Baivanhay 5 bài văn mẫu nghị luận văn học 12 hay nhất

Baivanhay  5 bài văn mẫu nghị luận văn học 12 hay nhất

Nghị luận văn học là dạng văn bản dùng để bày tỏ sự cảm thụ tác phẩm văn học theo suy nghĩ của cá nhân, là những lý lẽ để đánh giá, phân tích, bàn bạc về vấn đề thuộc lĩnh vực văn học để khám phá thế giới nội tâm của tác giả, đồng thời tìm ra những giá trị thuyết phục người khác nghe theo quan điểm, ý kiến cá nhân của mình.

Dưới đây là 5 bài văn mẫu trọng tâm được viết khá công phu và tâm huyết. Thầy cô và các bạn học sinh nên tham khảo những bài viết này.

4657

Bài văn mẫu số 1

Đề bài: Nhận xét về bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Hà Minh Đức viết: “Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn” (Nxb Văn học, 2006, tr.67-68). Anh/Chị hãy làm rõ ý kiến đó qua đoạn thơ sau:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ



Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa


(“Tây Tiến”, Quang Dũng)


Bài làm

“Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế

Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ

Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào

“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”

(“Cuộc chia ly màu đỏ” – Nguyễn Mỹ)

Chiến tranh đi qua để lại cho chúng ta là bao hoài niệm về những tháng năm không thể nào quên. Đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, để vệ quốc, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ và tình cảm cá nhân để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thực xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ “Tây Tiến”. Nhận xét về bài thơ “Tây Tiến”, tác giả Hà Minh Đức viết: “Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn” . Qua khổ thơ hai và ba trong thi phẩm, ta càng hiểu rõ thêm về nhận định này.

Quang Dũng là người con của thủ đô Hà Nội. Ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà thành đầy sức trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò là một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Chính những điều này đã củng cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho đất nước cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm tư của mình trong những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời là những đóng góp rất đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà. Một số tác phẩm nổi bật của Quang Dũng cần kể đến như: “Mắt người Sơn Tây”, “Rừng biển quê hương” (năm 1957), “Đường lên Châu Thuận” (năm 1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968). Nhưng tiêu biểu nhất là tập “Mây đầu ô” (năm 1986) mà điển hình là bài thơ “Tây Tiến”. Thi phẩm ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, được ra đời năm 1948, do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm, những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.

“Tây Tiến” là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn”, nhận định đã đề cập đến một vẻ đẹp rất riêng của “Tây Tiến” đó là tính nhạc. “Nhạc điệu” ở đây không phải một bộ môn nghệ thuật riêng rẽ mà nhạc ấy là nhạc điệu của thơ, là một sự biểu đạt của ngôn ngữ, là vần điệu, sự hài thanh, sự sắp xếp câu chữ mang tính nhạc và dễ đi vào lòng người. “Tây Tiến” là một thi phẩm “giàu nhạc điệu” không chỉ ở vần điệu, tiết tấu hài hòa, nhịp nhàng, mà còn ở cảm xúc và tâm hồn của tác giả, của chủ thể trữ tình đang nhớ nhớ thương thương về binh đoàn từng gắn bó. Như vậy nhận định của Hà Minh Đức khẳng định tính nhạc trong bài thơ “Tây Tiến” - nhạc ở vần thơ, nhạc ở cảm xúc, tâm hồn.

Sau những dòng thơ gieo neo, trúc trắc nơi chặng đường hành quân gian khổ, “Tây Tiến” ru ta trong nhạc điệu cất lên từ men say của tâm hồn người lính:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trong toàn bộ thi phẩm, đây là lần thứ hai “đuốc” được liên tưởng đến “hoa” – nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như “hoa về trong đêm hơi” thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản mường miền Tây, bút pháp lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên tưởng thú vị, đem đến sự náo nức, rạo rực trong lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng, rộn rã. Đâu rồi những mệt nhọc, khó khăn? Đâu rồi những mỏi mệt, hi sinh? Khung cảnh đêm liên hoan dường như đã xóa tan những điều đó. Ở đây cụm từ “bừng lên” là một nét nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về thứ ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng, thể hiện niềm vui sướng, rạo rực trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây. Cứ như thế, từng câu chữ như những nốt trầm bổng trên khuông nhạc, dìu dắt tâm hồn người đọc đến với bao hình ảnh ấn tượng:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp”

Từ “kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân nơi rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa người đọc đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ trước. Doanh trại bừng lên hình như không chỉ vì ánh sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước một đoàn quân “xanh màu lá”, duyên dáng hơn trước những người lính “dữ oai hùm”. Nét tương phản của cảm hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu của núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ trong tiếng khèn lên mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sĩ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào, những đường nét duyên dáng trong đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ với những vẻ đẹp say người của phương xa đất lạ: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Câu thơ có tới sáu thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi vơi ấy. Nhịp điệu của bốn câu thơ như nhịp nhặt khoan, dìu dặt của tiếng khèn, gợi vẻ khỏe khoắn, trẻ trung. Bốn câu thơ vừa chan chứa màu sắc, âm thanh, vừa ấm áp tình người. Đó phải chăng là nhịp điệu của đời sống chiến khu và của tâm hồn những người lính trẻ.

Nhạc tính của “Tây Tiến” không chỉ đến từ những vần thơ rộn ràng tái hiện không khí liên hoan mà còn nhẹ nhàng, bâng khuâng trong những câu từ của hoài niệm, của nỗi nhớ về cảnh và người miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ tha thiết mênh mông về cảnh sắc và con người miền Tây Bắc. Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi, nhưng đâu chỉ là nhắn với ai đó mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng miền Tây trong một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của hoài niệm, nhớ nhung. Từ “ấy” vang lên không chỉ là chỉ định về một buổi chiều sương đặc biệt mà còn mở ra những cung bậc da diết của nỗi nhớ. Trong tiếng Việt, “ấy” là một đại từ chỉ định luôn đem đến sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng nỗi nhớ tiếc cho những danh từ đứng cùng với nó như thuở ấy, ngày ấy, người ấy. Và bây giờ, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về “chiều sương ấy” với bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người đã bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng.

Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về, thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người. Câu hỏi thứ nhất hướng về những hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại: “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về “hồn lau” thay vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau… Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ cần một chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa, mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết. Và hơn thế nữa, đối với Quang Dũng, hình ảnh “hồn lau” dường như đã trở thành đặc trưng, biểu đạt cho một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa và giàu ý chí:

“Đâu đây đứt pháo xích kêu giòn

Liệt sĩ tên còn xanh núi non

Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt

Mà như lau sậy có linh hồn”

(“Pha Đin” - Quang Dũng)

Còn trong những cung bậc thiết tha của nỗi nhớ trong “Tây Tiến”, câu hỏi “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” càng làm xao xác lòng người. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân. Nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xúc động trong lòng người đã chia xa. Và cứ thế, “hồn lau” nhắc nhớ và liên hệ tới tình cảm với con người, vẫn trong cấu trúc câu hỏi “có thấy”, “có nhớ”:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc, vừa mềm mại, duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ “hoa đong đưa”. Quang Dũng không viết hoa “đung đưa” mà là hoa “đong đưa” vừa nhằm miêu tả sự duyên dáng của hoa trên dòng nước lũ vừa gợi tả tinh tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ miền sơn cước. Chi tiết “đong đưa” rất nhẹ, rất nhỏ ấy nhưng đã góp phần làm nên nhạc điệu tâm hồn cho thi phẩm. Toàn bộ đoạn thơ là những miêu tả, những liên tưởng, hoài niệm, nhớ mong của tác giả đối với thiên nhiên miền Tây đẹp, lãng mạn, có sự giao hòa độc đáo tính họa và tính nhạc.

