve lúc mặt trời sắp lặn như tiếng đàn => Đảo tính từ, từ láy lên đầu nhằm nhấn mạnh không khí rộn rã, tươi vui trong đời sống người lao động.

=> Bức tranh thiên nhiên mùa hè được miêu tả từ gần tới xa, có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc với âm thanh, giữa con người và cảnh vật. Tất cả đều gần gũi, bình dị, tĩnh ở bên ngoài mà tràn đầy, ứa căng sức sống ở bên trong => Tình cảm yêu thiên nhiên, tư thế ung dung, thảnh thơi và khả năng bao quát, nắm bắt lấy cái hồn cảnh vật của nhà thơ.

2. Khát vọng của nhà thơ

- Niềm mong ước: có cây đàn của vua Thuấn.

- Mục đích của niềm mong ước: Mỗi khi cây đàn ấy gảy khúc Nam phong thì mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn sung sướng no đủ. Tác giả dùng câu 6 chữ để kết bài nhằm cô đặc, nhấn mạnh niềm mong ước của mình. Ông không hề nghĩ đến mình mà toàn tâm, toàn ý hướng về dân, lo cho dân.

=> Bộc lộ niềm thương và nỗi lo đau đáu cho dân => biểu hiện của 1 trái tim lớn, một nhân cách cao cả, thân nhà mà tâm không nhàn.

III. Tổng kết

* Nội dung:


- Bức tranh mùa hè đẹp đẽ, thơ mộng.

- Tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi.

* Nghệ thuật

- Vận dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu bảy chữ.

- Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ (lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân) nhưng lại rất giàu cảm xúc và giàu sức gợi.

- Bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người, về cuôc đời.
...................................................
Chúc các em học tốt!

Thêm
Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi - Ngữ văn 10, Kết nối tri thức
823
0
0
Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn hòa bình giàu tư tưởng nhân nghĩa; tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc; kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và trữ tình; lập luận chặt chẽ, sắc bén, giọng điệu hào hùng. Cùng VHT tham khảo bài soạn đầy đủ chi tiết về áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo qua bài soạn sau đây.

bình ngô.png

Ảnh sưu tầm

I. Tìm hiểu chung

1. Hoàn cảnh sáng tác.


- Cuối năm 1427, sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc.

- Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo ĐCBN để tổng kết toàn diện cuộc kháng chiến vĩ đại của DT ta, báo cáo cho toàn dân được biết.

- Bình Ngô đại cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập được công bố vào tháng chạp năm 1428.

2. Thể loại: cáo

Một thể văn nghị luận cổ, có nguồn gốc từ Trung Quốc, được vua chúa dùng để trình bày một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện trọng đại.

3. Nhan đề

- Đại cáo: Tên thể loại - bài cáo lớn mang tầm quốc gia trọng đại.

- Bình: dẹp yên, bình định, ổn định.

- Ngô: chỉ giặc phương Bắc xâm lược với hàm ý căm thù, khinh bỉ.

4. Bố cục

- Bài cáo được chia làm 4 đoạn.

+ Đ1 “Từng nghe ... còn ghi” - nêu cao luận đề chính nghĩa.

+ Đ2 “ Vừa rồi ... chịu được” - vạch trần tội ác giặc Minh.

+ Đ3a “Ta đây... địch nhiều” - hình tượng chủ tướng Lê Lợi và những ngày đầu của khởi nghĩa Lam Sơn

+ Đ3b “Trọn hay...xưa nay” - quá trình chinh phạt và chiến quả.

+ Đ4 “Xã tắc... đều hay” -Tuyên ngôn độc lâp, đất nước từ nay muôn thủa thái bình.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Đọc văn bản

2. Tìm hiểu văn bản

2.1. Nêu luận đề chính nghĩa (Tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập của nước Đại Việt)


– Tư tưởng nhân nghĩa:

+ Theo quan niệm của đạo Nho: nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.

+ Nhân nghĩa cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

+ Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân và trừ bạo.

=> Đây là tư tưởng mới mẻ với quan điểm lấy dân làm gốc. Như vậy, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa gắn liền với yêu nước, chống ngoại xâm. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, là sự phát triển của tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi so với Nho giáo. Khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ thù xâm lược.

