Trong tác phẩm văn học ta thường gặp các giá trị thẩm mĩ, các giá trị thẩm mĩ đó thường được kết tinh trong một số phạm trù cơ bản như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài...
trong đó Cái đẹp bao giờ cũng là cái nòng cốt hướng tới xưa nay của con người và của cả văn học.
1 Cái đẹp mang tính khách quan
Khi đứng truớc một sự vật, một hiện tượng trong tự nhiên và xã hội như một cánh đồng vàng rực lúa chín, rừng bạch dương thơm mát mùa xuân, đóa sen hồng mùa hạ, hương cốm mùa thu, đôi má hồng của thiếu nữ, tình yêu mãnh liệt, thuỷ chung, chí khí anh hùng...,con người tự nảy sinh nguồn khoái cảm, phấn chấn, thêm yêu đời, hăng say làm việc, biết thêm những ý nghĩa cuộc đời. Nhu cầu về sáng tạo nghệ thuật cũng bắt nguồn từ đó. Theo Dostoievxki nhu cầu về vẻ đẹp và sự sáng tạo vẻ đẹp gắn bó keo sơn với con người.
Vậy cái đẹp là gì?
Cái đẹp được hình thành trên cơ sở tự nhiên, được tạo nên do chính các phẩm chất, yếu tố, kết cấu khách quan của các sự vật. Đó là vẻ đẹp khách quan cảm tính của màu sắc, hương vị, âm thanh, đường nét, mảng khối, nhịp điệu, kích thước, sự cân đối, tỉ lệ hài hòa... Từ đó gây nên sự thăng bằng, thoải mái, dễ chịu về cảm giác, đối với các giác quan. Thí dụ, trước mắt ta là một con người có khuôn mặt hình trái xoan, chiều dài đầu có tỉ lệ 1/7,5 so với toàn thân, da dẻ mịn màng, ửng hồng, tóc dầy mềm mại và sóng mướt - đó là con người đẹp. Khi nhìn thấy một bông hoa màu sắc hài hòa, tươi thắm, có hương thơm - đó là bông hoa đẹp. Cái cây đẹp là cái cây có vầng lá xum suê, xanh mướt, hoa thơm, quả ngọt.
Cái đẹp có những quy luật hình thức cảm tính nhất định, và tác động lên cảm tính của con người.
Quy luật đầu tiên là sự hài hòa. Từ xa xưa, con người đã ý thức được những quy luật hình thức với các tỉ lệ, hài hòa, biến hóa, thống nhất và những quy luật số lượng. Pitago đã gắn vẻ đẹp và sự hài hòa trong các quan hệ số lượng và sự hài hòa trong âm nhạc: quãng tám - 1:8; quãng bốn - 3:4; quãng năm - 2. Pitago thích âm nhạc và thấy ở đó sự phản ánh những quy luật của vũ trụ. Theo ông, phép hòa thanh của âm nhạc phản ánh tính hài hòa của các thiên thể trong vũ trụ. Do phản ánh trật tự vận động của vũ trụ, âm nhạc có khả năng đưa cả sự vận động tâm hồn vào trật tự đó.
Còn Hêraclít cho rằng, vẻ đẹp hài hòa hình thành từ sự hòa nhập, sự kết hợp các yếu tố đối lập: “Chính tự nhiên khao khát những mặt đối lập, và tạo nên sự hòa điệu từ chúng, chứ không phải từ những sự vật đồng dạng... Nhờ pha trộn các màu trắng, đen, vàng và đỏ, hội hoạ mô tả phù hợp với nguyên mẫu. Âm nhạc tạo nên sự hài hòa thống nhất nhờ hòa lẫn trong (tiếng hát chung) những giọng điệu khác nhau, những âm thanh cao và thấp, dài và ngắn”.
Aristot lại nhấn mạnh, hài hòa là tiêu chuẩn của cái đẹp: “Một thực thể hay một sự vật gồm những bộ phận khác nhau chỉ có thể có vẻ đẹp khi những bộ phận của nó được bố trí theo một trật tự hoàn mĩ nào đó, và hơn nữa, không thể có một kích thước tùy tiện, vì những cái đẹp nằm ở trật tự và sự cao cả”.
Thời Phục hưng, người ta đã chỉ ra tỉ lệ vàng hay chỉ số vàng trong tương quan tỉ lệ của hai cạnh trong các hình chữ nhật là 1/1,61. Đây là chỉ số tối ưu nhất cho sự cân đối trong các loại hình chữ nhật nói chung, từ kích thước của sổ, cửa ra vào, đến khung ảnh, bàn ghế...
Ngoài ra, còn có những chỉ số vàng như 3/5, 5/8, 8/13, 13/21... cho các hình dạng khác như cơ thể con người trong hội hoạ, điêu khắc, hình dạng ngôi nhà với những tỉ lệ về mái, cửa, lan can, cột, hình dạng các loại bình, cốc chén... Nhà toán học Luca Pasioli là người đã trình bày đầu tiên về tỉ lệ điểm cắt vàng trong mọi đoạn thẳng trong cuốn sách Tỉ lệ thần kì, xuất bản năm 1509. Trong những bức tranh nổi tiếng của Tề Bạch Thạch, người ta tìm thấy tỉ lệ vàng trong bố cục, thể hiện ở quan hệ giữa hình và nền, giữa trắng và đen, giữa đậm và nhạt.
Ở Trung Quốc thời cổ, Chu Dịch đã khẳng định, cái đẹp biểu hiện của sự phát triển cuộc sống. Cái đẹp là cái hoàn hảo nhất, lí tưởng nhất trong sự hài hòa với cuộc sống. Người ta cũng nói tới cái gọi là ngũ sắc, điều tiết hài hòa ngũ sắc. Trong sách Tuân Tử và Lã Thị Xuân Thu cũng đã bàn tới số học trong âm nhạc. Tất cả các quan điểm đó đều nói lên rằng cái đẹp có tính chất khách quan và những quy luật hình thức nhất định. Cái đẹp mang tính nhân loại chung là vì thế.