Như vậy, có thể thấy ý kiến của tác giả Hà Minh Đức hoàn toàn xác đáng. Những câu thơ trong “Tây Tiến” không chỉ được khắc, chạm hình sắc, đường nét vào người và cành, mà còn được tác giả phổ vào những nốt nhạc tinh tế. Nhạc điệu ấy thể hiện ở vần chân: “Bờ-đưa”, vần lưng: “ấy- thấy”; ở điệp âm, điệp thanh: “Châu Mộc, độc, dòng, đong”.... Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc: “Giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc / là những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật). Từ hình thức, câu từ đến nội dung, xúc cảm, đọc “Tây Tiến” và đặc biệt là hai khổ thơ này, “ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng” (Xuân Diệu) và cảm được điệu nhạc cất lên từ cuộc sống và trong tấm lòng của nhà thơ dành cho một thời kì gian khó và những người đồng đội giờ đây đã chia xa.

Mỗi phần của bài thơ “Tây Tiến” đều mở ra những khung cảnh và hoài niệm khó quên trong những vần điệu linh hoạt và tài tình. Những hình ảnh mộc mạc ấy dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ, mỗi nét đậm nhạt với sự kết hợp cả cảnh và con người đều thật sống động. Tám câu thơ của khổ hai đều vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển, giàu nhạc điệu, “nhạc điệu của cuộc sống và tâm hồn”. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của tác giả trong tổng thể bài thơ, để lại dấu ấn lâu bền trong trái tim bạn đọc. Bất giác ta lại nhớ đến những vần thơ Giang Nam đã từng viết về thi phẩm này:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Sống mãi muôn đời với núi sông.”
 
Từ khóa Từ khóa
bài thơ tây tiến bài văn mẫu nghị luận văn học ngữ văn 12 song việt bắc đất nước
2K
2
5
Trả lời
Bài văn mẫu số 2

Đề bài: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

(Trích “Việt Bắc”, Tố Hữu)
Qua đó, hãy bình luận về sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình trong thơ Tố Hữu.


Bài làm
Có một người nghệ sĩ đã từng tâm sự trong thi phẩm của mình:
“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu…”

Cũng là thi sĩ ấy, khi sắp phải lìa xa với cuộc đời, đã cất tiếng thơ sâu lắng:
“Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy dòng thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho. Chết cũng là cho.”

Hào sảng là vậy nhưng cũng nặng nghĩa nặng tình là vậy, đó không ai khác ngoài người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu. Cứ như thế, bao trang thơ hay cũng chính là trang sử vẻ vang, trang cách mạng hào hùng mà Tố Hữu chấp bút đã đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tiêu biểu trong số đó không thể không kể đến “Việt Bắc”, thi phẩm ra đời nhân một sự kiện lịch sử trọng đại, là kết tinh của phong cách thơ trữ tình - chính trị, là thứ văn chương cách mạng “chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…” (Xuân Diệu). Thi phẩm đã ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên mà qua đó sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình được thể hiện sâu sắc:

“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Những câu thơ thiết tha, bồi hồi được chấp bút bởi người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu. Ông là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Minh chứng cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được hoàn thành khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7 năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc, Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Là nhà cách mạng, nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà thơ “kể chuyện”, một nghệ sĩ chuyên viết “tình ca”. Tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia ly giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:
“- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại – đồng bào Việt Bắc. Trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ Cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà cất thành tiếng tỏ bày. Câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp về tình cảm của cán bộ cách mạng: “Khi về đến thủ đô Hà Nội rồi, liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay không?”. Chữ “về” nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng đến thế. Điểm rơi thấp nhất của câu thơ khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoảng hụt hẫng trong tâm hồn giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng, vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình – ta” – cách xưng hô thắm thiết yêu thương gợi nhớ những khúc hát tình nghĩa trong ca dao dân ca. Nhắc đến “mình - ta” là nhớ tới:

“Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Là không thể quên:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”

Với cách xưng hô “ta” – “mình”, dường như Tố Hữu đã đem tất cả kí ức yêu thương tình nghĩa để phổ vào cuộc chia tay Việt Bắc giữa đồng bào kháng chiến với đồng bào chiến khu. Cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại bỗng ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa những đôi lứa yêu nhau. Bao ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi, vừa để tỏ bày nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng. Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm. "Mười lăm năm", nghe vừa xa xôi, vừa gần gũi. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỷ niệm trong chiến đấu, trong sinh hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt thay, đó cũng là mốc thời gian nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố Hữu thật đặc biệt, nói về tình cảm của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà lại sử dụng tính từ: “thiết tha, mặn nồng.” Đây vốn là những từ ngữ thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy mới thấy được chất trữ tình nồng đượm trong tứ thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế Lan Viên – người bạn thơ đồng thời đã từng đưa ra nhận xét về thơ Tố Hữu như sau: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”. Đọc “Việt Bắc” chúng ta càng thêm thấm thía nhận định này. Chưa dừng lại ở đó, người ở lại tiếp tục tỏ bày:

“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.”

Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhớ người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn đường, phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không. Từ “nhìn” được điệp lại hai lần mang theo lời nhắn nhủ thiết tha, “nhìn cây” – “nhớ núi” – nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông – nhớ nguồn”- nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn Cách mạng. Giống với Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình, nói hộ biết bao trái tim về những cung bậc trước khi chia xa:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Việt Bắc bây giờ đã trở thành một phần ký ức không thể nào quên với cán bộ cách mạng. Càng nhìn lại càng thấy nhớ, thấy thương. Điều này còn được thể hiện rõ hơn qua lời tâm sự của Tố Hữu: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.”

Nếu như bốn câu thơ đầu cho ta thấy tình cảm thiết tha, trìu mến của người ở lại dành cho người ra đi thì ở bốn câu thơ tiếp theo chính là lời đáp trả của người ra đi. Đối với người ra đi, cảm xúc chủ đạo bây giờ là xuyến xao, bồi hồi, bâng khuâng khó tả:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

“Tiếng ai”, là tiếng của ai thiết tha khiến cho lòng ai bâng khuâng, bồn chồn không nỡ cất bước ra đi? Những vần thơ bịn rịn khiến người đọc cũng thấy xao xuyến theo. Mặc dù tác giả đã bỏ ngỏ phần chủ ngữ nhưng đọc câu thơ, ta vẫn hiểu được ai là người rối bời bao cảm xúc trong tâm trí. Có lẽ trong giây phút ấy, kẻ ở người đi chỉ có thể “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Dấu ba chấm bị bỏ lửng thay cho bao điều muốn nói. Xúc động và nghẹn ngào, hẳn là trong giây phút này có không ít người đang rưng rưng nước mắt. Lúc gian khó ở bên nhau, giờ hòa bình độc lập lại phải xa nhau. Tình nghĩa sắt son, mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia ly. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là những người dân miền núi, Tố Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này càng thể hiện sự gần gũi, giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương, nhưng chung một đất nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, trong lòng họ không ai bảo ai đều chung một niềm tin chiến đấu, chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc.

Màu chàm sắc áo là màu của bền bỉ, của tình nghĩa, sự nồng hậu, thủy chung từ con người Việt Bắc. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm" dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...". Trước tiên là hành động "cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Trong giây phút chia ly đầy lưu luyến, người đi người ở bao nhiêu mối vương bận tơ lòng chưa thể ngỏ cùng nhau, chỉ một ánh mắt trao đi là đủ. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt lặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.