– Nguyễn Trãi đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của dân tộc : nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng.

=> Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát triển một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia, dân tộc. ( so sánh với quan niệm của Lý thường Kiệt trong Nam quốc sơn hà).

- Còn kẻ thù xâm lược đã phản nhân nghĩa nên chúng đã thất bại.

- Hai câu văn cuối đoạn: “Việc xưa xem xét/ chứng cớ còn ghi”.

=> khẳng định hùng hồn về hai chân lí: tư tưởng nhân nghĩa và chủ quyền độc lập dân tộc.

- Tác giả sử dụng những từ ngữ thể hiện tính chất hiển nhiên, vốn có, lâu đời của nước Đại Việt độc lập, tự chủ: "từ trước’, ‘vốn có’, ‘đã lâu’, ‘đã chia’, ‘cũng khác’

– Sử dụng biện pháp so sánh: đặt ta ngang hàng với Trung Quốc, ngang hàng về trình độ chính trị, tổ chức chế độ, quản lí quốc gia.

– Câu văn biến ngẫu cân xứng, nhịp nhàng.

– Cách lập luận kết hợp hài hòa giữa lí luận và thực tiễn: sau khi nêu nguyên lí nhân nghĩa, nêu chân lí khách quan bằng các sự thật lịch sử.
=> Thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lí, nói chung lại là sức mạnh của chính nghĩa.

2.2. Bản cáo trạng về tội ác của kẻ thù

a. Vạch trần mưu xâm lược


- Chỉ rõ luận điệu “phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh là bịp bợm, giả nhân, giả nghĩa.

=> Đấy là âm mưu thôn tính nước ta đã sẵn có từ lâu ( “nhân”, “thừa cơ”).

- Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc để vạch trần âm mưu xâm lược của kẻ thù.

b. Tố cáo và lên án những chủ trương cai trị thâm độc và hành động vô nhân đạo của giặc.

- Tác giả đi sâu tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh.

+ Huỷ hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người vô tội: “Nướng dân đen", "vùi con đỏ”.

=> Đó là tội ác man dợ nhất của giặc là tàn sát người vô tội theo hình phạt trung cổ.

+ Lừa mị dân chúng, gây cảnh đao binh: “dối trời lừa dân", "gây binh kết oán”.

+ Tham lam, vơ vét của cải, bóc lột nhân dân: “nặng thuế khoá", "người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng", "vét sản vật", "bắt chim trả", "bẫy hươu đen", "no nê chưa chán”.

+ Huỷ hoại môi trường sống của con người: “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”.

+ Nô dịch, khổ sai dân chúng: “xây nhà", "đắp đất", "phu phen”.

- Hình ảnh kẻ thù: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”.

=> Khắc hoạ thành công bộ mặt khát máu của quân xâm lược.

- Bốn câu thơ cuối diễn tả tội ác chất chồng của giặc và nỗi căm hờn chất chứa của nhân dân ta:

+ Lấy cái vô hạn “trúc Nam Sơn” để nói vô hạn (tội ác của giặc).

+ Dùng cái vô cùng “nước Đông Hải” để nói cái vô cùng (sự nhơ bẩn của kẻ thù).

+ Câu văn đầy hình tượng và đanh thép đã lột tả được sâu sắc tội ác “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được”.

- Tác giả đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của giặc.

- Nghệ thuật:

+ Dùng nhiều hình ảnh gợi cảm, giàu tính biểu trưng và khái quát để diễn tả tội ác kẻ thù.

+ Sử dụng thủ pháp đối lập để khắc hoạ sự đau khổ của người dân vô tội và kẻ thù xâm lược.

+ Lời văn khi đanh thép, khi thống thiết, khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.