Theo Hêghen, cái đẹp thể hiện ở tính đều đặn, tính đối xứng, sự phù hợp quy luật, tính hài hòa, sự thống nhất các chất liệu cảm quan.
Như vậy, cái đẹp trước hết là sự hài hòa. Hài hòa là tỉ lệ cân đối nhất định giữa các yếu tố trong một chỉnh thể. Cấu trúc hài hòa là cấu trúc lí tưởng của tự nhiên và xã hội. Hài hòa là sự trật tự, hợp lí, thống nhất thường được tạo nên từ sự đối xứng, cân bằng giữa âm - dương, động - tĩnh, cương - nhu, vuông - tròn, cong - thẳng, mở - đóng, thuận - nghịch, khai - hợp, tiến - thoái, nhanh - chậm, hư - thực, khinh - trọng, tối - sáng, nội dung – hình thức... Không chỉ đối xứng giữa các yếu tố tương phản hoặc khác biệt, mà còn có sự đối xứng mang tính lặp lại đều đặn về vị trí, hình thức, màu sắc, âm thanh. Hài hòa còn thể hiện ở sự thống nhất, đều đặn, lặp đi lặp lại một hình thức duy nhất. Thí dụ, các hàng cột, lan can, tay vịn cửa của một ngôi nhà đều có những màu sắc, hoạ tiết, hình dáng giống nhau, tạo nên sự thống nhất của chỉnh thể.
Hài hòa là tiêu chuẩn đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh, bình thường của cuộc sống, dựa trên tác động tương hỗ của các sức mạnh đối xứng nhau. Bông hoa đẹp là bông hoa vừa có sắc vừa có hương. Người phụ nữ đẹp là người vừa có sắc đẹp vừa có trí tuệ, đầy đủ công dung ngôn hạnh. Xã hội đẹp là xã hội có công bằng, dân chủ, văn minh. Thơ Hồ
Chủ Tịch bộc lộ sự hài hòa trong nhân cách lãnh tụ: thi nhân - chiến sĩ, cổ điển - hiện đại, thép - tình... Sự hài hòa có liên quan tới sự vận động, kết cấu, quan hệ, sức mạnh, tiết tấu... trong nghệ thuật.
Cái đẹp trước hết tồn tại trong hình thức. Con người vốn có sự nhất trí về những cái đẹp trong vật thể, trong thiên nhiên: hoa nở, chim hót, cây cối xanh tươi, mặt biển mênh mông, núi cao hùng vĩ, đôi mắt đen lóng lánh. Những cái đẹp đó đẹp ở cấu trúc, màu sắc, hình thể, chất liệu, nhịp điệu, tỉ lệ... Cái đẹp tác động đầu tiên bằng các yếu tố hình thức. Vì vậy, yêu cầu tiên quyết của nghệ thuật cũng phải là hình thức đẹp. Nhưng bên cạnh đó, cái đẹp cũng mang tính nội dung, tức chất lượng bên trong của vẻ đẹp hình thức. Thí dụ cảnh núi non hùng vĩ, mặt biển mênh mông đều chứa đựng tiềm tàng những sức mạnh bí ẩn của thiên nhiên, cây cối tốt tươi biểu hiện của sức sống mãnh liệt, tiếng chim hót say sưa chính là bài ca ca ngợi sự sống của muôn loài...
Cái đẹp là cái hoàn thiện. Hoàn thiện là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp. Những gì đạt tới sự phát triển hoàn mĩ nhất so với cùng loại thường gợi cái đẹp, đưa con người đến những
cảm hứng thẩm mĩ. Trong một vườn cây, cái cây đẹp là cây phát triển mạnh mẽ, toàn diện nhất, đầy sức sống, lá cành xum xuê, nhiều hoa thơm, quả ngọt. Trong một bầy đàn, con vật nuôi đẹp nhất là con to khoẻ, béo mượt, có khả năng sinh sôi nảy nở nhiều nhất. Và một vật nào đó đến giai đoạn phát triển hoàn thiện nhất của chính nó cũng có giá trị nhất và gợi cảm nhất. Người ta chẳng nói: “Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà nhảy ổ” là đáng thưởng thức nhất đó sao. Người xưa cho rằng cái đẹp gắn liền với cái có ích chính vì lí do này.
Cái đẹp còn tồn tại trong chỉnh thể. Chỉ có trong chỉnh thể, mọi yếu tố mới phát huy hết vẻ đẹp của nó. Sêkhốp đã viết một câu chuyện về hai người đẹp. Một người có khuôn mặt hoàn mĩ, cân đối với cấu trúc chuẩn mực như “khuôn mặt Hi Lạp”. Còn người kia, dù có những nét không hoàn mĩ, song vẫn rất đẹp, bởi hài hòa trên gương mặt đó. Truyện Trung Hoa kể rằng, có một quân vương tiếp khách, khách khen tay mĩ nữ đẹp, một lúc sau, khách được tặng quà là đôi tay mĩ nữ. Ở đây không có gì là đẹp, mà chỉ có sự ghê rợn. Cũng giống như kiến trúc nhà toàn kính chỉ phù hợp với phương Tây nơi ít nắng, còn ở xứ Việt Nam đầy nắng thì quá chói chang. Cái đẹp không tách rời khỏi chỉnh thể là vì vậy.