“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”, đó là những gì Xuân Diệu nhận xét về thơ ca của người chiến sĩ, thi sĩ này. Và qua tám dòng thơ đầu của “Việt Bắc”, ta đã thấy được sự hài hòa giữa chất chính trị và chất trữ tình ấy. Đoạn thơ đã đề cập đến một sự kiện lịch sử có ý nghĩa lớn với cả dân tộc: Trung ương Đảng và chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc để trở về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Cuộc chia tay giữa “mình” và “ta” trong đoạn thơ thực chất là cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến, góp phần thể hiện mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa cách mạng với quần chúng nhân dân. Đây là một tình cảm lớn lao, mang tính chính trị, nó khác với những tình cảm riêng tư, cá nhân. Cảm hứng chủ yếu của đoạn thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, với căn cứ địa Việt Bắc. Không chỉ vậy, kỉ niệm được nhắc đến là kỉ niệm về một thời cách mạng, một vùng cách mạng mà “mình” và “ta” đã cùng nhau trải qua “mười lăm năm ấy”... Tất cả đó đem đến chất chính trị rất đỗi cao cả cho đoạn thơ. Nhưng bên cạnh đó, cái hay của Tố Hữu là ở chỗ hòa quyện được chất chính trị với chất trữ tình, dù chỉ trong tám dòng thơ ngắn ngủi. Đoạn thơ được viết với kết cấu đối đáp giữa “mình” và “ta” trong một cuộc chia tay quyến luyến bịn rịn. Đó là cách xưng hô thân mật thường thấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô trong tình yêu đôi lứa, nghe sao mà tha thiết, bâng khuâng. Tiếng nói trữ tình tha thiết của người đi - kẻ ở đã gieo vào lòng người đọc sắc thái của một cuộc chia tay lớn mang ý nghĩa lịch sử trọng đại nhưng lại ùa về trong dáng dấp của cuộc biệt li giữa đôi lứa yêu nhau. Như vậy, bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị mà sâu sắc, thể thơ lục bát thiết tha bồi hồi, lời thơ duyên dáng, ngọt ngào, Tố Hữu đã mở ra trước mắt người đọc cuộc chia li giữa người đi kẻ ở, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ Cách mạng, biết bao lưu luyến, ân tình nhưng cũng là biết bao tự hào về trang sử vẻ vang của dân tộc. Chất chính trị và chất trữ tình đã cùng hòa quyện, hài hòa và thống nhất trong một hồn thơ - Tố Hữu.

Tiếng lòng của người ra đi và người ở lại vẫn còn âm vang đâu đây, gieo vào lòng người bao xúc cảm nhớ nhung và yêu mến trước nghĩa tình sâu nặng, tha thiết ấy. Lời hỏi cũng đồng thời là lời đáp, lời khẳng định, lời nhắn gửi ân tình giữa cán bộ chiến sĩ về xuôi với người dân Việt Bắc. Chia tay là khoảnh khắc, ra đi là tất yếu nhưng khoảng thời gian “mười lăm năm ấy”, sự hòa quyện độc đáo giữa chất chính trị và chất trữ tình ấy sẽ mãi luôn thường trực trong tiềm thức, ấp ủ trong trái tim mỗi người, để dù khoảng cách về thời gian, không gian có xa đến đâu thì “Việt Bắc” vẫn luôn sống mãi trong lòng người dân, người chiến sĩ cách mạng và trong lòng bạn đọc mọi thế hệ về sau. Cũng giống như lời hứa sắt son năm ấy mà người đi kẻ ở vẫn hoài mong và nhắc nhớ:
“- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.”
(“Việt Bắc” - Tố Hữu)
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021
Bài văn mẫu số 3
Đề bài: Phân tích hai đoạn thơ trong thi phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu. Từ đó anh/chị hãy nêu cảm nhận về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp.

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…


Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.


Bài làm
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà thơ Tố Hữu được biết tới là một trong những đại diện tiêu biểu của mảng thơ ca cách mạng. Mỗi bước chuyển mình của lịch sử, Tố Hữu đều ghi dấu ấn của mình với bạn đọc bằng những tập thơ xuất sắc. Nhà thơ mang trong mình giọng thơ trữ tình chính trị, có thể viết về những sự kiện lịch sử quan trọng nhưng lại bằng giọng thơ thủ thỉ, tâm tình. Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho đời thơ Tố Hữu đó là bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Qua hai đoạn thơ về cuộc sống của quân và dân tại chiến khu và về đoàn quân ra trận trong thi phẩm này, mỗi người trong số chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến thắng của quân và dân thời kì chống Pháp để từ đó thêm yêu, thêm tự hào hơn về một thời quá khứ hào hùng của dân tộc.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Minh chứng cho điều này phải kể đến bài thơ ‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được hoàn thành khi Hiệp định Genève về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7 năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc, Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi phẩm này. “Việt Bắc” như một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Cuộc sống của quân và dân ta tại chiến khu Việt Bắc những năm tháng gian khổ ấy được Tố Hữu khắc họa qua những câu thơ: “Ta đi, ta nhớ những ngày… đều đều suối xa…” thật ngọt ngào, sâu lắng. Bốn dòng thơ đầu là lời người ra đi đáp lại nghĩa tình của người ở lại. Giọng thơ tha thiết, chân thành gợi lên bao nỗi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ của “ta” và “mình”:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Nếu người ở lại hỏi “mình đi có nhớ những ngày” thì người ra đi hồi đáp: “Ta đi ta nhớ những ngày”. “Những ngày” ở đây là cách nói chỉ thời gian gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Đó là nỗi nhớ về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” với bao ân tình cao đẹp. Mười lăm năm “ta” đã cùng “mình” gánh vác giang sơn, chịu đựng bao gian khổ, thiếu thốn; đã cùng nhau đi qua bao biến cố; mười lăm năm ấy giờ đã thành máu thịt trong nhau rồi. Bốn chữ “mình đây, ta đó” gợi lên mối quan hệ gắn bó khăng khít, gần gũi, sát cánh vai kề như “đây” với “đó”. Nhà thơ Tố Hữu còn khéo léo đưa vào trang thơ của mình âm hưởng dân gian qua thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” giàu sức gợi. “Đắng cay ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai âm của cuộc sống. “Đắng cay ngọt bùi” cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc đời mà “ta” và “mình” đã cùng nhau trải qua. “Đắng cay” là để chỉ những gian khổ, mất mát, hi sinh; “ngọt bùi” chỉ niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Nếu như có người từng cảm thán “Có mối tình nào đậm sâu hơn mối tình Tổ quốc” thì đến đây ta cảm nhận được một mối tình cũng đậm sâu và gắn bó thân thiết, là tiền đề cho mối tình với Tổ quốc thiêng liêng - ấy là mối tình quân dân. Nghĩa tình đó còn được Tố Hữu thể hiện thật sâu sắc qua hình ảnh: “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, sự kết hợp ba động từ “chia-sẻ-đắp” đã cụ thể hoá tình đoàn kết, hữu ái giai cấp, gắn bó sâu sắc, chân thành giữa cách mạng và nhân dân. Có thể chưa biết đến khi no ấm đủ đầy, con người ta có còn trọng nghĩa trọng tình và cùng nhau gắn bó hay không, chỉ biết rằng trong gian khó mà đồng cam cộng khổ để vượt qua, trong thiếu thốn mà sẻ chia cho nhau từng miếng ăn, manh chiếu, tấm chăn thì ấy chính là tri kỉ. Tình cảm ấy thân thương mà đáng trọng quá đỗi.