2.3. Hình tượng chủ tướng Lê Lợi và buổi đầu của cuộc khởi nghĩa

* Buổi đầu khởi nghĩa


- Những khó khăn ở buổi đầu khởi nghĩa

+ Địa bàn dấy nghĩa hẻo lánh: Núi Lam Sơn dấy nghĩa / Chốn hoang dã nương mình

+ Thế ta và giặc không cân sức: Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đương mạnh

+ Thiếu nhân tài: Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu

+ Có lúc bị vây, lương thực hết, quân lính chỉ còn mấy người: Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Khi Khôi huyện quân không một đội

* Sức mạnh giúp nghĩa quân vượt qua những khó khăn thử thách của buổi đầu dấy nghiệp thể hiện qua hình tượng Lê Lợi - lãnh tụ của nghĩa quân.

- Lê Lợi có ý thức tự giác về sứ mệnh của mình. Ông xem mối thù của nước, nỗi đau của dân như chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt 20 năm: (Ngẫm thù lớn há đội trời chung…Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối)

- Lê Lợi ngày đêm suy nghiệm về lẽ hưng vong của các triều đại để tìm ra đường lối đánh giặc cứu nước

+ Đó là đường lối cứu nước dựa vào toàn dân và phương châm: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo

+ Đại nghĩa: là bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, và đem lại cuộc sống yên ổn cho dân

+ Chí nhân: là lòng nhân nghĩa ở mức cao nhất, đối với kẻ bại trận ta không giết, không gây thù oán để gây hậu họa.

+ Khi đã tìm được đường lối cứu nước. Lê Lợi chủ động giải quyết ngay những khó khăn trước mắt.

+ Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối

+ Ông tìm kiếm người tài: Cỗ xe cầu hiền, thường châm chăm còn dành phía tả

+ Ông tập hợp nhân dân dưới cờ đại nghĩa, tạo thành một khối đoàn kết bền vững: Nhân dân bốn cõi một nhà/ Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới – Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

+ Lê Lợi có một chiến lược, chiến thuật đúng đắn: Thế trận xuất kì/ Lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục/ Lấy ít địch nhiều

- Đoạn văn có nhiều từ ngữ diễn tả tâm trạng Lê Lợi (yếu tố biểu cảm): ngẫm, căm, đau lòng nhức óc, giận, suy xét, đắn đo, trằn trọc, băn khoăn…

2.4. Phản công thắng lợi

* Giai đoạn mở màn

Cuộc phản công là 2 trận đánh lớn: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật - Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay

- Đặc điểm nổi bật của 2 trận mở màn này là: Đánh nhanh, thắng nhanh. Địch thua và hoảng sợ không kịp trở tay → Lời văn ngắn gọn sắc sảo, hình ảnh so sánh rất gợi hình, gợi cảm: “sấm vang chớp giật", "trúc chẻ tro bay” còn quân giặc thì “nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân”.

* Giai đoạn áp đảo

- Đánh ra hướng Bắc với 2 trận: Tây Kinh quân ta chiếm lại/ Đông Đô đất cũ thu về. Đây là 2 trận diễn ra quyết liệt vì quân ta áp sát sào huyệt của địch, chúng tung lực lượng lớn ra với sự chỉ huy của các danh tướng. Kết quả:

+ Máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm

+ Thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm

+ Trần Hiệp đã phải bêu đầu

+ Lí Lượng cũng đành bỏ mạng

+ Sau giai đoạn này thì quân giặc đã: trí cùng lực kiệt, bó tay để đợi bại vong

+ Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt tâm công” nghĩa là phá tan mưu kế của giặc và đánh tan ý chí chiến đấu của địch, không dùng gươm giáo mà quân địch vẫn chịu thua, hàng ngũ tan rã.

- Trận đánh cuối cùng:

+ Bốn câu văn dài kể về việc điều binh khiển tướng của đôi bên, hai câu trên kể về giặc, hai câu dưới kể về ta (Đinh Mùi tháng chín….tuyệt nguồn lương thực)

+ Những thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể với giọng hả hê, tự hào (Ngày mười tám…/Ngày hai mươi…/ Ngày hai mươi nhăm…cùng kế tự vẫn)

+ Sức mạnh tấn công của quân ta với thế long trời lở đất: Sĩ tốt kén người hùng hổ…Thông tổ kiến phá toang đê vỡ

- Hình ảnh quân giặc bại trận:

+ Tướng giặc thì: Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội/ Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng/ Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

+ Quân lính thì: khiếp vía vỡ mật, xéo lên nhau để chạy thoát thân, quay gót chẳng kịp, cởi giáp ra hàng

+ Cảnh chiến trường thật là ghê sợ và cũng rất thương tâm: Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy nội….cỏ nội đầm đìa máu đen. (Thần vũ chẳng giết hại….để nhân dân nghỉ sức)

- Lời bình phẩm của tác giả: Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay.