Cái đẹp là cái phù hợp với quy luật. Sự thống nhất, cân đối của các yếu tố bên trong một chỉnh thể đã là điều kiện đảm bảo cho sự sống, linh hồn, sự vận động, nhịp điệu, sinh khí của chính sự vật đó. Do đó, cái đẹp là sự phát triển tự nhiên của cuộc sống. Bản chất cái đẹp liên quan tới sự phát triển tự nhiên, bởi vì, theo Chu Dịch, cái đẹp có trong sự vận động, sinh sôi, biến hóa (sấm chớp hợp mà rực rỡ, trời đất biến hóa, cây cỏ phồn thịnh...).
Mọi đối tượng trong tự nhiên đều có đủ hình thần, muôn vật đều có sinh mệnh, cho dù là một cành cây khô, một chiếc lá rụng cũng là dấu hiệu sự sống. Ví như trong thơ, hoạ về sơn thuỷ của Trung Quốc, chúng ta luôn cảm thụ được đó là một tự nhiên tràn đầy sinh khí và ý vị nhân gian. Nghệ thuật có miêu tả tự nhiên nhưng thường chú ý tới sự vận động, tiết tấu và khí thế vận luật tự nhiên, với những sức mạnh của sự hài hòa những mặt tương phản. Có nghĩa là, cái đẹp luôn tràn đầy sức sống, có khí lực của chính nó.
2 Cái đẹp mang tính chủ quan
Nhưng không phải chỉ mang tính khách quan, cái đẹp còn gắn với quan niệm chủ quan của con người. Cái đẹp còn là một phạm trù giá trị, có sự vận động trong lịch sử. Một vật được coi là xấu hay đẹp phụ thuộc không chỉ vào những phẩm chất nó vốn có mà còn phụ thuộc vào quan hệ của nó đối với từng cá nhân cùng tâm sinh lí, kinh nghiệm, văn hóa, giới tính, thị hiếu thẩm mĩ riêng. Cái đẹp không chỉ ở đôi má hồng người thiếu nữ mà còn ở đôi mắt kẻ si tình, Cansto đã từng nói về tính chủ quan của cái đẹp như vậy. Mỗi trường phái nghệ thuật cũng có những quan niệm khác nhau về cái đẹp với những phong cách biểu hiện khác nhau. Điều đó cho thấy cái đẹp trong nghệ thuật thật phong phú và biến hóa khôn lường.
Cái đẹp gắn với lí tưởng và ước mơ của con người. Cái đẹp luôn đi liền với ý niệm về những điều mong ước mang tính lí tưởng. Cánh đồng lúa chín vàng rực đẹp bởi vì gắn với hình ảnh về vụ mùa bội thu. Theo dân gian,“Đàn bà thắt đáy lưng ong” là một tiêu chuẩn đẹp bởi vì đó là dấu hiệu của “Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con”. “Làn da trắng như tuyết, môi đỏ như máu, tóc đen như mun” của nàng Bạch Tuyết đẹp vì là biểu hiện của sức khoẻ hoàn mĩ. Stăngđan nói, cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc là vì vậy.
Cái đẹp quan hệ tới điều kiện lịch sử, dân tộc, giai cấp. Nghĩa là cái đẹp không chỉ gắn với đánh giá chủ quan của một cá nhân mà còn với những tiêu chuẩn thẩm mĩ của xã hội và dân tộc. Người châu Âu không cho màu vàng là đẹp, trong khi đó, ở châu Á, màu vàng là hình ảnh của quyền lực vua chúa. Người châu Âu cho con rồng là tà dâm quỷ ác, còn người châu Á lại coi con rồng là cao quý linh thiêng. Tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa xưa được coi là đẹp, đặc biệt trong giới quý tộc phong kiến, bởi nó sẽ tạo nên dáng vẻ lả lướt yếu đuối đầy hấp dẫn, nhưng người hiện đại thì không thể nào chấp nhận được cái đẹp vô nhân tính như vậy. Tức là sự nhất trí về một cái đẹp cụ thể nào đó chỉ dựa trên sự đồng thuận giữa con người dựa trên những tiêu chuẩn và quy ước nhất định.
Do đó, có thể thấy rằng, cái đẹp là cái thống nhất về hình thái, tính chất khách quan của đối tượng với ý thức chủ quan. Bởi nếu cái đẹp tự nhiên không có người thưởng thức thì cũng không thành cái đẹp. Và con người cũng vẫn phải phục tùng các phẩm chất khách quan của đối tượng khi thưởng thức. Mĩ cảm, (khả năng thưởng thức cái đẹp và sáng tạo nên những giá trị theo quy luật của cái đẹp) có những cội nguồn tự nhiên vì lẽ đó.
3 Cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp không chỉ có trong tự nhiên, con người từ xa xưa đã biết sáng tạo nên những giá trị thẩm mĩ, tức sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo theo tiêu chí cái đẹp, là kết tinh của cái đẹp. Nghệ thuật có khả năng vĩnh viễn hóa cái đẹp, ghi nhận và lưu giữ cái đẹp khoảnh khắc của đời sống để biến nó thành vĩnh cửu. Vẻ đẹp của người Hi Lạp chẳng trường tồn cùng năm tháng với pho tượng Vệ nữ ở Milô, cùng các bức tượng cổ đại hay sao. Bông hồng trong bài thơ Vãn cảnh của Hồ Chí Minh đã bất bình vì quy luật thiên nhiên nghiệt ngã, sớm nở tối tàn, nhưng nếu bông hồng đó đã đi vào thơ ca thì nó sẽ trở thành bất tử. Nguyễn Du đã từng viết: Thi hành thảo thụ giai thiên cổ chính là vì cỏ cây hoa lá khi đã đi vào thơ ca (nói rộng ra là nghệ thuật) thì trở thành đẹp mãi ngàn năm.
