Nhà văn Ernest Hemingway

Ernest Hemingway (21 tháng 7 năm 1899 - 2 tháng 7 năm 1961) được coi là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Được biết đến nhiều nhất qua các tiểu thuyết và truyện ngắn, ông cũng là một nhà báo và phóng viên chiến trường xuất sắc. Phong cách văn xuôi đặc trưng của Hemingway - đơn giản và thoải mái - đã ảnh hưởng đến một thế hệ nhà văn.

Thông tin nhanh: Ernest Hemingway​

  • Được biết đến : Nhà báo và thành viên của nhóm Thế hệ mất tích gồm các nhà văn đã đoạt giải Pulitzer và giải Nobel Văn học
  • Sinh : 21 tháng 7 năm 1899 tại Oak Park, Illinois
  • Cha mẹ : Grace Hall Hemingway và Clarence ("Ed") Edmonds Hemingway
  • Qua đời : ngày 2 tháng 7 năm 1961 tại Ketchum, Idaho
  • Giáo dục : Trường trung học Oak Park
  • Các tác phẩm đã xuất bản : Mặt Trời Cũng Lên, Vòng Tay Giã Từ, Cái Chết Trong Buổi Chiều, Chuông Cho Ai, Ông Già Và Biển Cả, Một Lễ Động
  • (Các) vợ / chồng : Hadley Richardson (m. 1921–1927), Pauline Pfeiffer (1927–1939), Martha Gellhorn (1940–1945), Mary Welsh (1946–1961)
  • Trẻ em : Với Hadley Richardson: John Hadley Nicanor Hemingway ("Jack" 1923–2000); với Pauline Pfeiffer: Patrick (sinh năm 1928), Gregory ("Gig" 1931–2001)

Enest Hemingway.jpg

Giai đoạn đầu đời​

Ernest Miller Hemingway sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899 tại Oak Park, Illinois, là con thứ hai của Grace Hall Hemingway và Clarence ("Ed") Edmonds Hemingway. Ed là một bác sĩ y khoa đa khoa và Grace là một ca sĩ opera sắp trở thành giáo viên dạy nhạc.

Cha mẹ của Hemingway được cho là đã có một sự sắp xếp hôn nhân khác thường, trong đó Grace, một nhà nữ quyền nhiệt thành, sẽ đồng ý kết hôn với Ed chỉ khi anh có thể đảm bảo với cô rằng cô sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc nhà hoặc nấu nướng. Ed đồng ý; Ngoài công việc hành nghề y tế bận rộn, ông còn điều hành việc gia đình, quản lý người hầu, và thậm chí nấu các bữa ăn khi cần.

Ernest Hemingway lớn lên với bốn chị em gái; người anh trai mà anh hằng mong mỏi đã không đến cho đến khi Ernest 15 tuổi. Ernest thời trẻ đã tận hưởng kỳ nghỉ gia đình tại một ngôi nhà nhỏ ở phía bắc Michigan, nơi anh nảy tình yêu với thiên nhiên và học săn bắn, câu cá với cha mình. Mẹ anh, người nhấn mạnh rằng tất cả các con của bà đều học chơi một nhạc cụ, đã truyền cho anh sự trân trọng nghệ thuật.

Ở trường trung học, Hemingway làm đồng biên tập cho tờ báo của trường và thi đấu cho các đội bóng đá và bơi lội. Thích những trận đấm bốc ngẫu hứng cùng bạn bè, Hemingway cũng chơi đàn cello trong dàn nhạc của trường. Ông tốt nghiệp trường trung học Oak Park năm 1917.

Giai đoạn Thế Chiến thứ nhất​

Được thuê bởi Kansas City Star vào năm 1917 với tư cách là một phóng viên đưa tin về vụ cảnh sát đánh đập, Hemingway - có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc văn phong của tờ báo - bắt đầu phát triển phong cách viết ngắn gọn, đơn giản đã trở thành thương hiệu của ông. Phong cách đó là một sự khác biệt đáng kể so với văn xuôi trang trí công phu thống trị văn học cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Sau sáu tháng ở thành phố Kansas, Hemingway khao khát được phiêu lưu. Không đủ điều kiện tham gia nghĩa vụ quân sự do thị lực kém, năm 1918, ông tình nguyện làm tài xế xe cứu thương cho Hội Chữ thập đỏ ở châu Âu. Vào tháng 7 năm đó, khi đang làm nhiệm vụ ở Ý, Hemingway bị thương nặng do một quả đạn cối phát nổ. Hai chân của anh bị đè lên bởi hơn 200 mảnh đạn pháo, một chấn thương gây đau đớn và suy nhược, phải phẫu thuật nhiều lần.

Là người Mỹ đầu tiên sống sót sau khi bị thương ở Ý trong Thế chiến thứ nhất, Hemingway đã được chính phủ Ý trao tặng huân chương.

Khi đang hồi phục vết thương tại một bệnh viện ở Milan, Hemingway đã gặp và yêu Agnes von Kurowsky, một y tá của Hội Chữ thập đỏ Mỹ . Anh và Agnes đã lên kế hoạch kết hôn khi đã kiếm đủ tiền.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào tháng 11 năm 1918, Hemingway trở về Hoa Kỳ để tìm việc làm, nhưng đám cưới đã không diễn ra. Hemingway nhận được một lá thư từ Agnes vào tháng 3 năm 1919, cắt đứt mối quan hệ. Bi thương, anh trở nên trầm cảm và hiếm khi ra khỏi nhà.