Nỗi nhớ trải dài qua khắp núi rừng Việt Bắc rộng lớn, để rồi quy tụ về những kỷ niệm mà trước hết là nhớ người mẹ nuôi Việt Bắc đã hết lòng vì cán bộ chiến sĩ:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng đến thiên nhiên Việt Bắc vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các động từ “địu con”, “bẻ từng” cũng gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất vả gian khổ của bà mẹ nuôi trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết khắc nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao động. Hai chữ “bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm từng hạt bắp làm lương thực nuôi quân. Người mẹ - một biểu tượng đẹp đẽ cho quê hương, cho nghĩa tình nhân dân mà ta cũng đã bắt gặp trong vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi / Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội / Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần / Mai sau con lớn vung chày lún sân...” (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ). Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức của người về.

Đoạn thơ sau đó sử dụng phép liệt kê và điệp ngữ “nhớ sao” để làm sống dậy những kỷ niệm, những sinh hoạt ở Việt Bắc. Điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “nhớ sao” khiến cho nỗi nhớ như mênh mang, như trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với lớp học bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao; nhớ những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng đầy náo nức, tưng bừng:

“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”
Nhớ những ngày tháng hoạt động cách mạng:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.

Gian nan và vất vả nhưng tinh thần mỗi chiến sĩ, quân quân thì luôn vui vẻ. Câu thơ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca vang núi đèo”. Đến cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi đêm khuya càng thêm thao thức:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt Bắc. Tiếng mõ rừng chiều gợi hình ảnh từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng, rộn ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối xa vẫn đều đều vỗ về trong giấc ngủ.

Đoạn thơ gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Tình quân dân luôn là sức mạnh tinh thần làm nên chiến thắng. Đoạn thơ cũng đã khơi dậy kỷ niệm mười lăm năm gắn bó keo sơn bền chặt với bao vất vả gian lao thiếu thốn nhưng luôn đầy lạc quan, tin yêu. Qua đó người về cũng tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn.

Biết bao gian khó đã trải qua, sức lực và lòng quyết tâm đã bao đêm dài nung nấu, cuộc chiến quyết định cũng đã đến. Tố Hữu đã viết nên một khúc ca hùng tráng về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến qua bức tranh Việt Bắc ra quân. Ở đoạn thơ này, nhà thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng với không gian núi rừng rộng lớn, với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân kháng chiến.

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Ở ngay câu thơ đầu, Tố Hữu đã khẳng định “của ta” tiếng nói vang lên một cách đầy khảng khái, chắc nịch, hùng hồn. Vào năm 1938, anh thanh niên trẻ lúc bấy giờ vừa mới bắt đầu gặp lí tưởng của bản thân mình thì Tố Hữu vẫn luôn xưng “tôi”, chữ “tôi” ấy mang đậm sắc thái cá nhân của ông. Nhưng bây giờ, ngay tại vần thơ này, Tố Hữu đã sử dụng “của ta”. Chàng thanh niên trẻ ngày nào bây giờ đã hòa nhập cuộc đời của mình vào cái ta chung của toàn dân tộc, đã hoà nhập sứ mệnh của bản thân vào sử mệnh của dân tộc. “Việt Bắc” là những con đường trong suốt cuộc chiến tranh được mở ra để phục vụ chiến đấu. Nhưng cũng có khi con đường ấy mang ý nghĩa tượng trưng, là ý nghĩa quá trình đi lên của cuộc kháng chiến cách mạng. Con đường ấy mở lối chiến công, và cũng là con đường ấy dẫn tới sự độc lập, tự do của tố quốc. Con đường máu lửa ấy đã trở thành con đường chiến thắng của Việt Bắc. Vì thế nên ấn tượng chung về sức mạnh dân tộc đã được gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này. Không những thế sức mạnh của quân và dân ta còn được đo bằng thước đo sông núi. Từ láy “đêm đêm”, “rầm rập” thể hiện sự lặp đi lặp lại những âm thanh lớn, đồng loạt, vang dội kết hợp sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “như là đất rung”. Với từ "rầm rập" đặc sắc, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:

“Xuân hãy xem! Cuộc diễn binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ”.
(“Chào xuân 67” - Tố Hữu)

Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm màu sắc thần thoại.
Tiếp tục, hai câu thơ tiếp theo cũng là khúc hùng ca về đoàn quân ra trận với khí thế và sức mạnh ngút trời:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đi liền ở hai câu thơ rất có sức gợi tả. Nó gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đó là một sự lớn mạnh của quân đội trước kẻ thù trong thời điểm lúc bấy giờ, quân và dân ta có thể đương đầu và đáp trả, đập tan mọi hành động của kẻ thù. Hình ảnh ánh sao đầu súng là một hình ảnh tràn đầy hiện thực nhưng cũng rất đỗi lãng mạn. Đó có thể là ánh sao trời đang toả sáng, soi vào đầu súng thép của những người chiến sĩ đang bận rộn trong đêm tối, ánh sáng sao ấy thật đẹp, thật lung linh. Và ánh sao ấy cũng có thể là ngôi sao trên mũ của con người cách mạng. Ngôi sao ấy là biểu tượng cho ngôi sao trên lá cờ đầy màu máu của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy càng khiến cho bất cứ ai nhìn thấy, cũng đều tin rằng, một chiến thắng sẽ đến vào một ngày không xa. Mặt khác, hình ảnh “ánh sao đầu súng” còn biểu tượng cho lý tưởng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Đồng hành cùng với hình ảnh “đầu súng”, “ánh trăng” đó là “chiếc mũ”. Chiếc mũ là cách nói hoán dụ về hình ảnh người lính nhưng cũng đồng thời chỉ tầm vóc vươn lên, có thể chạm tới ánh sao trời. “Chiếc mũ” ấy cũng là ân tình, tình cảm của đồng bào Việt Bắc gửi ra chiến trường.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Những chiếc mũ mang bao nhiêu ân tình được gửi lại cho những người chiến sĩ. Và ngay tại hình ảnh này, họ đã nhận được món quà từ hậu phương thân yêu để rồi sử dụng nó trong công cuộc chiến đấu của mình. Hình ảnh này đồng thời cũng thể hiện sự đồng hành giữa những con người cùng chung lý tưởng mà chúng ta gọi bằng hai từ thân thương - đồng chí.

Trong bức tranh tổng hợp sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, “khúc hùng ca” đã lại vang lên, đó là sức mạnh của dân công, sức mạnh của những con người đã cùng với bộ đội để làm nên chiến thắng huy hoàng của dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Những “dân công” đó là những con người xung phong lên phía trước, mở đường, xẻ núi, lăn xe… Đó là cả một bộ phận quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến, góp một phần vào chiến thắng của dân tộc ta. Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Tố Hữu cũng đã từng viết:

“Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc nuối tuổi xanh”

Nói về kháng chiến chống Mĩ với hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong, hay các anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, thì nhắc về chiến thắng Điện Biên Phủ ta cũng không thể quên được hình ảnh những người dân công. Có những thời điểm mà họ phải hát lên những câu hò kéo pháo bởi Việt Bắc rất hiểm trở, mà công việc họ làm lại rất đỗi khó khăn. Nhưng vì một đất nước hoà bình, độc lập, họ đã phải cố gắng rất nhiều. Kết hợp tài tình biện pháp đảo ngữ, không phải “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà là “dân công đỏ đuốc từng đoàn”. Việc sử dụng biện pháp tu từ ấy càng làm tăng lên sức mạnh, khí thế của đoàn dân công. Sự trùng điệp hàng nối hàng, dài tít tắp những người dân công không thua kém bất cứ đội quân nào. Tuy họ không nổi bật nhưng chiến công của họ lại lớn lao không kể xiết. Bằng một cách nói cường điệu “bước chân nát đá”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước, yêu lý tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động. Người nông dân lao động là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này.