Cái đẹp trong nghệ thuật thường được nâng cao hơn cái đẹp ngoài đời, được chắt lọc, kết tinh và kết cấu lại, nên mang tính độc đáo, điển hình. Khi Nguyễn Du viết:
thì đó là một trong những bức tranh lộng lẫy nhất về mùa thu. Có ý kiến cho rằng, từ khi Hàn Cán, danh hoạ đời Đường, đặt bút vẽ ngựa thì người ta không coi có con gì trên đời này được gọi là con ngựa nữa, chính là vì vẻ đẹp mang tính kết tinh này.
Hơn nữa, hình tượng nghệ thuật không chỉ là hình ảnh sao chép của đời sống thực tế, mà còn chứa đựng tư tưởng tình cảm của con người với những ý nghĩa nhân sinh. Cho nên cái đẹp trong nghệ thuật mang sắc thái biểu cảm cao. Cây tre xơ xác, gầy guộc đi vào thơ Nguyễn Duy cũng trở thành đẹp bởi mang trong mình những phẩm chất kiên cường, nhẫn nại, bất khuất của con người Việt Nam. Cho nên, cũng là những hình ảnh, âm thanh của đời sống thực tế nhưng hình ảnh, màu sắc, âm thanh trong nghệ thuật vẫn không hoàn toàn là sự sao chép nguyên xi đời sống. Trong nghệ thuật có những sắc màu rất lạ: Gió chướng xanh đến nỗi mình ngợp thở (Thanh Thảo), Hoa phượng vĩ chói lọi tiếng kèn đồng mùa hạ (Thanh Thảo), Biển nguội dần, vỗ tím vào đêm (Hữu Thỉnh), Trời xanh tuổi thơ, trời xanh cu gáy (Chế Lan Viên). Hiện thực cuộc sống, nhưng đã được chọn lựa, đánh giá, kết cấu lại, được điển hình hóa, khái quát hóa, thẩm mĩ hóa, nên cái đẹp nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ cao và có sức mạnh chinh phục.
Cái đẹp trong nghệ thuật thống nhất ở nội dung và hình thức một cách cao độ. Các yếu tố hình thức bao giờ cũng để làm rõ cái đẹp về nội dung.
Cái đẹp trong nghệ thuật dễ nhận thấy trước hết là ở yếu tố hình thức. Cái đẹp hình thức này có khả năng đem lại khoái cảm thẩm mĩ cao. Đó là sự gọt giũa, trau chuốt của các yếu tố hình thức trong tác phẩm nghệ thuật: các hình ảnh, âm thanh, ngôn từ, nhịp điệu, hình khối hài hòa, hoàn chỉnh, ấn tượng đầy sức sống, có khả năng diễn tả chân thực và sinh động cuộc sống.
Tiếp đến là vẻ đẹp của nội dung. Đó là những vẻ đẹp thiên nhiên: Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan, Đường bạch dương sương trắng nắng tràn (Tố Hữu). Vẻ đẹp hình thức của con người: Một yêu tóc bỏ đuôi gà, Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên (ca dao), Vai năm tấc rộng thân mười thước cao (Nguyễn Du). Vẻ đẹp của tình cảm: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay (ca dao). Vẻ đẹp của phong cách sống: Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng (ca dao). Vẻ đẹp của quan hệ người: Có gì đẹp trên đời hơn thế, người yêu người sống để yêu nhau (Tố Hữu). Vẻ đẹp của lòng dũng cảm, của chí khí kiên cường:
Chào anh giải phóng quân,
Kính chào anh con người đẹp nhất,
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất,
Sống hiên ngang bất khất trên đời,
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi,
Một dây ná một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ (Tố Hữu)...
Cái đẹp trong nghệ thuật cũng mang tính lịch sử, phụ thuộc vào phong cách thời đại và cá nhân. Trong những tác phẩm được xếp vào loại Yêu ngôn của Nguyễn Tuân luôn chứa đựng những vẻ đẹp kì lạ. Đó là cái đẹp gắn với cái lộng lẫy, rực rỡ, hoặc cái được phóng đại, mang kích thước kì vĩ, hoặc cái bất thường, nghịch dị. Cái đẹp gắn với sự thăng hoa của tinh thần, với lối sống thanh cao, khí phách, cứng cỏi, siêu phàm. Cái đẹp là cái tinh hoa của trời đất và con người. Quá trình sáng tạo và chiếm lĩnh cái đẹp là quá trình huyền bí và linh thiêng. Cái đẹp là cái khó tri âm, không chia sẻ được. Những cái đẹp ấy được thể hiện thông qua những điều kì lạ: kì cảnh, kì nhân, kì tình, kì duyên, kì ngôn.
Bên cạnh đó, còn có những nội dung không chứa đựng cái đẹp. Ví như các tác phẩm mô tả cái xấu, cái ác... như trong các câu chuyện kinh dị, những phim hành động, những câu chuyện và cái đói, về tội ác, về sự tha hóa của con người... Nhưng, ẩn đằng sau nội dung đó, bao giờ người nghệ sĩ cũng đứng trên những tư tưởng và tình cảm tốt đẹp để phản ánh.
Và một điều không thể thiếu là những tác phẩm đó phải chứa đựng cái đẹp về mặt hình thức: kết cấu, cách xây dựng nhân vật và kể chuyện sao cho thật hấp dẫn. Đó là sự hoàn thiện, hài hòa về hình thức và nội dung thể hiện. Trình độ nghệ thuật điêu luyện của những tác phẩm kiệt tác luôn mang lại những hiệu quả thẩm mĩ lớn lao.
Điều đó có nghĩa là, các tác phẩm chỉ đẹp khi nó thể hiện chân thực đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó thông qua lăng kính nhân đạo, thể hiện được sự phong phú về tinh thần của cá nhân con người và dưới một hình thức nghệ thuật hoàn thiện.