Trở thành nhà văn​

Hemingway đã dành một năm ở nhà cha mẹ mình, hồi phục sau những vết thương cả về thể chất lẫn tinh thần. Vào đầu năm 1920, khi hầu như đã bình phục và mong muốn được làm việc, Hemingway nhận một công việc ở Toronto để giúp một người phụ nữ chăm sóc đứa con trai tàn tật của mình. Ở đó, ông gặp biên tập viên của tờ Toronto Star Weekly , người đã thuê ông viết truyện.

Vào mùa thu năm đó, ông chuyển đến Chicago và trở thành nhà văn của The HTX Commonwealth , một tạp chí hàng tháng, trong khi vẫn làm việc cho Ngôi sao .

Hemingway, tuy nhiên, khao khát được viết tiểu thuyết. Ông bắt đầu gửi truyện ngắn cho các tạp chí, nhưng chúng liên tục bị từ chối. Tuy nhiên, ngay sau đó, Hemingway có lý do để hy vọng. Thông qua những người bạn chung, Hemingway gặp tiểu thuyết gia Sherwood Anderson, người rất ấn tượng với những truyện ngắn của Hemingway và khuyến khích anh theo đuổi sự nghiệp viết văn.

Hemingway cũng đã gặp người phụ nữ sẽ trở thành vợ đầu tiên của anh: Hadley Richardson. Một người gốc ở St. Louis, Richardson đã đến Chicago để thăm bạn bè sau cái chết của mẹ cô. Cô xoay sở để nuôi sống bản thân bằng một quỹ tín thác nhỏ do mẹ cô để lại. Cặp đôi kết hôn vào tháng 9 năm 1921.

Sherwood Anderson, vừa trở về từ một chuyến đi đến châu Âu, đã thúc giục cặp vợ chồng mới cưới chuyển đến Paris, nơi anh tin rằng tài năng của một nhà văn có thể phát triển. Ông cung cấp cho Hemingways những lá thư giới thiệu cho nhà thơ người Mỹ xa xứ Ezra Pound và nhà văn hiện đại Gertrude Stein . Họ ra khơi từ New York vào tháng 12 năm 1921.

Cuộc sống ở Paris​

Hemingway tìm thấy một căn hộ rẻ tiền trong một khu dành cho tầng lớp lao động ở Paris. Họ sống nhờ tài sản thừa kế của Hadley và thu nhập của Hemingway từ Tuần báo Ngôi sao Toronto , nơi thuê ông làm phóng viên nước ngoài. Hemingway cũng thuê một phòng khách sạn nhỏ để làm nơi làm việc.

Ở đó, với năng suất bùng nổ, Hemingway điền hết cuốn sổ này đến cuốn sổ khác với những câu chuyện, bài thơ và lời kể về những chuyến đi thời thơ ấu của ông đến Michigan.

Hemingway cuối cùng đã nhận được lời mời đến thẩm mỹ viện của Gertrude Stein, người mà sau này ông đã phát triển một tình bạn sâu sắc. Nhà của Stein ở Paris đã trở thành nơi gặp gỡ của nhiều nghệ sĩ và nhà văn của thời đại, Stein đóng vai trò cố vấn cho một số nhà văn nổi tiếng.

Stein thúc đẩy việc đơn giản hóa cả văn xuôi và thơ như một phản ứng dữ dội đối với phong cách viết trau chuốt được thấy trong những thập kỷ trước. Hemingway ghi nhớ những lời đề nghị của cô và sau đó ghi nhận Stein vì đã dạy cho anh những bài học quý giá ảnh hưởng đến phong cách viết của ông.

Hemingway và Stein thuộc nhóm các nhà văn Mỹ xa xứ ở Paris những năm 1920, những người được biết đến với cái tên "Thế hệ đã mất". Những nhà văn này đã trở nên vỡ mộng với các giá trị truyền thống của Mỹ sau Thế chiến thứ nhất; công việc của họ thường phản ánh cảm giác vô ích và tuyệt vọng của họ. Các nhà văn khác trong nhóm này bao gồm F. Scott Fitzgerald, Ezra Pound, TS Eliot, và John Dos Passos.

Vào tháng 12 năm 1922, Hemingway phải chịu đựng những gì có thể coi là cơn ác mộng tồi tệ nhất của một nhà văn. Vợ anh, đi bằng tàu hỏa để gặp anh trong một kỳ nghỉ, đã đánh mất một chiếc valise chứa một phần lớn tác phẩm gần đây của ông, bao gồm cả các bản sao bằng carbon. Các giấy tờ không thể được tìm thấy.

Bắt đầu được xuất bản​

Năm 1923, một số bài thơ và truyện của Hemingway đã được chấp nhận đăng trên hai tạp chí văn học Mỹ, Thơ và Tạp chí Nhỏ . Vào mùa hè năm đó, cuốn sách đầu tiên của Hemingway, "Ba câu chuyện và mười bài thơ," được xuất bản bởi một nhà xuất bản Paris thuộc sở hữu của Mỹ.

Trong một chuyến đi đến Tây Ban Nha vào mùa hè năm 1923, Hemingway đã chứng kiến trận đấu bò đầu tiên của mình. Ông ấy viết về đấu bò tót trên tờ Star , dường như lên án môn thể thao này và đồng thời lãng mạn hóa nó. Trong một chuyến du ngoạn khác đến Tây Ban Nha, Hemingway đã trình bày về “đường chạy của những chú bò tót” truyền thống tại Pamplona, trong đó những người đàn ông trẻ tuổi — tìm đến cái chết hoặc chí ít là bị thương — chạy qua thị trấn bị một đám đông những con bò tót giận dữ truy đuổi.

