Cốt truyện được coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn học, đặc biệt là ở thể loại tự sự. Là một phương diện của hình thức tác phẩm nhưng cốt truyện lại có vai trò không nhỏ trong việc bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, việc thể hiện tính cách nhân vật. Một tác phẩm có cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn sẽ làm cho chủ đề của tác phẩm có sức thuyết phục hơn. Có vai trò quan trọng trong tổ chức tự sự, vấn đề cốt truyện đã được nghiên cứu từ rất sớm trên thế giới và vẫn tiếp tục là đề tài hấp dẫn cho các nhà lí luận văn học hiện đại.
Trong các công trình của Aristote, A.Veselovski, G.N.Pospelov, L.I.Timofeev, E.Dobin, Kojikov, B. Tomachevski, V. Shklovski, P. Cobley, J. Culler, J. Lotman… vấn đề cốt truyện đã được đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau. Người đặt vấn đề đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu cốt truyện là Aritote . Trong Nghệ thuật thơ ca, ông cho rằng cốt truyện chính là “linh hồn và cơ sở của bi kịch”, là cái quan trọng nhất làm thành mục đích của bi kịch. theo đó, cốt truyện được định nghĩa như là “sự tổ chức các sự kiện”, “có phần đầu, phần giữa và phần kết” (has beginning, middle andend), và là yếu tố quan trọng nhất trong số “sáu yếu tố hợp thành” của bi kịch - cốt truyện, nhân vật, biểu đạt ngôn từ, tư tưởng, bài trí mang tính thị giác, và ca nhạc. Bởi bi kịch mô phỏng hành động, chính hành động gắn liền với tính cách là yếu tố quyết định số phận nhân vật (bất hạnh hay hạnh phúc). Tuy nhiên, sức mạnh lôi cuốn lòng người lại nằm ở "sự diễn biến và nhận biết" những yếu tố của cốt truyện. Quan niệm của Aristotle được trình bày rõ trong đoạn trích sau: ““Phần đầu” là cái không cần thiết phải tiếp theo một cái gì khác, nhưng sau nó tự nhiên có một cái gì đó tồn tại hoặc xảy ra; “phần kết” ngược lại, là cái tự nhiên tiếp theo một cái khác, hoặc nhất thiết hoặc hầu như nhất thiết, nhưng sau nó không có gì tiếp theo; và “phần giữa” là cái tự nhiên nối tiếp cái gì đó khác và có cái gì đó khác nữa tiếp theo nó. Vậy, những cốt truyện chặt chẽ không được bắt đầu hay kết thúc tùy tiện, mà phải tuân theo những chỉ dẫn vừa trình bày” . Aristotle đặc biệt nhấn mạnh vai trò của việc sắp xếp các hành động trong cốt truyện, nhằm tạo ra hiệu quả thẩm mỹ nhất định. Ông viết: “cốt truyện phải được sắp xếp như thế nào để bất kỳ ai, dù không được xem biểu diễn, mà chỉ nghe qua về những sự việc xảy ra đó cũng phải rùng mình và cảm thấy xót thương theo trình tự phát triển của các sự kiện trong truyện” . Trong quan niệm của mình, Aristote nhấn mạnh đến chức năng, nhiệm vụ của các sự kiện thông qua việc sắp xếp, bài trí như thế nào để làm sao căn cứ trên cơ sở của sự đột biến của các sự kiện có thể tạo ra những hiệu quả thẩm mĩ nhất định.
Đến L.I.Timofeep, nhận định về cốt truyện trong sự tương quan với các yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, ông cho rằng: cốt truyện chính là hệ thống biến cố mà suy cho cùng những biến cố đó phải phản ánh những mâu thuẫn và xung đột xã hội. Trong các biến cố, tính cách bộc lộ và qua các biến cố sẽ khái quát hoá những xung đột cơ bản của cuộc sống. Vấn đề là người nghệ sĩ phải lựa chọn những biến cố và quan hệ nào, lựa chọn xung đột nào tiêu biểu đối với hoàn cảnh sống của nhân vật, có khả năng khái quát hoá và điển hình nhất.