- Hình tượng Lê Lợi: Hiện lên là một thiên tài quân sự lỗi lạc.

+ Ông đã học tập kinh nghiệm của ông cha, thực hiện chiến lược, chiến thuật “mưu phạt tâm công” nghĩa là đánh vào ý chí chiến đấu của giặc. Nhưng quân giặc “không biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ”. Vì vậy Lê Lợi đánh đuổi tới cùng, điều binh khiển tướng khẩn trương mau lẹ

+ Lê Lợi cho quân đuổi giặc đến cùng nhưng lại “mở đường hiếu sinh”

=> Ở đây ta thấy rõ vẻ đẹp nhân nghĩa trí dũng của người anh hùng Lê Lợi

* Nghệ thuật

- Các câu văn thuật và kể tả có độ dài ngắn khác nhau, chạy song song từng cặp một, có sự biến hóa linh hoạt.

- Phép đối được dùng để so sánh bên ta, bên địch.

- Những câu văn ngắn gọn, đanh chắc, nhịp mạnh mẽ, diễn tả khí thế phản công mãnh liệt của quân ta

- Những câu văn dài miêu tả thất bại của quân giặc, như sự thất bại còn chưa kể hết (Bị ta chặn ở Lê Hoa….thoát thân)

- Hình ảnh được sử dụng phong phú, đa dạng

- Yếu tố biểu cảm dày đặc: Tác giả thể hiện sự coi khinh đối với tên vua nhà Minh và 2 tên tướng giặc thống lĩnh viện binh: thằng nhãi con Tuyên Đức, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, âm hưởng hào hùng của những trận đánh.

=>“Ở đây âm điệu trữ tình bỗng xen vào những dòng tự sự ào ạt của trận đánh. Rõ ràng cảnh tượng khách quan có tác động đến tâm tình chủ quan của người viết, khiến phải trực tiếp phát biểu cảm tưởng của chính mình” Lê Trí Viễn.

2.5. Tuyên ngôn độc lập, đất nước thái bình.

- Trịnh trọng và vui mừng truyền đi lời tuyên bố nền độc lập của dân tộc đã được lập lại “Xã tắc...sạch làu”.

- Rút ra bài học lịch sử: Sự thay đổi này thực chất là sự phục hưng “bĩ rồi lại thái...hối rồi lại minh”.

=> Đấy là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền đời đời “Muôn thủa....vững chắc”.

- Khẳng định viễn cảnh tươi sáng huy hoàng của đất nước “Bốn...duy tân khắp nơi”.

=> Đấy cũng là kết quả của việc kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại: có hiện thực tốt đẹp hôm nay và tương lai ngày mai tươi sáng là nhờ “trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp” và cũng nhờ vào chiến công trong quá khứ

“ Một...ngàn năm”.

- Nghệ thuật:

+ Giọng văn chận rãi, mang sắc thái đĩnh đạc, trang trọng, tràn đầy lạc quan về tương lai của dân tộc.

+ Âm hưởng trang trọng, thiêng liêng trong lời tuyên bố nền độc lập của dân tộc.

III. Tổng kết

1. Nội dung


Là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của dân tộc ta ở thế kỉ XV.

+ Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, chân lí độc lập dân tộc.

+ Tố cáo tội ác của kẻ thù.

+ Tái hiện quá trình kháng chiến hào hùng.

+ Tuyên bố độc lập, rút ra bài học lịch sử.

2. Nghệ thuật

- Kết hợp hài hòa 2 yếu tố: chính luận sắc bén và văn chương trữ tình.

- Mang đậm cảm hứng anh hùng ca.

Là áng “thiên cổ hùng văn”.
......................................................
Chúc các em học tốt!
Thêm
Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi - Ngữ văn 10, Kết nối tri thức
514
0
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top