Hemingways trở về Toronto để sinh con trai của họ. John Hadley Hemingway (biệt danh "Bumby") sinh ngày 10 tháng 10 năm 1923. Họ trở lại Paris vào tháng 1 năm 1924, tại đây Hemingway tiếp tục thực hiện một tuyển tập truyện ngắn mới, sau đó được xuất bản trong cuốn sách "In Our Time".

Hemingway trở lại Tây Ban Nha để thực hiện cuốn tiểu thuyết sắp ra mắt của mình lấy bối cảnh ở Tây Ban Nha: "Mặt trời cũng mọc." Cuốn sách được xuất bản vào năm 1926, hầu hết được đánh giá tốt.

Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của Hemingway gặp nhiều xáo trộn. Ông bắt đầu ngoại tình vào năm 1925 với nhà báo người Mỹ Pauline Pfeiffer, người làm việc cho tạp chí Vogue Paris . Hemingways ly hôn vào tháng 1 năm 1927; Pfeiffer và Hemingway kết hôn vào tháng 5 năm đó. Hadley sau đó tái hôn và trở lại Chicago với Bumby vào năm 1934.

Quay lại Mỹ​

Năm 1928, Hemingway và người vợ thứ hai trở về Hoa Kỳ sinh sống. Tháng 6 năm 1928, Pauline sinh con trai Patrick tại thành phố Kansas. Con trai thứ hai, Gregory, sinh năm 1931. Hemingways thuê một ngôi nhà ở Key West, Florida, nơi Hemingway đã cho ra cuốn sách mới nhất của ông, "A Farewell to Arms" (Giã từ vũ khí), dựa trên những kinh nghiệm trong Thế chiến thứ nhất của ông.

Vào tháng 12 năm 1928, Hemingway nhận được tin sốc - cha của ông, chán nản vì các vấn đề sức khỏe và tài chính gia tăng, đã tự bắn chết mình. Hemingway, người từng có mối quan hệ căng thẳng với cha mẹ mình, đã hòa giải với mẹ sau khi cha anh tự tử và giúp đỡ bà về mặt tài chính.

Vào tháng 5 năm 1928, Tạp chí của Scribner đã xuất bản phần đầu tiên của nó "A Farewell to Arms." Nó đã được đón nhận; tuy nhiên, phần thứ hai và thứ ba, bị coi là tục tĩu và khiêu dâm, đã bị cấm trên các sạp báo ở Boston. Những lời chỉ trích như vậy chỉ nhằm thúc đẩy doanh số bán hàng khi toàn bộ cuốn sách được xuất bản vào tháng 9 năm 1929.

Cuộc nội chiến Tây Ban Nha​

Đầu những năm 1930 được chứng minh là thời gian làm việc hiệu quả (nếu không phải lúc nào cũng thành công) đối với Hemingway. Bị mê hoặc bởi đấu bò tót, anh đã đến Tây Ban Nha để nghiên cứu cho cuốn sách phi hư cấu, Death in the Afternoon (Chết vào lúc xế trưa). Nó được xuất bản vào năm 1932 với đánh giá chung là kém và theo sau là một số tuyển tập truyện ngắn kém thành công.

Từng là nhà thám hiểm, Hemingway du hành đến Châu Phi trong một chuyến đi săn bắn súng vào tháng 11 năm 1933. Mặc dù chuyến đi có phần thảm khốc — Hemingway đụng độ với bạn đồng hành của mình và sau đó bị bệnh kiết lỵ — điều này đã cung cấp cho anh ta nhiều tư liệu cho một truyện ngắn, "Tuyết trên đình Kilimanjaro,"cũng như cuốn sách phi hư cấu,"Green Hills of Africa" (Những ngọn đồi xanh châu Phi)"

Trong khi Hemingway đang đi săn và câu cá ở Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1936, thì Nội chiến Tây Ban Nha bắt đầu. Là người ủng hộ lực lượng trung thành (chống Phát xít), Hemingway đã quyên góp tiền cho xe cứu thương. Anh cũng đã ký hợp đồng với tư cách là một nhà báo để đưa tin về cuộc xung đột cho một nhóm các tờ báo của Mỹ và tham gia làm một bộ phim tài liệu. Khi ở Tây Ban Nha, Hemingway bắt đầu ngoại tình với Martha Gellhorn, một nhà báo và nhà tư liệu người Mỹ.

Quá mệt mỏi với những cách ngoại tình của chồng, Pauline đã mang theo các con trai và rời Key West vào tháng 12 năm 1939. Chỉ vài tháng sau khi cô ly hôn với Hemingway, anh kết hôn với Martha Gellhorn vào tháng 11 năm 1940.

Chiến tranh Thế giới II​

Hemingway và Gellhorn thuê một trang trại ở Cuba ngay bên ngoài thủ đô Havana, nơi cả hai có thể viết lách. Đi du lịch giữa Cuba và Key West, Hemingway đã viết một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của mình: "Chuông nguyện hồn ai".

Là một tiểu thuyết lấy bối cảnh Nội chiến Tây Ban Nha, cuốn sách được xuất bản vào tháng 10 năm 1940 và trở thành một cuốn sách bán chạy nhất. Mặc dù được xướng tên là người chiến thắng giải thưởng Pulitzer năm 1941, cuốn sách đã không giành chiến thắng vì hiệu trưởng của Đại học Columbia (nơi trao giải thưởng) đã phủ quyết quyết định này.

Khi danh tiếng của Martha với tư cách là một nhà báo, cô đã kiếm được các nhiệm vụ trên toàn cầu, khiến Hemingway bực bội vì sự vắng mặt dài ngày của cô. Sau khi Nhật Bản ném bom Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941, cả Hemingway và Gellhorn đều ký hợp đồng với tư cách phóng viên chiến trường.