Lê Lưu Oanh
trong đó Cái đẹp bao giờ cũng là cái nòng cốt hướng tới xưa nay của con người và của cả văn học.
1 Cái đẹp mang tính khách quan
Khi đứng truớc một sự vật, một hiện tượng trong tự nhiên và xã hội như một cánh đồng vàng rực lúa chín, rừng bạch dương thơm mát mùa xuân, đóa sen hồng mùa hạ, hương cốm mùa thu, đôi má hồng của thiếu nữ, tình yêu mãnh liệt, thuỷ chung, chí khí anh hùng...,con người tự nảy sinh nguồn khoái cảm, phấn chấn, thêm yêu đời, hăng say làm việc, biết thêm những ý nghĩa cuộc đời. Nhu cầu về sáng tạo nghệ thuật cũng bắt nguồn từ đó. Theo Dostoievxki nhu cầu về vẻ đẹp và sự sáng tạo vẻ đẹp gắn bó keo sơn với con người.
Vậy cái đẹp là gì?
Cái đẹp được hình thành trên cơ sở tự nhiên, được tạo nên do chính các phẩm chất, yếu tố, kết cấu khách quan của các sự vật. Đó là vẻ đẹp khách quan cảm tính của màu sắc, hương vị, âm thanh, đường nét, mảng khối, nhịp điệu, kích thước, sự cân đối, tỉ lệ hài hòa... Từ đó gây nên sự thăng bằng, thoải mái, dễ chịu về cảm giác, đối với các giác quan. Thí dụ, trước mắt ta là một con người có khuôn mặt hình trái xoan, chiều dài đầu có tỉ lệ 1/7,5 so với toàn thân, da dẻ mịn màng, ửng hồng, tóc dầy mềm mại và sóng mướt - đó là con người đẹp. Khi nhìn thấy một bông hoa màu sắc hài hòa, tươi thắm, có hương thơm - đó là bông hoa đẹp. Cái cây đẹp là cái cây có vầng lá xum suê, xanh mướt, hoa thơm, quả ngọt.
Cái đẹp có những quy luật hình thức cảm tính nhất định, và tác động lên cảm tính của con người.
Quy luật đầu tiên là sự hài hòa. Từ xa xưa, con người đã ý thức được những quy luật hình thức với các tỉ lệ, hài hòa, biến hóa, thống nhất và những quy luật số lượng. Pitago đã gắn vẻ đẹp và sự hài hòa trong các quan hệ số lượng và sự hài hòa trong âm nhạc: quãng tám - 1:8; quãng bốn - 3:4; quãng năm - 2. Pitago thích âm nhạc và thấy ở đó sự phản ánh những quy luật của vũ trụ. Theo ông, phép hòa thanh của âm nhạc phản ánh tính hài hòa của các thiên thể trong vũ trụ. Do phản ánh trật tự vận động của vũ trụ, âm nhạc có khả năng đưa cả sự vận động tâm hồn vào trật tự đó.
Còn Hêraclít cho rằng, vẻ đẹp hài hòa hình thành từ sự hòa nhập, sự kết hợp các yếu tố đối lập: “Chính tự nhiên khao khát những mặt đối lập, và tạo nên sự hòa điệu từ chúng, chứ không phải từ những sự vật đồng dạng... Nhờ pha trộn các màu trắng, đen, vàng và đỏ, hội hoạ mô tả phù hợp với nguyên mẫu. Âm nhạc tạo nên sự hài hòa thống nhất nhờ hòa lẫn trong (tiếng hát chung) những giọng điệu khác nhau, những âm thanh cao và thấp, dài và ngắn”.
Aristot lại nhấn mạnh, hài hòa là tiêu chuẩn của cái đẹp: “Một thực thể hay một sự vật gồm những bộ phận khác nhau chỉ có thể có vẻ đẹp khi những bộ phận của nó được bố trí theo một trật tự hoàn mĩ nào đó, và hơn nữa, không thể có một kích thước tùy tiện, vì những cái đẹp nằm ở trật tự và sự cao cả”.
Thời Phục hưng, người ta đã chỉ ra tỉ lệ vàng hay chỉ số vàng trong tương quan tỉ lệ của hai cạnh trong các hình chữ nhật là 1/1,61. Đây là chỉ số tối ưu nhất cho sự cân đối trong các loại hình chữ nhật nói chung, từ kích thước của sổ, cửa ra vào, đến khung ảnh, bàn ghế...
Ngoài ra, còn có những chỉ số vàng như 3/5, 5/8, 8/13, 13/21... cho các hình dạng khác như cơ thể con người trong hội hoạ, điêu khắc, hình dạng ngôi nhà với những tỉ lệ về mái, cửa, lan can, cột, hình dạng các loại bình, cốc chén... Nhà toán học Luca Pasioli là người đã trình bày đầu tiên về tỉ lệ điểm cắt vàng trong mọi đoạn thẳng trong cuốn sách Tỉ lệ thần kì, xuất bản năm 1509. Trong những bức tranh nổi tiếng của Tề Bạch Thạch, người ta tìm thấy tỉ lệ vàng trong bố cục, thể hiện ở quan hệ giữa hình và nền, giữa trắng và đen, giữa đậm và nhạt.
Ở Trung Quốc thời cổ, Chu Dịch đã khẳng định, cái đẹp biểu hiện của sự phát triển cuộc sống. Cái đẹp là cái hoàn hảo nhất, lí tưởng nhất trong sự hài hòa với cuộc sống. Người ta cũng nói tới cái gọi là ngũ sắc, điều tiết hài hòa ngũ sắc. Trong sách Tuân Tử và Lã Thị Xuân Thu cũng đã bàn tới số học trong âm nhạc. Tất cả các quan điểm đó đều nói lên rằng cái đẹp có tính chất khách quan và những quy luật hình thức nhất định. Cái đẹp mang tính nhân loại chung là vì thế.