G. N. Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cũng cho rằng cốt truyện được hình thành chủ yếu là nhờ hành động của nhân vật. Hành động là sự thể hiện các xúc cảm, ý nghĩa, ý định của con người. Theo G.N.Pospelov cốt truyện luôn được triển khai trên nền của những xung đột căng thẳng, nói cách khác, chức năng quan trọng nhất của cốt truyện là bộc lộ các mâu thuẫn đời sống. Tính chất xung đột, mâu thuẫn trong truyện lại do chủ đề mà nhà văn lựa chọn quyết định cùng với phương thức thể hiện chúng là hết sức đa dạng và biến đổi một cách lịch sử. Dựa trên mối liên hệ giữa các sự kiện G.N.Pospelov đã chia ra hai dạng cốt truyện: cốt truyện biên niên và cốt truyện đồng tâm.
Nhìn chung, cả ba nhà lý luận Aristote, G.N.Pospelov và L.I.Timofeep đều đánh giá cao cốt truyện và việc xây dựng kết cấu cốt truyện, song mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những nguyên lý chung, chỉ ra chức năng, nhiệm vụ, những mối liên hệ cơ bản của các yếu tố cốt truyện. Ta coi những quan niệm này là những quan niệm truyền thống về cốt truyện, hiểu cốt truyện như là tiến trình của các sự kiện liên hệ với nhau có tính chất thời gian (A xảy ra sau B) hay nhân quả (B xảy ra vì A), tức theo tuyến tính.
Quan niệm hiện đại về cốt truyện coi cốt truyện là hành trình của nhân vật di chuyển qua các không gian khác nhau. Đầu tiên phải kể đến các nhà nghiên cứu thuộc trường phái hình thức Nga với đại diện tiêu biểu là B. Tomachevski. Trong tiểu luận Hệ chủ đề, B. Tomachevski phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sinzhet, subject) khác với cách phân biệt của A. Veselovski, G.N.Popspelov, L.I.Timofeep. Theo ông, chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông tin cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố trong tác phẩm. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại liên kết các môtip theo trình tự xuất hiện trong tác phẩm, và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm được chế tác, có tính nghệ thuật. Theo ông, có 3 yếu tố chi phối đến thời gian của cốt truyện (thời gian trần thuật) là:
1) thời điểm của hành động kịch;
2) sự nêu lên các khoảng thời gian của các sự kiện;
3) Sự tạo ra cảm giác về khoảng thời gian đó.
Những vấn đề của Tomachevsky đưa ra về cốt truyện đã phủ nhận cách lí giải truyền thống về cốt truyện, khi xem các biến cố và hành động nhân vật là yếu tố cơ bản của cốt truyện, coi các mâu thuẫn, xung đột là hạt nhân của cốt truyện, và mở ra một hướng nghiên cứu mới về cốt truyện: cốt truyện như là một thủ pháp nghệ thuật trần thuật. Mặc dù chuyện kể và cốt truyện như hình với bóng, nhưng sự phân biệt chuyện kể và cốt truyện là cơ sở nhận thức cho những tác phẩm văn xuôi có cốt truyện không rõ ràng mà người ta quen gọi là truyện không có cốt truyện. Khi tác phẩm có cả hai yếu tố: người trần thuật và sự kiện (dù xảy ra bên trong hay bên ngoài) đều có thể xem xét về mặt cốt truyện.
Các nhà lý luận thuộc trường phái cấu trúc mà tiêu biểu J. Lotman trong công trình Cấu trúc văn bản nghệ thuật coi cốt truyện là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Trên nguyên tắc đối lập nhị phân ngữ nghĩa của tổ chức nội tại các yếu tố của văn bản J. Lotman đã xác lập cấu trúc cốt truyện trên cơ sở của một loạt những cặp phạm trù có tính chất đối lập, liên kết với nhau theo từng cấp độ của văn bản nghệ thuật: văn bản phi cốt truyện/văn bản có cốt truyện; không có biến cố/biến cố; nhân vật bất hành động/nhân vật hành động… Ông cũng yêu cầu xem cốt truyện trong sự tương quan chặt chẽ với những yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật như khung khổ, không gian nghệ thuật, điểm nhìn…
Lê Huy Bắc đã phân biệt truyện (story) và cốt truyện (plot) và đã đưa ra khái niệm: “Cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc” .