Hemingway được phép lên một con tàu chở quân, từ đó ông có thể theo dõi cuộc xâm lược Normandy vào tháng 6 năm 1944.

Giải thưởng Pulitzer và Nobel​

Khi ở London trong chiến tranh, Hemingway bắt đầu ngoại tình với người phụ nữ sẽ trở thành vợ thứ tư của ông - nhà báo Mary Welsh. Gellhorn biết được chuyện và ly hôn với Hemingway vào năm 1945. Ông và người xứ Wales kết hôn năm 1946. Họ sống luân phiên giữa các nhà ở Cuba và Idaho.

Tháng 1 năm 1951, Hemingway bắt đầu viết một cuốn sách sẽ trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: "Ông già và biển cả." Là một cuốn sách bán chạy nhất, cuốn tiểu thuyết cũng đã giành cho Hemingway giải thưởng Pulitzer được ông chờ đợi từ lâu vào năm 1953.

Nhà Hemingways đi nhiều nơi nhưng cũng thường là nạn nhân của vận rủi. Họ đã gặp hai vụ tai nạn máy bay ở châu Phi trong một chuyến đi vào năm 1953. Hemingway bị thương nặng, chấn thương nội tạng và đầu cũng như bỏng. Một số tờ báo đưa tin sai rằng ông đã chết trong vụ tai nạn thứ hai.

Năm 1954, Hemingway được trao giải Nobel văn học hàng đầu trong sự nghiệp.

Bệnh tật và cái chết​

Vào tháng 1 năm 1959, Hemingways chuyển từ Cuba đến Ketchum, Idaho. Hemingway, năm ấy gần 60 tuổi, đã bị huyết áp cao vài năm do ảnh hưởng của nhiều năm uống rượu. Anh ấy cũng trở nên ủ rũ, chán nản và có vẻ sa sút về tinh thần.

Vào tháng 11 năm 1960, Hemingway được đưa vào Bệnh viện Mayo để điều trị các triệu chứng về thể chất và tinh thần. Anh ấy được điều trị bằng sốc điện vì chứng trầm cảm của mình và được cho về nhà sau hai tháng ở lại. Hemingway càng thêm chán nản khi nhận ra mình không thể viết được sau các đợt điều trị.

Sau ba lần tự sát, Hemingway được đưa đến Bệnh viện Mayo và được điều trị sốc hơn. Mặc dù vợ phản đối nhưng anh vẫn thuyết phục các bác sĩ rằng mình đủ sức khỏe để về nhà. Chỉ vài ngày sau khi được xuất viện, Hemingway đã tự bắn vào đầu mình tại nhà ở Ketchum vào sáng sớm ngày 2 tháng 7 năm 1961. Ông chết ngay lập tức.

Di sản​

Là một nhân vật lớn, Hemingway phát triển mạnh trong các cuộc phiêu lưu mạo hiểm, từ những cuộc đi săn và đấu bò đến báo chí thời chiến và các vấn đề ngoại tình, truyền đạt điều đó cho độc giả của mình bằng một định dạng staccato (Staccato là một hình thức diễn tấu trong âm nhạc. Trong ký hiệu âm nhạc hiện đại ngày nay, staccato biểu thị việc rút ngắn thời lượng phát ra âm thanh của nốt nhạc, một cách biểu thị khác là ghi theo sau nốt nhạc một hoặc nhiều dấu lặng) có thể nhận ra ngay lập tức. Hemingway là một trong những người nổi bật và có ảnh hưởng nhất trong "Thế hệ đã mất" của những nhà văn xa xứ sống ở Paris vào những năm 1920.

Được gọi với cái tên trìu mến là "Papa Hemingway", ông đã được trao cả Giải thưởng Pulitzer và Giải Nobel văn học, và một số cuốn sách của ông đã được dựng thành phim.