Theo Hêghen, cái đẹp thể hiện ở tính đều đặn, tính đối xứng, sự phù hợp quy luật, tính hài hòa, sự thống nhất các chất liệu cảm quan.
Như vậy, cái đẹp trước hết là sự hài hòa. Hài hòa là tỉ lệ cân đối nhất định giữa các yếu tố trong một chỉnh thể. Cấu trúc hài hòa là cấu trúc lí tưởng của tự nhiên và xã hội. Hài hòa là sự trật tự, hợp lí, thống nhất thường được tạo nên từ sự đối xứng, cân bằng giữa âm - dương, động - tĩnh, cương - nhu, vuông - tròn, cong - thẳng, mở - đóng, thuận - nghịch, khai - hợp, tiến - thoái, nhanh - chậm, hư - thực, khinh - trọng, tối - sáng, nội dung – hình thức... Không chỉ đối xứng giữa các yếu tố tương phản hoặc khác biệt, mà còn có sự đối xứng mang tính lặp lại đều đặn về vị trí, hình thức, màu sắc, âm thanh. Hài hòa còn thể hiện ở sự thống nhất, đều đặn, lặp đi lặp lại một hình thức duy nhất. Thí dụ, các hàng cột, lan can, tay vịn cửa của một ngôi nhà đều có những màu sắc, hoạ tiết, hình dáng giống nhau, tạo nên sự thống nhất của chỉnh thể.
Hài hòa là tiêu chuẩn đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh, bình thường của cuộc sống, dựa trên tác động tương hỗ của các sức mạnh đối xứng nhau. Bông hoa đẹp là bông hoa vừa có sắc vừa có hương. Người phụ nữ đẹp là người vừa có sắc đẹp vừa có trí tuệ, đầy đủ công dung ngôn hạnh. Xã hội đẹp là xã hội có công bằng, dân chủ, văn minh. Thơ Hồ
Chủ Tịch bộc lộ sự hài hòa trong nhân cách lãnh tụ: thi nhân - chiến sĩ, cổ điển - hiện đại, thép - tình... Sự hài hòa có liên quan tới sự vận động, kết cấu, quan hệ, sức mạnh, tiết tấu... trong nghệ thuật.
Cái đẹp trước hết tồn tại trong hình thức. Con người vốn có sự nhất trí về những cái đẹp trong vật thể, trong thiên nhiên: hoa nở, chim hót, cây cối xanh tươi, mặt biển mênh mông, núi cao hùng vĩ, đôi mắt đen lóng lánh. Những cái đẹp đó đẹp ở cấu trúc, màu sắc, hình thể, chất liệu, nhịp điệu, tỉ lệ... Cái đẹp tác động đầu tiên bằng các yếu tố hình thức. Vì vậy, yêu cầu tiên quyết của nghệ thuật cũng phải là hình thức đẹp. Nhưng bên cạnh đó, cái đẹp cũng mang tính nội dung, tức chất lượng bên trong của vẻ đẹp hình thức. Thí dụ cảnh núi non hùng vĩ, mặt biển mênh mông đều chứa đựng tiềm tàng những sức mạnh bí ẩn của thiên nhiên, cây cối tốt tươi biểu hiện của sức sống mãnh liệt, tiếng chim hót say sưa chính là bài ca ca ngợi sự sống của muôn loài...
Cái đẹp là cái hoàn thiện. Hoàn thiện là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp. Những gì đạt tới sự phát triển hoàn mĩ nhất so với cùng loại thường gợi cái đẹp, đưa con người đến những
cảm hứng thẩm mĩ. Trong một vườn cây, cái cây đẹp là cây phát triển mạnh mẽ, toàn diện nhất, đầy sức sống, lá cành xum xuê, nhiều hoa thơm, quả ngọt. Trong một bầy đàn, con vật nuôi đẹp nhất là con to khoẻ, béo mượt, có khả năng sinh sôi nảy nở nhiều nhất. Và một vật nào đó đến giai đoạn phát triển hoàn thiện nhất của chính nó cũng có giá trị nhất và gợi cảm nhất. Người ta chẳng nói: “Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà nhảy ổ” là đáng thưởng thức nhất đó sao. Người xưa cho rằng cái đẹp gắn liền với cái có ích chính vì lí do này.
Cái đẹp còn tồn tại trong chỉnh thể. Chỉ có trong chỉnh thể, mọi yếu tố mới phát huy hết vẻ đẹp của nó. Sêkhốp đã viết một câu chuyện về hai người đẹp. Một người có khuôn mặt hoàn mĩ, cân đối với cấu trúc chuẩn mực như “khuôn mặt Hi Lạp”. Còn người kia, dù có những nét không hoàn mĩ, song vẫn rất đẹp, bởi hài hòa trên gương mặt đó. Truyện Trung Hoa kể rằng, có một quân vương tiếp khách, khách khen tay mĩ nữ đẹp, một lúc sau, khách được tặng quà là đôi tay mĩ nữ. Ở đây không có gì là đẹp, mà chỉ có sự ghê rợn. Cũng giống như kiến trúc nhà toàn kính chỉ phù hợp với phương Tây nơi ít nắng, còn ở xứ Việt Nam đầy nắng thì quá chói chang. Cái đẹp không tách rời khỏi chỉnh thể là vì vậy.