Trong Từ điển thuật ngữ văn học thì cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [tr.99], và “cốt truyện là phương tiện bộc lộ tính cách, nhờ cốt truyện mà nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt khác cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội” [tr.99]. Song “cơ sở chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung đột xã hội được khúc xạ qua các xung đột tính cách. Nhưng sẽ là sai lầm nếu đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện trong tác phẩm văn học, xung đột xã hội là cơ sở khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh trong khi đó cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn” [tr.100].
Cùng quan điểm đó, Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 1998 cũng quan niệm: “Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật nó là “sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [ tr.13].
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS. Trần Đình Sử cho rằng: “Cốt truyện thường được hiểu là hệ thống các sự kiện chính, cơ bản dung để biểu hiện tính cách và phản ánh mâu thuẫn xung đột xã hội” [tr.132].
Lí luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam đồng chủ biên đã rút ra kết luận về cốt truyện: “Cốt truyện là hình thức sơ đẳng nhất của truyện. cốt truyện thực chất là cái lõi, diễn biến của truyện từ khi xảy ra đến khi kết thúc”. Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo của mỗi nhà văn. Dù đa dạng, mỗi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động, có hình thành phát triển và kết thúc gồm: thắt nút, phát triển hành động (các sự kiện, cao trào), mở nút. Cũng có cách nêu chi tiết hơn: trình bày, khai đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào), mở nút (kết thúc). Ngoài ra, người ta còn nêu ra các thành phần khác của cốt truyện như: tiền sử, hậu sử, mào đầu, vĩ thanh.
Trên đây là các cách hiểu, xác định khái niệm cốt truyện từ truyền thống đến hiện đại, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề phức tạp nhưng trên cơ sở những khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu trong luận văn này, chúng tôi xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch. Cốt truyện (plot) là toàn bộ những sự kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự (và văn bản kịch) mà người đọc có thể kể lại. Cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất kì một hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn bản khác. Trong tác phẩm tự sự (và cả kịch), cốt truyện là cái khung để đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững. Về bản chất, cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm ngặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc.
- Phong Cầm tổng hợp -
Trong các công trình của Aristote, A.Veselovski, G.N.Pospelov, L.I.Timofeev, E.Dobin, Kojikov, B. Tomachevski, V. Shklovski, P. Cobley, J. Culler, J. Lotman… vấn đề cốt truyện đã được đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau. Người đặt vấn đề đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu cốt truyện là Aritote . Trong Nghệ thuật thơ ca, ông cho rằng cốt truyện chính là “linh hồn và cơ sở của bi kịch”, là cái quan trọng nhất làm thành mục đích của bi kịch. theo đó, cốt truyện được định nghĩa như là “sự tổ chức các sự kiện”, “có phần đầu, phần giữa và phần kết” (has beginning, middle andend), và là yếu tố quan trọng nhất trong số “sáu yếu tố hợp thành” của bi kịch - cốt truyện, nhân vật, biểu đạt ngôn từ, tư tưởng, bài trí mang tính thị giác, và ca nhạc. Bởi bi kịch mô phỏng hành động, chính hành động gắn liền với tính cách là yếu tố quyết định số phận nhân vật (bất hạnh hay hạnh phúc). Tuy nhiên, sức mạnh lôi cuốn lòng người lại nằm ở "sự diễn biến và nhận biết" những yếu tố của cốt truyện. Quan niệm của Aristotle được trình bày rõ trong đoạn trích sau: ““Phần đầu” là cái không cần thiết phải tiếp theo một cái gì khác, nhưng sau nó tự nhiên có một cái gì đó tồn tại hoặc xảy ra; “phần kết” ngược lại, là cái tự nhiên tiếp theo một cái khác, hoặc nhất thiết hoặc hầu như nhất thiết, nhưng sau nó không có gì tiếp theo; và “phần giữa” là cái tự nhiên nối tiếp cái gì đó khác và có cái gì đó khác nữa tiếp theo nó. Vậy, những cốt truyện chặt chẽ không được bắt đầu hay kết thúc tùy tiện, mà phải tuân theo những chỉ dẫn vừa trình bày” . Aristotle đặc biệt nhấn mạnh vai trò của việc sắp xếp các hành động trong cốt truyện, nhằm tạo ra hiệu quả thẩm mỹ nhất định. Ông viết: “cốt truyện phải được sắp xếp như thế nào để bất kỳ ai, dù không được xem biểu diễn, mà chỉ nghe qua về những sự việc xảy ra đó cũng phải rùng mình và cảm thấy xót thương theo trình tự phát triển của các sự kiện trong truyện” . Trong quan niệm của mình, Aristote nhấn mạnh đến chức năng, nhiệm vụ của các sự kiện thông qua việc sắp xếp, bài trí như thế nào để làm sao căn cứ trên cơ sở của sự đột biến của các sự kiện có thể tạo ra những hiệu quả thẩm mĩ nhất định.