Nguồn​

  • Dearborn, Mary V. "Ernest Hemingway: A Biography." New York, Alfred A. Knopf, 2017.
  • Hemingway, Ernest. "Lễ hội có thể di chuyển: Phiên bản được khôi phục." New York: Simon và Schuster, 2014.
  • Henderson, Paul. "Con thuyền của Hemingway: Tất cả những gì anh ấy yêu trong cuộc sống, và đã mất, 1934–1961." New York, Alfred A. Knopf, 2011.
  • Hutchisson, James M. "Ernest Hemingway: Một cuộc sống mới." Công viên Đại học: Nhà xuất bản Đại học Bang Pennsylvania, 2016.
Xem thêm: Truyện ngắn Rặng đồi tựa đàn voi trắng và phân tích tầng nghĩa ẩn giấu.
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa Từ khóa
chuông nguyện hồn ai ernest hemingway giã từ vũ khí ông già và biển cả
1K
3
2
Trả lời
Ernest HEMINGWAY (1899-1961) là nhà văn Mỹ từng được giải văn học Nobel, nổi danh toàn cầu. Nhưng tôi chỉ biết đến tên ông khoảng đầu thập niên 1960, khi Sài Gòn rầm rộ cho ra mắt các bộ phim phỏng theo một số tác phẩm của ông như Le soleil se lève aussi, L'adieu aux armes, Pour ce qui sonne le glas, Le vieil homme et la mer... Nghĩ mình cũng dân sành điệu xi-nê chẳng thua ai nên hồi đó, mỗi lần nghe quảng cáo có phim mới phỏng theo truyện của Hemingway, thế nào tôi cũng phải đi coi bằng được, cho dù có phải đứng xếp hàng dài nghển cổ, thậm chi có lúc còn phải thúc cùi chỏ để giành giật cho được tấm vé. Sở dĩ tôi chịu khó bon chen đứng xếp hàng như vậy, không phải vì Hemingway mà vì phim nào có dính dáng tới tên ông tôi đều thấy hay cả, nhất là phim nào cũng được sự của đóng góp của các tài tử gạo cội quen thuộc thời bấy giờ. Tới khi biết ông được tặng giải văn học Nobel (1954), tôi có tìm đọc một vài tựa sách của ông. Đọc để ra điều ta đây có đọc, chứ thực tình tôi chẳng thấy có cuốn nào là hấp dẫn, so với những điều được thấy trên màn bạc. Theo chương trình Pháp từ nhỏ, sau trung học lên Đại Học lại tiếp tục theo ban cử nhân Pháp, tôi cứ đinh ninh văn chương Pháp là " năm bờ oăn ", là " số dzách " và chỉ có thơ của Lamartine, của Baudelaire, của Prévert, văn xuôi của V. Hugo, của Balzac, của A. Malraux, của J.P Sartre, của A. Camus, của Saint-Exupéry... mới đáng đọc. Bởi vậy khi thấy báo chí thời đó, hầu hết dành lời để ca ngợi tài ba của các nhà đạo diễn hay tài diễn xuất của các ngôi sao màn bạc như Ingrid Bergman, Ava Gardner, Gary Cooper, Tyrone Power... hơn là bàn về giá trị văn học nghệ thuật của Hemingway, tôi vội hùa theo, không mảy may thắc mắc. Đây quả là một lầm lẫn tai hại. Tai hại, bởi sự đồng tình dễ dãi ấy khiến tôi phải sống tù hãm trong vòng kim cô kiềm toả của lầu son văn chương Pháp không biết bao lâu. Nếu không gặp cơ trời run rủi khiến tôi phải tìm đọc " Paris est une fête " (1), liệu còn có ngày tôi được mở mắt để nhìn ra chân trời văn học thế giới bao la. Cuốn" Paris est une fête " đã cho tôi bài học là nên đọc lại Hemingway, đọc nhiều lần, vừa đọc vừa tham khảo, có thế mới mong hiểu ông được đúng hơn, được sâu hơn. Quả nhiên rằng, nhờ ngoan ngoãn biết nghe theo lời dạy dỗ chỉ bảo và chịu khó đọc, tôi mới phát hiện ra một điều lý thú, ít ra cũng đối với tôi. Đó là Hemingway sở dĩ thành danh, không chỉ nhờ vào thiên tài (avoir du génie), mà vì ông coi việc theo đuổi nghiệp văn là một thiên chức (une vocation), cũng như nhà tu đến với tôn giáo để nghe theo tiếng gọi của Đấng thiêng liêng mình muốn tôn thờ. Có khác chăng là nhà tu chọn con đường thoát tục và khổ hạnh để rao giảng chân lý cho đời theo tín ngưỡng ; còn nhà văn thiên chức, với ông, là phải chọn con đường nhập thế, phải dám sống lăn lộn trong cõi đời để quan sát, để tìm hiểu và nói lên những sự thật ở đời. Nhưng tại sao Hemingway không chỉ có là nhà văn thiên tài (écrivain de génie) mà còn là nhà văn thiên chức (écrivain de vocation)? Để trả lời, có lẽ chúng ta cần trở về với những năm đầu ở tuổi trưởng thành của Hemingway và cũng là giai đoạn ông chập chững bước vào nghiệp văn.