Cái đẹp là cái phù hợp với quy luật. Sự thống nhất, cân đối của các yếu tố bên trong một chỉnh thể đã là điều kiện đảm bảo cho sự sống, linh hồn, sự vận động, nhịp điệu, sinh khí của chính sự vật đó. Do đó, cái đẹp là sự phát triển tự nhiên của cuộc sống. Bản chất cái đẹp liên quan tới sự phát triển tự nhiên, bởi vì, theo Chu Dịch, cái đẹp có trong sự vận động, sinh sôi, biến hóa (sấm chớp hợp mà rực rỡ, trời đất biến hóa, cây cỏ phồn thịnh...).
Mọi đối tượng trong tự nhiên đều có đủ hình thần, muôn vật đều có sinh mệnh, cho dù là một cành cây khô, một chiếc lá rụng cũng là dấu hiệu sự sống. Ví như trong thơ, hoạ về sơn thuỷ của Trung Quốc, chúng ta luôn cảm thụ được đó là một tự nhiên tràn đầy sinh khí và ý vị nhân gian. Nghệ thuật có miêu tả tự nhiên nhưng thường chú ý tới sự vận động, tiết tấu và khí thế vận luật tự nhiên, với những sức mạnh của sự hài hòa những mặt tương phản. Có nghĩa là, cái đẹp luôn tràn đầy sức sống, có khí lực của chính nó.
2 Cái đẹp mang tính chủ quan
Nhưng không phải chỉ mang tính khách quan, cái đẹp còn gắn với quan niệm chủ quan của con người. Cái đẹp còn là một phạm trù giá trị, có sự vận động trong lịch sử. Một vật được coi là xấu hay đẹp phụ thuộc không chỉ vào những phẩm chất nó vốn có mà còn phụ thuộc vào quan hệ của nó đối với từng cá nhân cùng tâm sinh lí, kinh nghiệm, văn hóa, giới tính, thị hiếu thẩm mĩ riêng. Cái đẹp không chỉ ở đôi má hồng người thiếu nữ mà còn ở đôi mắt kẻ si tình, Cansto đã từng nói về tính chủ quan của cái đẹp như vậy. Mỗi trường phái nghệ thuật cũng có những quan niệm khác nhau về cái đẹp với những phong cách biểu hiện khác nhau. Điều đó cho thấy cái đẹp trong nghệ thuật thật phong phú và biến hóa khôn lường.
Cái đẹp gắn với lí tưởng và ước mơ của con người. Cái đẹp luôn đi liền với ý niệm về những điều mong ước mang tính lí tưởng. Cánh đồng lúa chín vàng rực đẹp bởi vì gắn với hình ảnh về vụ mùa bội thu. Theo dân gian,“Đàn bà thắt đáy lưng ong” là một tiêu chuẩn đẹp bởi vì đó là dấu hiệu của “Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con”. “Làn da trắng như tuyết, môi đỏ như máu, tóc đen như mun” của nàng Bạch Tuyết đẹp vì là biểu hiện của sức khoẻ hoàn mĩ. Stăngđan nói, cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc là vì vậy.
Cái đẹp quan hệ tới điều kiện lịch sử, dân tộc, giai cấp. Nghĩa là cái đẹp không chỉ gắn với đánh giá chủ quan của một cá nhân mà còn với những tiêu chuẩn thẩm mĩ của xã hội và dân tộc. Người châu Âu không cho màu vàng là đẹp, trong khi đó, ở châu Á, màu vàng là hình ảnh của quyền lực vua chúa. Người châu Âu cho con rồng là tà dâm quỷ ác, còn người châu Á lại coi con rồng là cao quý linh thiêng. Tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa xưa được coi là đẹp, đặc biệt trong giới quý tộc phong kiến, bởi nó sẽ tạo nên dáng vẻ lả lướt yếu đuối đầy hấp dẫn, nhưng người hiện đại thì không thể nào chấp nhận được cái đẹp vô nhân tính như vậy. Tức là sự nhất trí về một cái đẹp cụ thể nào đó chỉ dựa trên sự đồng thuận giữa con người dựa trên những tiêu chuẩn và quy ước nhất định.
Do đó, có thể thấy rằng, cái đẹp là cái thống nhất về hình thái, tính chất khách quan của đối tượng với ý thức chủ quan. Bởi nếu cái đẹp tự nhiên không có người thưởng thức thì cũng không thành cái đẹp. Và con người cũng vẫn phải phục tùng các phẩm chất khách quan của đối tượng khi thưởng thức. Mĩ cảm, (khả năng thưởng thức cái đẹp và sáng tạo nên những giá trị theo quy luật của cái đẹp) có những cội nguồn tự nhiên vì lẽ đó.
3 Cái đẹp trong nghệ thuật
Cái đẹp không chỉ có trong tự nhiên, con người từ xa xưa đã biết sáng tạo nên những giá trị thẩm mĩ, tức sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo theo tiêu chí cái đẹp, là kết tinh của cái đẹp. Nghệ thuật có khả năng vĩnh viễn hóa cái đẹp, ghi nhận và lưu giữ cái đẹp khoảnh khắc của đời sống để biến nó thành vĩnh cửu. Vẻ đẹp của người Hi Lạp chẳng trường tồn cùng năm tháng với pho tượng Vệ nữ ở Milô, cùng các bức tượng cổ đại hay sao. Bông hồng trong bài thơ Vãn cảnh của Hồ Chí Minh đã bất bình vì quy luật thiên nhiên nghiệt ngã, sớm nở tối tàn, nhưng nếu bông hồng đó đã đi vào thơ ca thì nó sẽ trở thành bất tử. Nguyễn Du đã từng viết: Thi hành thảo thụ giai thiên cổ chính là vì cỏ cây hoa lá khi đã đi vào thơ ca (nói rộng ra là nghệ thuật) thì trở thành đẹp mãi ngàn năm.