Đến L.I.Timofeep, nhận định về cốt truyện trong sự tương quan với các yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, ông cho rằng: cốt truyện chính là hệ thống biến cố mà suy cho cùng những biến cố đó phải phản ánh những mâu thuẫn và xung đột xã hội. Trong các biến cố, tính cách bộc lộ và qua các biến cố sẽ khái quát hoá những xung đột cơ bản của cuộc sống. Vấn đề là người nghệ sĩ phải lựa chọn những biến cố và quan hệ nào, lựa chọn xung đột nào tiêu biểu đối với hoàn cảnh sống của nhân vật, có khả năng khái quát hoá và điển hình nhất.
G. N. Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cũng cho rằng cốt truyện được hình thành chủ yếu là nhờ hành động của nhân vật. Hành động là sự thể hiện các xúc cảm, ý nghĩa, ý định của con người. Theo G.N.Pospelov cốt truyện luôn được triển khai trên nền của những xung đột căng thẳng, nói cách khác, chức năng quan trọng nhất của cốt truyện là bộc lộ các mâu thuẫn đời sống. Tính chất xung đột, mâu thuẫn trong truyện lại do chủ đề mà nhà văn lựa chọn quyết định cùng với phương thức thể hiện chúng là hết sức đa dạng và biến đổi một cách lịch sử. Dựa trên mối liên hệ giữa các sự kiện G.N.Pospelov đã chia ra hai dạng cốt truyện: cốt truyện biên niên và cốt truyện đồng tâm.
Nhìn chung, cả ba nhà lý luận Aristote, G.N.Pospelov và L.I.Timofeep đều đánh giá cao cốt truyện và việc xây dựng kết cấu cốt truyện, song mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những nguyên lý chung, chỉ ra chức năng, nhiệm vụ, những mối liên hệ cơ bản của các yếu tố cốt truyện. Ta coi những quan niệm này là những quan niệm truyền thống về cốt truyện, hiểu cốt truyện như là tiến trình của các sự kiện liên hệ với nhau có tính chất thời gian (A xảy ra sau B) hay nhân quả (B xảy ra vì A), tức theo tuyến tính.
Quan niệm hiện đại về cốt truyện coi cốt truyện là hành trình của nhân vật di chuyển qua các không gian khác nhau. Đầu tiên phải kể đến các nhà nghiên cứu thuộc trường phái hình thức Nga với đại diện tiêu biểu là B. Tomachevski. Trong tiểu luận Hệ chủ đề, B. Tomachevski phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sinzhet, subject) khác với cách phân biệt của A. Veselovski, G.N.Popspelov, L.I.Timofeep. Theo ông, chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông tin cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố trong tác phẩm. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại liên kết các môtip theo trình tự xuất hiện trong tác phẩm, và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm được chế tác, có tính nghệ thuật. Theo ông, có 3 yếu tố chi phối đến thời gian của cốt truyện (thời gian trần thuật) là:
1) thời điểm của hành động kịch;
2) sự nêu lên các khoảng thời gian của các sự kiện;
3) Sự tạo ra cảm giác về khoảng thời gian đó.