Vốn có khiếu viết văn lại được thày dạy cũng như bạn bè khuyến khích, Hemingway đã có ý theo đuổi nghiệp văn ngay từ thời trung học. Bởi thê ông đã không chọn ngành y để nối nghiệp cha ; mà ông cũng không chịu học tiếp trên đại học theo ý nguyện song thân, cho dù đã có lần ghi tên theo ngành báo chí. Có thể nói Hemingway là một trong số ít nhà văn Mỹ tạo nên sự nghiệp lẫy lừng mà không qua đào tạo đại học. Nhưng biết đâu, đó mới chính là yếu tố giúp ông tạo được vị thế đặc biệt trên văn đàn. Tiếp tục theo đại học có thể giúp ông thủ đắc một bút pháp kinh điển, thu thập được những kiến thức cần thiết cho sự nghiệp viết văn đấy. Nhưng những kiến thức khoa bảng ấy, dẫu hữu ích, cũng khiến ông khó tránh khỏi bị sa lầy vào bước chân của những người đi trước. Hơn thế, mớ kiến thức thuần kinh điển có thể còn là cái bẫy thúc đẩy ông sử dụng chúng làm thủ thuật sáng tác, nghĩa là dùng trí tưởng tượng để thế cho những trải nghiệm trong cuộc sông. Ông không cho rằng chỉ cần trưng ra tấm bằng của bất kỳ đại học nào như là bằng chứng đã có nhãn hiệu cầu tòa để rồi tha hồ trổ tài viết lách. Với ông, trái lại, theo đuổi nghiệp văn là phải biết dùng ngòi bút để nói lên được đời sống chân thật. Điều này có nghĩa là nhà văn phải phản ánh trung thực những gì do chính mình cảm nhận được về người thật, việc thật trong cuộc sống. Nói khác đi, nhà văn cần phải biết gây dựng cho mình một vốn sống để lấy nó làm chất liệu sáng tạo. Bởi vậy sau trung học, ông đã tính xin nhập ngũ như một số bạn học để được thỏa chí tang bồng và học hỏi thêm ở trường đời. Nhưng phần vì một bên mắt yếu, phần không được cha mẹ cho phép theo luật định, ông đành nhận làm việc cho tờ Kansas City Star để được sống tự lập. Làm báo chưa đày một năm, có tin Hồng Thập Tự quốc tế đang cần tuyển người lái xe tải thương, ông tình nguyện gia nhập và được gửi tới công tác vùng biên giới Alpes nơi đang diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân đội hai nước Ý và Áo. Tới Ý vừa tròn một tháng, ngày 8-7-1918, Hemingway đã bi thương nơi đầu gối do vô số mảnh vụn của một trái cối. Được đưa về điều trị tại một binh viện ở Milan, nới đây ông đã gặp mối tình đầu : đó là nữ y tá người Mỹ gốc Ba Lan, Agnès von Kurowski hơn ông bảy tuổi . Nhưng mối tình một chiều này không kéo dài quá thời gian ông dưỡng bịnh, bởi cảm tình người đẹp y tá dành cho ông chỉ là sự thiện cảm đối với một bịnh nhân trẻ trung vui tính. Tuy nhiên hình ảnh người đẹp vẫn đeo đuổi và Hemingway đã làm sống lại qua chân dung nhân vật y tá Catherine Baker trong cuốn L'Adieu aux Armes . Sau khi rời bệnh viện và trở về Mỹ, Hemingway không sống bao lâu với gia đình. Bằng tiền trợ cấp phế binh, ông tới cư ngụ tại Chicago để được thoát ly với nếp sống trưởng giả lề lối của cha mẹ. Nơi đây ông gặp Hadley Richardson hơn ông tám tuổi. Nhưng không vì vậy, hoặc do ảnh hưởng mối tình đầu với cô y tá , nên chỉ vài tháng sau Hadley đã trở thành người vợ đầu tiên của Hemingway. Thời gian gần hai năm sống tại Chicago cũng là thời gian Hemingway chập chững bước vào nghiệp văn. Đây mới chỉ là những bước đi dò dẫm với những sáng tác đầu tay, phần nhiều với nội dung lính tráng, bút pháp thuộc loại tầm tầm chạy theo sở thích thời thượng nên có bài được cho đăng, có bài không. Đang lúc ông tính cùng vợ trở lại Ý thăm một vài nơi ông từng công tác để gây lại nguồn cảm hứng, may mắn thay, ông được gặp nhà văn Sherwood Anderson. Nhận biết ra tài năng của Hemingway, Anderson khuyên ông nên tới sống tại Paris, là môi trường sinh hoạt thuận lợi cho bất cứ ai muốn theo đuổi nghiệp văn . Hơn thế, Anderson còn sẵn sàng viết thơ giới thiệu ông với Gertrude Stein, chủ nhân một phòng triển lãm tranh, và nhà thơ Erza Pound là hai khuôn mặt có uy tín trong giới văn nghệ sĩ Mý tại Paris thời bấy giờ. Gặp dịp tờ Toronto Star đang cần một phóng viên thường trực tại Âu châu, Hemingway đã không bỏ lỡ cơ hội. Thế là tháng 12 năm 1921, Hemingway cùng vợ đặt chân lên đất Pháp, tới cư ngụ tại số 74 rue Cardinal Lemoine thủ đô Paris, dấn thân vào một cuộc sống bần hàn thiếu thốn, nhưng lại là giai đoạn học hỏi đày hứng khởi và hữu ich cho sự phát triển tài năng của ông.

Trên đây là sơ lược giai đoạn trưởng thành của Hemingway khi ông khởi sự bước vào nghiệp văn. Giai đoạn không đầy năm năm, nhưng lại đánh dấu khúc ngoặc quan trọng cho sự nghiệp văn học của ông. Quan trọng bởi ba sự kiện hay biến cố đã giúp ông rút ra được một vài kinh nghiệm quí báu để vững vàng tiến bước trên hành trình văn học. Sự kiện cần nêu trước tiên, ây là khi ông nhận làm việc cho tờ Kansas City Star. Biến cố thứ hai là giai đoạn ông bị thương khi làm công tác tải thương tại Ý và phải nằm điều trị tại Milan. Thời gian phục vụ tuy ngắn ngủi, nhưng những điều được chứng kiến bằng tai nghe mắt thấy tại chiến trường đã giúp ông thay đổi được thế giới quan và cái nhìn về bản chất chiến tranh và về thân phận con người trong chiến tranh. Sau cùng là quyết đinh đến sống tại Paris như là lựa chọn môi trường sinh hoạt thuận lợi cho việc phát triển tài năng và theo đuổi sư nghiệp văn chương của ông.