Bên cạnh đó, “khúc hùng ca” dù kể về sức mạnh của đội quân và nhân dân Việt Bắc, nhưng cũng nói về niềm tin bất diệt vào chiến thắng của đất nước:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Hình ảnh thơ thật hùng vĩ và sự hùng vĩ ấy đã được đo bằng thước đo ánh sáng của chiến thắng. “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” là cụ thể hoá những năm tháng đêm trường nô lệ của dân tộc. Đất nước ta đã hơn một nghìn năm phải khổ sở, gồng mình, cố gắng chiến đấu. Nhưng đến câu thơ này, mọi u ám, bóng đen đó đã bị xua đi, nhường chỗ cho ánh sáng tương lai. Đó chính là sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật giá trị to lớn, ý nghĩa lớn lao của nghìn đêm kháng chiến. “Bật sáng” là một động từ mạnh, trong đêm tối, ánh sáng được bật lên đột ngột. Khoảnh khắc ấy bao trùm lên vạn vật xung quanh, xua tan bóng tối. Đó là khoảnh khắc chói lòa của dân tộc. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ "thăm thẳm sương dày" để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này. Hình ảnh so sánh chân thực, khẳng định một niềm tin tất thắng vào lí tưởng và cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta. Niềm vui nối tiếp niềm vui, những tin vui chiến thắng dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân, "đèn pha bật sáng" để chiếu rọi hình ảnh nhân dân Việt Nam anh hùng trên vũ đài thế giới với những chiến thắng lẫy lừng:

"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"

Điệp từ “vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả nước. Hàng loạt các địa danh gắn với chiến thắng vang dội được liệt kê liên tiếp: Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, Đèo De, Núi Hồng,... Những chiến thắng nối tiếp những chiến thắng, chiến thắng sau còn giòn giã hơn cả chiến thắng trước trải rộng khắp mảnh đất hình tia chớp. Nghe trong câu thơ có cái hào sảng, có niềm tự hào của những chiến thắng lừng lẫy. Chỉ bằng mười hai câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa được một bức tranh cả dân tộc ra trận thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công "lừng lẫỵ năm châu chấn động địa cầu" mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, hình ảnh đồng bào, nhân dân luôn đồng hành cùng bộ đội ta, đóng góp vật chất và sức lực để làm nên chiến thắng lịch sử cho dân tộc.

Cả hai đoạn thơ về cuộc sống của quân và dân tại chiến khu Việt Bắc và bức tranh đoàn quân ra trận đều là những gì gắn bó, thân thuộc, là chất keo gắn kết người lính với mảnh đất Tây Bắc thân thương- sự gắn bó quân và dân, trong sinh hoạt, chiến đấu. Tuy mỗi đoạn mang một màu sắc riêng, giọng điệu một bên rất đỗi thân mật ấm áp diễn tả tình quân dân nồng đượm, một bên lại hào hùng khí thế diễn tả hào khí quân dân ra trận nhưng tất cả đều nói lên sự gắn bó keo sơn của quân và dân, thể hiện tình đoàn kết nồng đượm ân nghĩa.

Những dòng thơ Tố Hữu chắp bút đã gợi cho ta những cảm nhận sâu sắc về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong quá trình ấy, quân và dân rất đỗi thân mật từ trong chiến đấu đến những ngày tháng sinh hoạt. Hai đoạn thơ khắc họa vẻ đẹp trong thời chiến bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Với việc sử dụng các biện pháp điệp âm, điệp thanh hiệu quả, Tố Hữu đã vẽ lên vẻ đẹp của con người Việt Nam một thời kì đạn lửa. Để làm nên chiến thắng vang dội năm châu, chấn động địa cầu, quân và dân ta đã phải trải qua những năm tháng gian lao, vất vả, nếm mật nằm gai. Trên tất cả, tình quân dân, ý chí chiến đấu kiên cường, quyết tâm đánh bại kẻ thù xâm lược đã đưa dân tộc ta đến ngày chiến thắng. Vẻ đẹp của những con người Việt Nam ra trận đánh quân thù dẫu biết rằng chỉ toàn mưa bom bão đạn, sự sống tính bằng từng phút từng giây, đó là vẻ đẹp của những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra, bước ra từ trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Chặng đường nhiều khó khăn nhưng rất đỗi huy hoàng ấy đã được Tố Hữu khắc họa bằng những vần thơ thiết tha, hào sảng và đậm ân tình, mang đậm dấu ấn của một thời hoa lửa đã qua.

Qua hai đoạn thơ về cuộc sống của quân và dân tại chiến khu Việt Bắc và khung cảnh đoàn quân ra trận đã khắc họa rõ nét bức tranh quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của nhân dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp. Với những gì Tố Hữu thể hiện trong tác phẩm, ông xứng đáng được mệnh danh là “Nhà thơ của lẽ sống cách mạng”, “Nhà thơ của Tổ quốc Việt Nam”, là “hồn thơ của dân tộc”. “Việt Bắc” của Tố Hữu vừa là khúc hùng ca vừa có ý nghĩa biểu tượng ca ngợi tinh thần yêu nước, quân dân đoàn kết một lòng, lại vừa là khúc tình ca về cách mạng, về con người kháng chiến trong sự yêu thương, gắn bó chia sẻ ngọt bùi bên nhau. Tác phẩm xứng đáng trở thành một bài ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về tình yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay để thế hệ trẻ nhìn vào, sẽ thấy ý thức, trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc – nơi hòa bình, độc lập được đánh đổi bằng máu xương.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021
Bài văn mẫu số 4

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

(Trích Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Từ đó bình luận về tư tưởng mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Bài làm
Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ...” Và ai đó cũng đã từng tự hỏi lòng: “Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh của một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của đất nước “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất nước qua trích đoạn: “Đất nước” - Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích này ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc với một tư tưởng mới mẻ về đất nước: “Đất nước của Nhân dân” được thể hiện qua chín câu thơ đầu:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”

Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước, sớm tham gia cách mạng và từng bị địch bắt giam. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải kể đến “Đất Nước” - một trích đoạn thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn ác liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác trường ca “Mặt đường khát vọng” để góp thêm tiếng thơ hay về đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương, dân tộc.

Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho câu hỏi: “Đất nước có tự bao giờ?”:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Độc giả sẽ phát hiện một điều khác lạ đó là xuyên suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều được viết hoa. Chia sẻ về lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa Điềm lý giải với ông đất nước không đơn thuần là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng thời bài tỏ sự trân trọng của tác giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho đất nước. Điệp từ “Đất Nước” vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc, đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hai từ thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn “làm bạn” với rất nhiều thi sĩ khác:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Nguyễn Đình Thi)
hay
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu.
Nghe dịu nỗi đau của mẹ.
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.
Các anh không về mình mẹ lặng im…”
(Tạ Hữu Yên)

Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ ai, chỉ cần trái tim còn đập trong lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa người con trai với người con gái, giữa “anh” và “em” về đất nước. Người con trai ở đây – “ta” như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. Tuy nhiên nếu mở rộng ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao như đất nước nay trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước qua ba chữ: “đã có rồi” khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì “đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!”. Lời khẳng định này thể hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và trời cũng như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung quan ta với những gì thân thương nhất.