Những vấn đề của Tomachevsky đưa ra về cốt truyện đã phủ nhận cách lí giải truyền thống về cốt truyện, khi xem các biến cố và hành động nhân vật là yếu tố cơ bản của cốt truyện, coi các mâu thuẫn, xung đột là hạt nhân của cốt truyện, và mở ra một hướng nghiên cứu mới về cốt truyện: cốt truyện như là một thủ pháp nghệ thuật trần thuật. Mặc dù chuyện kể và cốt truyện như hình với bóng, nhưng sự phân biệt chuyện kể và cốt truyện là cơ sở nhận thức cho những tác phẩm văn xuôi có cốt truyện không rõ ràng mà người ta quen gọi là truyện không có cốt truyện. Khi tác phẩm có cả hai yếu tố: người trần thuật và sự kiện (dù xảy ra bên trong hay bên ngoài) đều có thể xem xét về mặt cốt truyện.
Các nhà lý luận thuộc trường phái cấu trúc mà tiêu biểu J. Lotman trong công trình Cấu trúc văn bản nghệ thuật coi cốt truyện là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Trên nguyên tắc đối lập nhị phân ngữ nghĩa của tổ chức nội tại các yếu tố của văn bản J. Lotman đã xác lập cấu trúc cốt truyện trên cơ sở của một loạt những cặp phạm trù có tính chất đối lập, liên kết với nhau theo từng cấp độ của văn bản nghệ thuật: văn bản phi cốt truyện/văn bản có cốt truyện; không có biến cố/biến cố; nhân vật bất hành động/nhân vật hành động… Ông cũng yêu cầu xem cốt truyện trong sự tương quan chặt chẽ với những yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật như khung khổ, không gian nghệ thuật, điểm nhìn…
Lê Huy Bắc đã phân biệt truyện (story) và cốt truyện (plot) và đã đưa ra khái niệm: “Cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc” .
Trong Từ điển thuật ngữ văn học thì cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [tr.99], và “cốt truyện là phương tiện bộc lộ tính cách, nhờ cốt truyện mà nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt khác cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội” [tr.99]. Song “cơ sở chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung đột xã hội được khúc xạ qua các xung đột tính cách. Nhưng sẽ là sai lầm nếu đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện trong tác phẩm văn học, xung đột xã hội là cơ sở khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh trong khi đó cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn” [tr.100].
Cùng quan điểm đó, Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội 1998 cũng quan niệm: “Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật nó là “sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [ tr.13].
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS. Trần Đình Sử cho rằng: “Cốt truyện thường được hiểu là hệ thống các sự kiện chính, cơ bản dung để biểu hiện tính cách và phản ánh mâu thuẫn xung đột xã hội” [tr.132].
Lí luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục, Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam đồng chủ biên đã rút ra kết luận về cốt truyện: “Cốt truyện là hình thức sơ đẳng nhất của truyện. cốt truyện thực chất là cái lõi, diễn biến của truyện từ khi xảy ra đến khi kết thúc”. Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo của mỗi nhà văn. Dù đa dạng, mỗi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động, có hình thành phát triển và kết thúc gồm: thắt nút, phát triển hành động (các sự kiện, cao trào), mở nút. Cũng có cách nêu chi tiết hơn: trình bày, khai đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào), mở nút (kết thúc). Ngoài ra, người ta còn nêu ra các thành phần khác của cốt truyện như: tiền sử, hậu sử, mào đầu, vĩ thanh.
Trên đây là các cách hiểu, xác định khái niệm cốt truyện từ truyền thống đến hiện đại, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề phức tạp nhưng trên cơ sở những khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu trong luận văn này, chúng tôi xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch. Cốt truyện (plot) là toàn bộ những sự kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự (và văn bản kịch) mà người đọc có thể kể lại. Cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong bất kì một hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự lập tức chuyển sang dạng văn bản khác. Trong tác phẩm tự sự (và cả kịch), cốt truyện là cái khung để đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững. Về bản chất, cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm ngặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc.
- Phong Cầm tổng hợp -