Bài học đầu tiên ông rút tỉa được chỉ sau một thời gian ngắn làm việc cho tờ Kansas City Star, ấy là tuy cùng trong ngành nghề cầm bút nhưng có sự khác biệt giữa nhà văn và nhà báo. Làm báo, dù là phóng viên hay biên tập, ít nhiều đều phải lệ thuộc vào chủ trương đường lối của tờ báo nhằm phục vụ một thành phần độc giả nào đó. Để phát triển hoặc tồn tại, tờ báo không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin, mà còn phải biết chạy theo thị hiếu hay sở thích đối tượng độc giả của mình. Tin tức, thời sự không những cần phải nóng bỏng, sốt dẻo, mà phần tường trình cũng phải biết thêm mắm thêm muối để tăng phần hấp dẫn câu khách. Điều cần là phải biết cách len lỏi đi sâu vào lòng quần chúng và chịu khó mày mò gãi cho đúng chỗ ngứa. Có thế mới mong kiếm chác được thêm độc giả và, biết đâu, chẳng mấy chốc sẽ được tôn lên hàng thần tượng siêu sao. Đây mới chỉ nói đến những cơ sở báo chí thuộc loại thông tin đại chúng. Nói chi đến những cơ quan ngôn luận mang màu sắc quan điểm lập trường chính trị. Nhà báo khi đó không chỉ cần biết luồn lách, mà đôi khi còn phải chấp nhận uốn cong ngòi bút nữa. Nhưng Hemingway lại không muốn thứ hào quang ảo ảnh ấy, tùy thuộc vào sở thích thời thượng của đám độc giả nhất thời, sớm muộn rồi cũng tan biến như những đợt bọt biển trên bãi cát. Mà ông cũng không muốn tên tuổi được lưu danh hậu thế nhờ vào mấy câu thơ thuộc loại " ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ " kiểu Tố Hữu khóc rống lên để bày tỏ lòng thương tiếc trùm đỏ hiếu sát Staline. Sớm ý thức được cạm bẫy này, Hemingway đã tìm cách giữ mình, để không vì một vài lợi lộc giai đoạn, mà làm mất đi cái liêm khiết của một nhà văn. Ông biết rằng một khi đã lỡ chạy theo bả danh vọng rồi, nhà văn chân chính khó mà giữ được cái liêm khiết ấy, như sau này có lần ông phát biểu với tờ Kansas City Times tháng 11 năm 1940: " Cái liêm khiết của nhà văn, cũng như chữ trinh với cô gái hãy còn tân í. Một khi lỡ bị mất rồi, khó đường lấy lại được lắm cơ (sic)." (Nguyên tác :" L'intégrité d'un écrivain, c'est comme la virginité d'une fille. S'il la perd, il ne la retrouvera pas. ".- Gérard de Cortanze : "Hemingway à Cuba" Gallimard 2007 coll Folio 3663, p. 104) Câu ví von này thốt ra bởi một nhà văn âu mỹ, kể thấy cũng hơi tức cười. Nhưng chính vì vậy nó càng đáng nêu ra để cho thấy Hemingway chú trọng tới sự gìn giữ cái liêm khiết của nhà văn như thế nào.

Để bảo toàn liêm khiết, Hemingway cho rằng nhà văn có nghĩa vụ trước mắt là phải giữ gìn hoặc phục hồi sự trong sạch cho chữ nghĩa. Điều ông tối kỵ là dùng lời đao to búa lớn để làm oang oang cái vẫn còn rỗng tuếch, hoặc mỹ từ hoa hòe hoa sói để tìm cách tô son trát phấn cho những cái vốn đã cũ mèm. Chỉ cần đọc chương đầu " Un bon café, sur la place Saint-Michel " trong cuốn Paris est une fête (Editions Gallimard 2015 – collect. Folio 5454) cũng đủ cho thấy khi vừa đặt chân tới Paris, Hemingway đã tận tụy đánh vật với chuyện viết lách như thế nào. Ông thận trọng cân nhắc từng lời từng chữ, vậy mà bài viết của ông vẫn đôi khi bị trả lại khiến có lúc ông đành nhịn đói mò tới bảo tàng viện lấy chuyện ngắm tranh thay bữa ăn và làm nguồn cảm hứng (chương " La faim est une bonne discipline" Sđd). Không nản lòng ông vẫn hàng ngày tới cái quán cà phê vô danh quen thuộc ngồi từ sáng tới hai, ba giờ trưa cặm cụi viết, vừa viết vừa sửa. Sửa đi sửa lại, sửa để gọt rũa cho tới khi kiếm ra lời ưng ý mới thôi. Nhờ thái độ quyết tâm khắc kỷ đó, cũng như bậc chân tu lấy khổ hạnh làm nấc thang tới cõi niết bàn, ông đã tạo cho mình một văn phong bản lãnh mà không phải bất cứ ngòi bút phàm tục nào cũng có được. Cần phải đọc, đọc nhiều lần lời văn của Hemingway (như khuyến cáo của bà Danielle, một phụ nữ Paris) mới thấy được cái bản lãnh trong chữ nghĩa ông. Cái bản lãnh ấy, có được, chính vì ông biết cách phục hồi tiết hạnh cho chữ nghĩa đã bị không ít người đời biến thành những cô gái thanh lâu do thói quen sử dụng chúng một cách tùy tiện bừa bãi. Nói khác đi, cái bản lãnh chữ nghĩa nơi Hemingway là ở chỗ ông biết sử dụng chúng bằng cái nhìn của Kim Trọng đối với Thúy Kiều sau khi biết tấm thân nàng đã được tảy rửa bằng nước sông Tiền Đường. Và đó cũng là cái nhìn của Robert Jordan đối với Maria trong cuốn Pour qui sonne le glas – (Gallimard,1961 colll. Folio 455, chap. 31) : Sau khi được Maria nhất quyết thuật lại chuyện mình đã bị đám quân phát xít hành hạ làm nhục thân xác thô bạo như thê nào, Jordan đã âu yêm hôn Maria, gọi nàng là con nai tơ nhỏ bé (mon petit chevreau) và hứa sẽ cưới nàng sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Liên tưởng tới những hàng chữ xuất hiện nhan nhản hàng ngày trên mạng, nhất là cái tít của một vài mẩu tin thuộc loại " hot ", tôi nghĩ có lẽ chúng ta cũng muốn thấy có thêm những cây viết mới biết phục hồi cái tiết hạnh cho chữ nghĩa và quí trọng tính lương thiện của chữ nghĩa như phong cách xử sự mã thượng của Jordan với Maria trong câu chuyện.