Những câu thơ tiếp theo tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”

Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của cô Tấm dịu hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép màu diệu kỳ giúp đỡ cho những người ở hiền gặp nạn,.. Là người Việt, ai mà không biết tới những câu chuyện gắn liền với tuổi thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó. Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích, truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng rất xúc động khi viết về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật, tiên độ trì.
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.”

Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đó là phong tục ăn trầu:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ phi lí nhưng lại cực kỳ hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích: “Sự tích trầu cau” được xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi,… Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:

“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
(Hoàng Cầm)

Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc bạn đọc tới 2 hình ảnh: cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như:

“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu”
(Nguyễn Duy)

Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Cây tre ấy cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường diệt giặc khỏi bờ cõi Việt:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân”
(Tố Hữu)

Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta.

Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua câu thơ:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu”

Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:

“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”
(Ca dao)

Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy của vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của vợ và chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh phúc, yêu thương. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta.

Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời thường. Cội nguồn của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: “Cái kèo, cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho những vật dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, lấy tên của chính những vật dụng ấy để gọi tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp- nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.

Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:

“Đất Nước có từ ngày đó”

“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Ngày đó không biết chính xác là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu đời. Từ khi có những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên, chân thật để cho mỗi người đọc hiểu rằng văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải có trách nhiệm hiểu biết, gìn giữ những giá trị cốt lõi này.

Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng chính luận mà còn đi vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì. Kết hợp với đó là điệp từ “có” đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên, đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ - thể loại trường ca.

Nhìn lại bao quát đoạn thơ, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng- phân - hợp rất chặt chẽ. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa chất trữ tình – chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí tuệ, văn hóa, vừa được viết bằng những rung động của cảm xúc, nên rất dễ đi vào lòng người. Trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ khi nào?”, Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời sống lao động cần lao hàng ngày, trong câu chuyện cổ và tình cảm giữa những người thân yêu nhất. Lịch sử đất nước ta không được cắt nghĩa bằng những vương triều nối tiếp, những sự kiện lịch sử trọng đại mà bằng đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại.

Như vậy, từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển, đất nước đã gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư tưởng “Đất nước của Nhân Dân”- tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Tư tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà đã có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất nước –nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất nước gắn liền với kỷ niệm quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” –Nguyễn Trãi. Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất nước.Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc” Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với Đất nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất nước đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc. Tuy nhiên, để tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm thực sự là một viên ngọc sáng.

Thành công khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu rộng.
Chín câu thơ đầu trong trích đoạn “Đất Nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng" là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ “Đất nước là của Nhân dân”, là lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?” Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay sao? Và những câu hỏi thắc mắc về quê hương, đất nước mình vẫn còn là những điều sẽ còn được nhắc hoài, nhắc mãi, để bạn đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới lạ ấy, sự thú vị ấy trong thơ văn:

“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều"
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021
Bài văn mẫu số 5
Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những đoạn thơ sau: (5 khổ thơ đầu) (Trích “Sóng” - Xuân Quỳnh)

Bài làm
Tôi vẫn còn nhớ như in có một bận, Xuân Diệu đã từng thủ thỉ trong tác phẩm của mình:

“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”

Con người ta vẫn thường vì tình yêu mà si mê nhiều như thế! Người thường đã vậy, thi sĩ hẳn sẽ nhạy cảm hơn, đó cũng là lí do vì sao giữa muôn nẻo của thơ ca Việt Nam, những bài thơ viết về tình yêu, những nhà thơ viết về tình yêu vẫn thường được bạn đọc chú ý bằng cái nhìn đầy trìu mến. Và bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng là một tác phẩm như thế. Đọc thi phẩm“Sóng” điều đọng lại trong lòng mỗi độc giả không chỉ là tình yêu thủy chung, khát vọng hóa thân của hình tượng “sóng” hay cũng chính là hình tượng “em” mà còn gây ấn tượng về những thông điệp mới mẻ trong tình yêu mà Xuân Quỳnh đem lại. Điều đó được thể hiện rất rõ trong năm khổ thơ đầu bài.

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ của Xuân Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt như những dòng nhật kí bỏ ngỏ xuất phát từ trái tim về những khát khao, những cảm xúc, những suy nghĩ lo âu của người phụ nữ khi đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để rồi cứ thế, “Sóng” của Xuân Quỳnh lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa thời kì lửa cháy” với bao khát vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, tiêu biểu cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bài thơ được in trong tập ''Hoa dọc chiến hào''. Qua hình tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'', bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, bạn đọc cảm nhận được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
Viết về đề tài tình yêu, đặc biệt khi lựa chọn hình tượng sóng làm hình tượng chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh không phải là người nghệ sĩ đầu tiên nhưng lại là người nghệ sĩ vô cùng tinh tế, viết về sóng để gửi gắm tình yêu của trái tim người phụ nữ. Điều này được thể hiện rõ qua những vần thơ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Tôi đã nhìn thấy những con sóng ngoài đại dương rồi! Tôi cũng đã từng tìm về biển với những mong mỏi được trải lòng và tôi cũng hiểu tại sao, khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn trùng con sóng vỗ bạc đầu, người nghệ sĩ lại có trong mình nhiều rung cảm đến vậy, để cho tới tận bây giờ, biển vẫn hát khúc ca của đại dương, và chúng tôi, độc giả của những năm tháng này, vẫn ru hoài giấc mơ qua những thi phẩm khởi nguồn từ con sóng. Trong khổ thơ này, nghệ thuật đối đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: “Dữ dội – dịu êm”, “Ồn ào – lặng lẽ” là biểu hiện rõ ràng nhất cho những trạng thái đối cực của con sóng ngoài đại dương. Khi đại dương hiền hòa, những con sóng thật nhẹ nhàng, êm dịu, khi có bão đi ngang biển động sóng mạnh mang theo bao bão tố, phong ba. Những trạng thái đối cực của sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của tình yêu, có những khi rất bình yên, nhưng cũng có những ngày bão tố. Ta cũng có thể hiểu hai câu thơ này theo một trường nghĩa khác, với trạng thái đối cực của trái tim người phụ nữ khi yêu, một người phụ nữ khao khát tình yêu. Khi vui, khi buồn, khi giận hờn, khi trách móc, khi hạnh phúc, khi tổn thương,… những cung bậc cảm xúc của tình yêu quả thật rất diệu kỳ bởi một lẽ:

“Vì tình yêu muôn thủa
Có bao giờ đứng yên”

Ý thơ chưa dừng lại ở đó, bởi nội tâm của người phụ nữ vốn dĩ sâu sắc hơn những gì ta tưởng tượng. Hai câu thơ này còn diễn tả sự yếu đuối tất yếu bên trong của người phụ nữ khi có những mạnh mẽ che phủ bên ngoài. Suy cho cùng, sau tất cả những hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc về trọn vẹn tâm hồn phái yếu.