Cái đẹp trong nghệ thuật thường được nâng cao hơn cái đẹp ngoài đời, được chắt lọc, kết tinh và kết cấu lại, nên mang tính độc đáo, điển hình. Khi Nguyễn Du viết:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
thì đó là một trong những bức tranh lộng lẫy nhất về mùa thu. Có ý kiến cho rằng, từ khi Hàn Cán, danh hoạ đời Đường, đặt bút vẽ ngựa thì người ta không coi có con gì trên đời này được gọi là con ngựa nữa, chính là vì vẻ đẹp mang tính kết tinh này.
Hơn nữa, hình tượng nghệ thuật không chỉ là hình ảnh sao chép của đời sống thực tế, mà còn chứa đựng tư tưởng tình cảm của con người với những ý nghĩa nhân sinh. Cho nên cái đẹp trong nghệ thuật mang sắc thái biểu cảm cao. Cây tre xơ xác, gầy guộc đi vào thơ Nguyễn Duy cũng trở thành đẹp bởi mang trong mình những phẩm chất kiên cường, nhẫn nại, bất khuất của con người Việt Nam. Cho nên, cũng là những hình ảnh, âm thanh của đời sống thực tế nhưng hình ảnh, màu sắc, âm thanh trong nghệ thuật vẫn không hoàn toàn là sự sao chép nguyên xi đời sống. Trong nghệ thuật có những sắc màu rất lạ: Gió chướng xanh đến nỗi mình ngợp thở (Thanh Thảo), Hoa phượng vĩ chói lọi tiếng kèn đồng mùa hạ (Thanh Thảo), Biển nguội dần, vỗ tím vào đêm (Hữu Thỉnh), Trời xanh tuổi thơ, trời xanh cu gáy (Chế Lan Viên). Hiện thực cuộc sống, nhưng đã được chọn lựa, đánh giá, kết cấu lại, được điển hình hóa, khái quát hóa, thẩm mĩ hóa, nên cái đẹp nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ cao và có sức mạnh chinh phục.
Cái đẹp trong nghệ thuật thống nhất ở nội dung và hình thức một cách cao độ. Các yếu tố hình thức bao giờ cũng để làm rõ cái đẹp về nội dung.
Cái đẹp trong nghệ thuật dễ nhận thấy trước hết là ở yếu tố hình thức. Cái đẹp hình thức này có khả năng đem lại khoái cảm thẩm mĩ cao. Đó là sự gọt giũa, trau chuốt của các yếu tố hình thức trong tác phẩm nghệ thuật: các hình ảnh, âm thanh, ngôn từ, nhịp điệu, hình khối hài hòa, hoàn chỉnh, ấn tượng đầy sức sống, có khả năng diễn tả chân thực và sinh động cuộc sống.
Tiếp đến là vẻ đẹp của nội dung. Đó là những vẻ đẹp thiên nhiên: Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan, Đường bạch dương sương trắng nắng tràn (Tố Hữu). Vẻ đẹp hình thức của con người: Một yêu tóc bỏ đuôi gà, Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên (ca dao), Vai năm tấc rộng thân mười thước cao (Nguyễn Du). Vẻ đẹp của tình cảm: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay (ca dao). Vẻ đẹp của phong cách sống: Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng (ca dao). Vẻ đẹp của quan hệ người: Có gì đẹp trên đời hơn thế, người yêu người sống để yêu nhau (Tố Hữu). Vẻ đẹp của lòng dũng cảm, của chí khí kiên cường:
Chào anh giải phóng quân,
Kính chào anh con người đẹp nhất,
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất,
Sống hiên ngang bất khất trên đời,
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi,
Một dây ná một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ (Tố Hữu)...
Cái đẹp trong nghệ thuật cũng mang tính lịch sử, phụ thuộc vào phong cách thời đại và cá nhân. Trong những tác phẩm được xếp vào loại Yêu ngôn của Nguyễn Tuân luôn chứa đựng những vẻ đẹp kì lạ. Đó là cái đẹp gắn với cái lộng lẫy, rực rỡ, hoặc cái được phóng đại, mang kích thước kì vĩ, hoặc cái bất thường, nghịch dị. Cái đẹp gắn với sự thăng hoa của tinh thần, với lối sống thanh cao, khí phách, cứng cỏi, siêu phàm. Cái đẹp là cái tinh hoa của trời đất và con người. Quá trình sáng tạo và chiếm lĩnh cái đẹp là quá trình huyền bí và linh thiêng. Cái đẹp là cái khó tri âm, không chia sẻ được. Những cái đẹp ấy được thể hiện thông qua những điều kì lạ: kì cảnh, kì nhân, kì tình, kì duyên, kì ngôn.
Bên cạnh đó, còn có những nội dung không chứa đựng cái đẹp. Ví như các tác phẩm mô tả cái xấu, cái ác... như trong các câu chuyện kinh dị, những phim hành động, những câu chuyện và cái đói, về tội ác, về sự tha hóa của con người... Nhưng, ẩn đằng sau nội dung đó, bao giờ người nghệ sĩ cũng đứng trên những tư tưởng và tình cảm tốt đẹp để phản ánh.
Và một điều không thể thiếu là những tác phẩm đó phải chứa đựng cái đẹp về mặt hình thức: kết cấu, cách xây dựng nhân vật và kể chuyện sao cho thật hấp dẫn. Đó là sự hoàn thiện, hài hòa về hình thức và nội dung thể hiện. Trình độ nghệ thuật điêu luyện của những tác phẩm kiệt tác luôn mang lại những hiệu quả thẩm mĩ lớn lao.
Điều đó có nghĩa là, các tác phẩm chỉ đẹp khi nó thể hiện chân thực đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó thông qua lăng kính nhân đạo, thể hiện được sự phong phú về tinh thần của cá nhân con người và dưới một hình thức nghệ thuật hoàn thiện.
Lê Lưu Oanh