Chuyển đến hai câu thơ tiếp theo, ta nhìn thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Những hình ảnh xuất hiện liên tiếp, hình ảnh của dòng sông, của con sóng và của “bể”, ở đây có thể hiểu là biển, là đại dương. Trăm suối đổ về một sông, trăm sông đổ về biển lớn, sóng không chấp nhận giới hạn nhỏ bé tầm thường, sóng chuyển mình ra biển lớn, tìm về đại dương, tìm đến nơi thuộc về. Ở hai câu thơ này, mạch sóng như bứt phá ra khỏi một không gian chật hẹp để tìm đến những điều lớn lao. Cũng giống như trái tim tình yêu của những người phụ nữ, vượt qua những giới hạn nhỏ bé tầm thường, để tìm đến với tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Có thể thấy rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh, cũng là góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh vì tình yêu, vượt qua những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Nếu như trong bài “Hương thầm” nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng viết:

“Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Bên ấy có người ngày mai đi xa”

Để rồi họ chia tay mà chẳng dám nói với nhau điều gì. Xuân Quỳnh thì không như vậy, chị luôn quan niệm không chỉ riêng con trai có thể chủ động trong tình yêu, mà người phụ nữ cũng vậy, phải chủ động tìm đến tình yêu để sống được là chính mình. Đây chính là thông điệp mới mẻ mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến bạn đọc qua khổ thơ này.

Hơn cả những gì anh nghĩ, dẫu đó thực chất là trái tim mềm yếu của em thì em vẫn muốn dùng sự mạnh mẽ của chính mình để hướng tới, để theo đuổi tình yêu duy nhất trong cuộc đời của mình. Những điều em muốn nói cùng anh là những điều không thể nào ngăn cách, bao mong mỏi, bao buồn vui đau khổ cuộc đời cũng không thể ngăn nổi trái tim mềm yếu hướng tới tình yêu. Bởi duy nhất chỉ có phương anh mới khiến trái tim em thổn thức. Thế nên Xuân Quỳnh mới viết:

“Tôi ghét bầu trời sau khung cửa bình yên
Con đường vắng người đi và hàng cây lộng gió
Tôi yêu dòng sông mùa nước lũ
Sông phá phách ngàn đời nhưng đỏ lặng phù sa”

Xuân Quỳnh viết “Sóng”, chị đang hát những khúc hát về tình yêu để đến bây giờ, biết bao nhiêu thập kỷ trôi qua rồi, những độc giả vẫn dành biết bao nhiêu tình yêu của mình cho một mảnh “tình thơ” đã cũ. Và tình yêu trong “Sóng” – mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của lứa đôi:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Thán từ “ôi” được sử dụng, bộc lộ mạnh mẽ những trạng thái cảm xúc đang trào lên trong lòng. Cặp từ đối “ngày xưa” – “ngày sau” khiến cho người đọc có biết bao nhiêu liên tưởng. Đó là thời gian chỉ quá khứ, quá khứ nối dài đến hiện tại, tương lai để nhắc nhở người trẻ chúng ta về thông điệp ý nghĩa. Trải qua hàng ngàn hàng vạn năm, từ khi đại dương xuất hiện, những con sóng cũng ra đời. Và dẫu cho thời gian mãi là một dòng tuyến tính không bao giờ quay trở lại thì sóng vẫn cứ mãi hát khúc ca của đại dương bất diệt, vẫn cứ là mình, vẫn “dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ”. Cũng giống như tình yêu, những khát khao về tình yêu luôn luôn là những hoài bão đang đập nhanh trong trái tim của những người trẻ. Câu chuyện tình yêu vốn dĩ không phải câu chuyện của riêng ai mà đó là câu chuyện của tôi, của bạn, của chúng ta, của quá khứ, hiện tại và muôn đời sau sẽ còn nhắc mãi, nhắc hoài. Còn đại dương là còn sóng, còn những trái tim đang đập trong lồng ngực là còn khát vọng tình yêu. Điều này thật giống với ý thơ trong “Bài thơ tuổi nhỏ” của ông hoàng thơ tình Việt Nam – Xuân Diệu:

“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào...”

Có những khoảnh khắc, bản thân mình rất muốn tìm một nơi nương náu cho những trầm tư của chính mình. Không phải vì bản thân yếu đuối mà chỉ bởi trái tim sau những lần cứng cỏi rất muốn có một khoảng dừng chân để suy nghĩ, chiêm nghiệm về tình yêu mình đã đi qua. Và “em” đã chọn cho mình một khoảng trầm tư bình yên như thế khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn con sóng vỗ bạc đầu.

“Giữa muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”

Đến khổ thơ này, em tách mình khỏi sóng, để hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”. Khi đứng trước đại dương bao la, trước muôn ngàn những con sóng đang gối lên nhau chạy xa tít tắp tới đường chân trời, em nghĩ về anh, nghĩ về bản thân mình, em nghĩ về tình yêu của chúng ta. Cảm giác nhỏ bé trước khoảng không bao la vốn dĩ là cảm xúc bình thường có được. Thế nên:

“Đừng ví em là biển
Sâu thẳm và bao la
Thuyền nan em bé nhỏ
Không xa được bến bờ...”

Trước khoảng không vô tận và đối diện với trái tim, em tự đặt ra một câu hỏi cho lòng mình, để truy tìm căn nguyên của sóng nhưng cũng chính là lúc em muốn truy tìm căn nguyên của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”

Em đang trên chuyến hành trình truy tìm căn nguyên của tình yêu. Em không thẳng thẳn nói ngay vào điều đó, mà em muốn thông qua hình ảnh sóng để trải lòng mình. Theo khoa học, sóng sinh ra từ gió. Thơ Xuân Quỳnh vốn không thường viết về những điều khô khan như thế, tác giả bẻ ngay “cuống lái” về những nốt nhạc của trái tim. Vậy thì gió bắt đầu từ đâu? Em suy hoài, nghĩ mãi nhưng cuối cùng lại chẳng tìm được câu trả lời. Và rồi để bao biện cho sự thất bại trong cuộc truy tìm của mình, người con gái ấy buông nhẹ một cái lắc đầu đáng yêu: “Em cũng không biết nữa”. Và gửi lời tới “anh” một câu hỏi rất nhẹ nhàng: “Khi nào ta yêu nhau?”. Trái tim “em” luôn muốn tìm sự lý giải, cắt nghĩa tình yêu, truy tìm căn nguyên tình yêu của chính mình: “Chúng ta yêu nhau từ bao giờ, chúng ta yêu nhau vì điều gì...” Tất cả đều là những câu hỏi rất khó để trả lời, hoặc là sẽ chẳng thể nào tìm ra được một câu trả lời nào trọn vẹn cả. Xuân Quỳnh đã thất bại trong cuộc truy tìm, cắt nghĩa tình yêu nhưng lại ghi được ấn tượng sâu đậm trong lòng đọc giải từ cách lý giải đầy nữ tính. Lý giải về tình yêu vốn dĩ là một hành trình rất thú vị, gây được sự hấp dẫn với viết bao cây bút tài hoa, nếu như Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình Việt Nam từng lý giải tình yêu bằng một buổi chiều nắng cắt:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”

Thì Nguyễn Bính lại khiến lòng người rạo rực khi lý giải chữ yêu bằng cảm xúc “ghen tuông”:

“Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả của riêng tôi!”

Nhìn nhận trong cách truy tìm căn nguyên, cắt nghĩa về tình yêu của những người nghệ sĩ mới thấy được, Xuân Quỳnh đã tự lý giải tình yêu cho bản thân mình một cách rất riêng, rất nữ tính, rất trực cảm. Em không biết tình yêu có từ đâu cả. Cũng chính vì sự không rõ ngọn ngành này mà đã biết bao nhiêu thế kỷ trôi qua rồi, con người vẫn cữ phân vân đi tìm câu trả lời cho tình yêu, say mê trong tình yêu, dành trái tim của mình để sẵn sàng đập nhanh hơn vì một người. Có một quy luật của tình yêu đó là chẳng có quy luật nào cả và em vẫn sẽ can đảm bên cạnh anh, yêu anh bằng tất cả đủ đầy những cảm xúc của riêng mình. Tình yêu vốn dĩ là một ẩn số giữa hai tâm hồn chứa đầy bí mật:

“Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh mà em vẫn là em
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật”

Và những tâm hồn bí mật ấy vẫn luôn khao khát được giao hòa cùng nhau, khám phá những điều mà cả cuộc đời cũng chẳng thể nào lý giải nổi. Bởi tình yêu là bài toán chẳng thể nào đưa ra được một đáp số đúng nhất, cũng chính vì thế mà nó luôn mới mẻ, luôn hấp dẫn, luôn là khởi nguồn cho rất nhiều những tác phẩm hay.

Tiếp tục với hành trình nghĩ suy và chiêm nghiệm, Xuân Quỳnh, với những dòng thơ trong “Sóng”, đã không thể nào bỏ qua một cung bậc cảm xúc tất yếu của tình yêu - nỗi nhớ. “Nỗi nhớ của con người thường gắn liền với một cái cớ nào đó. Hễ gặp duyên cớ kia là nhớ nhung, cứ thế mà thức dậy, mà da diết.” Cội nguồn của tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ, “đặc tính” của tình yêu cũng gắn với nhớ nhung. Lấy cảm hứng thơ từ điều này nên Xuân Quỳnh viết:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Năm tháng trôi qua nhanh, để tình yêu ở lại. Tình yêu hiện hữu trong cuộc sống, ở mỗi con người và được bộc bạch qua trạng thái đầu tiên đó là nỗi nhớ. Tình yêu xưa nay luôn gắn liền với nỗi nhớ, một trái tim đang yêu là một trái tim đang nhớ, một trái tim ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim ngừng yêu bởi mấy ai yêu mà không một lần thương nhớ. Những câu thơ của Xuân Quỳnh đã chạm tới nơi sâu thẳm nhất của trái tim tình yêu mang theo một thông điệp thật tình tứ, mến thương: Sóng nhớ bờ và em nhớ anh.
Có một điều đặc biệt trong khổ thơ này đó là đến đây, biên độ của khổ thơ đã được mở rộng từ bốn câu lên sáu câu, phá vỡ những quy luật về độ dài của một khổ trong cả bài. Phải chăng, chỉ khi mở rộng biên độ khổ thơ mới có thể diễn tả cho thỏa, cho đạt sự ngút ngàn của nỗi nhớ. Một nỗi nhớ bao trùm không gian, choán luôn cả thời gian, khoảng cách. Việc phá vỡ biên độ của khổ thơ thêm một lần nữa chứng minh cho phong cách nghệ thuật đôi khi “bất tuần theo những quy luật nghề thơ” của Xuân Quỳnh. Quan trọng nhất trong những vần thơ của chị là được bày tỏ, được sẻ chia, được thấu hiểu. Bởi “Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ; sáng tạo và cách tân, tất tật là nhất thể. Cho nên, tìm những miền thi cảm khác lạ cho thơ, chế tác những hình thức tân kỳ cho thơ không phải thao thức của chị. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điệu đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ. Thơ Xuân Quỳnh là tính linh Xuân Quỳnh. Trường hợp Xuân Quỳnh thật điển hình cho qui luật: Thơ là sự ký thác phận người vào chữ. Có lẽ vì thế mà, dù đời thơ Xuân Quỳnh đã dừng, sóng thơ Xuân Quỳnh vẫn vỗ khôn nguôi.” (Chu Văn Sơn)

Trong khổ thơ này có sự xuất hiện của cả hai hình tượng “sóng” và “em” đan xen với nhau, bốn câu thơ trước em ẩn mình trong sóng bộc lộ những cảm xúc trong lòng mình, hai câu thơ sau em tách mình khỏi sóng, hạ lời thì thầm hai tiếng “em – anh”. Các cặp từ đối lập được sử dụng rất tinh tế ở đoạn thơ này: “lòng sâu – mặt nước” – cụm từ diễn tả về không gian; “ngày – đêm” – diễn tả về thời gian, một nỗi nhớ thường trực, choán hết cả không gian, thời gian tầm sâu bề rộng. Nỗi nhớ ấy không chỉ xuất hiện trong ý thức, trong tiềm thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức, phá vỡ mọi giới hạn về thời gian và không gian:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Xuân Quỳnh tinh tế lắm khi sử dụng cụm từ “lòng em” – là nơi thẳm sâu nhất trong tâm hồn người nghệ sĩ. Khi chị nói “lòng em nhớ đến anh” có nghĩa là em đang dốc cả tâm can của mình để trao gửi nỗi nhớ thương ấy đến anh – tình yêu đích thực trong cuộc đời mình. Vị ngọt ngào, mê đắm của tình yêu lan tỏa trong một câu thơ thật lạ: “Cả trong mơ còn thức”. Cái thức trong mơ chính là biểu hiện cao nhất của nỗi nhớ, nỗi nhớ bây giờ không chỉ xuất hiện trong ý thức, tiềm thức mà còn xuất hiện cả trong vô thức. Cái thức trong mơ là một trong những nét nghệ thuật độc đáo ở khổ thơ này, đưa chúng ta đến những góc nhìn mới mẻ hơn về tình yêu, về nỗi nhớ. Một nỗi nhớ mãnh liệt và sâu sắc, nỗi nhớ ấy cũng đã từng xuất hiện ở một tác phẩm khác của nữ sĩ Xuân Quỳnh:

“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu mong nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ”

Năm khổ thơ đầu khép lại đã thể hiện được nỗi băn khoăn, trăn trở của những con sóng hay cũng là người con gái khi yêu. Con gái khi yêu luôn có những trăn trở suy tư cần được giãi bày. Nhờ các biện pháp đảo ngữ, tương phản đối lập, thể thơ ngũ ngôn với nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu chân thành, da diết, sự sáng tạo, phá vỡ khuôn khổ của khổ thơ truyền thống. Ngôn ngữ thơ bình dị, thủ pháp nhân hoá, ẩn dụ, các điệp từ; cặp hình tượng sóng đôi "sóng - em" , đoạn thơ đã thể hiện rõ tư tưởng và suy tư khi yêu của em, cũng như của Xuân Quỳnh. “Sóng” chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Nhận định về bài thơ “Sóng", GS Trần Đình Sử có viết: “Sóng” là một bài thơ về tình yêu. Có hàng trăm dáng vẻ của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ hoài niệm, thơ đau khổ vì thất tình... “Sóng” là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm...” Quả thực là như vậy. Từ cấu tứ bài thơ, cách gieo vần, nhịp, sử dụng hình ảnh và đôi khi còn bất tuân theo cả những quy luật của nghề thơ, chỉ với năm khổ thơ đầu nhưng Xuân Quỳnh đã đưa người đọc từ cung bậc này tới cung bậc khác trong tình yêu, để người đọc thêm một lần chìm đắm và suy ngẫm về tình yêu của chính mình. “Sóng” đã tự nhiên, trở thành tiếng hát, tiếng lòng của biết bao nhiêu người trẻ khát sống, khát yêu, hệt như Xuân Quỳnh.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Đang có mặt