Nhưng chữ nghĩa dẫu sao cũng chỉ là công cụ, là phương tiện truyền đạt. Điều cốt yếu là phải có cái gì đáng nói để nêu lên. " Nước lã không vã nên hồ ", ta thường nghe nói. Không phải chỉ với cây thớt bằng gỗ mun, con dao chế bằng thép tốt ( hay cái laptop loại xịn mới ra lò) là có thể chế biến ra món ăn ngon được. Cũng cần phải kiếm được loại thực phẩm hiếm quí chứ. Bởi vậy vừa xong chương trình trung học, Hemingway đã như con ngựa non háu đá, chỉ muốn va chạm với đời, lấy cọ sát với thực tế để có những bài học về kinh nghiệm sống. Chỉ những thứ đó mới là chất liệu đích thực làm nên văn chương có giá trị. Bởi thế ta mới thấy Hemingway sống năng động, sống xông xáo, không ngần ngại lao đầu vào những cuộc phiêu lưu mạo hiểm để tìm đến những chân trời mới. Văn chương ông, từ l'Adieu aux armes, qua Le soleil se lève aussi, Pour qui sonne le glas, tới Les neiges de Kalimanjiro hay Le vieil homme et la mer, mỗi cuốn một vẻ, đều mang nội dung phong phú đa dạng cũng vì lẽ đó.

Nhưng một tác phẩm nghệ thuật thành đạt không chỉ trông cậy có vào nội dung. Nó cũng cần được diễn tả bằng nghệ thuật nữa. Đó cũng là điều Hemingway ý thức được. Và đó cũng là lý do thúc đảy ông sốt sắng nghe theo lời khuyên của Anderson cùng vợ tới sống tại Paris. Tại thành phố được mệnh danh là kinh đô của văn hóa và nghệ thuật, các tài liệu cũng như một vài chương của Paris est une fête đều cho thấy, hàng ngày Hemingway đành để vợ con ở nhà , dành nguyên buổi sáng đến một quán cà phê vô danh tại Place Saint-Michel ngồi cặm cụi sửa đi viết lại để rèn luyện văn phong của mình. Thời giờ rảnh rỗi ông còn dành cho việc thăm viếng bảo tàng viện ngắm tranh, hoặc tìm đọc các tác phẩm văn học Pháp cũng như quốc tế để mở rộng tầm nhìn và tiếp thu những cái mới. Ta có thể đo lường tầm mức kiến thức văn hóa của Hemingway qua những câu trích dẫn hay lời ám chỉ rải rác đó đây trên các tác phẩm của ông. Nhưng nếu Hemingway có chịu khó bỏ công đọc nhiều, không phải để phô trương kiến thức. Mục đích chính ông theo đuổi là học hỏi để tiếp thu. Mà tiếp thu, với ông, không có nghĩa là cóp nhặt máy móc, lấy cái cũ của người làm cái mới cho ta để hù hè bà con lối xóm. Tiếp thu, với ông, còn phải là tìm hiểu tận tường cái hay cái lạ, tìm cách tiêu hóa nó, biến nó thành chất bổ dưỡng tăng cường nội lực để từ đó xây dựng cho mình một mỹ quan mới, một mỹ học mới. Tôi không ưa cái lối dùng lời khoa trương hoa mỹ. Mỗi lần gặp phải cái tựa hùng hổ của một vài bản tin trên trang mạng là tôi muốn nổi da gà luôn. Nhưng gặp trường hợp hãn hữu Hemingway, tôi không ngăn nổi ham muốn đặt cho kỹ thuật sáng tác của ông cái tước hiệu " mỹ học trường phái hiện thực Hemingway ". Chu choa. Nghe dễ sợ chưa ? Vậy chứ " mỹ học trường phái hiện thực Hemingway " là cái con khỉ mốc gì mà sao cho nổ lớn quá sá dzậy ? Đọc lên, nghe muốn tản thần luôn.

Tuy cũng thuộc dòng chủ nghĩa hiện thực, nhưng mỹ học Hemingway lại không cùng chung một nhánh với mỹ học truyền thống tây phương trong quan niệm tiếp cận và phản ánh hiện thực.

Trước hết là về mặt xây dựng nhân vật tiểu thuyết. Các nhân vật trong tiểu thuyết tây phương cuối thế kỷ 19 thường được tạo dựng thành những nhân vật mẫu mực điển hình. Ngay trang đầu hay phần đầu cuốn sách, nhân vật người hùng đều được giới thiệu hay mô tả hầu như trọn vẹn : từ vóc dáng tới tâm tính, từ trang phục tới điệu bộ nói năng. Thậm chí đôi khi còn có sự tham dự của tác giả qua những nhận xét, giải thích hay đánh giá nào đó. Và một khi xuất hiện rồi, chân dung các nhân vật ấy, từ đầu tới cuối truyện, nhất là về mặt tâm lý, hầu như không mấy thay đổi. Đó là trường hợp Monseigneur Myriel trong " Les misérables" của Victor Hugo, hay Vautrin trong " Le père Goriot " của Balzac. Đó cũng là trường hợp nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng. Nhưng Hemingway lại cho rằng các nhân vật mẫu mực, khuôn thức trong tiểu thuyết hiên thực truyền thống tây phương chỉ là những nhân vật được tạo dựng cho tiểu thuyết, chứ không phải là những con người sống thực ngoài đời. Một nhân vật trình bày theo kiểu Balzac hay Zola chỉ là cái hiện thực qua mô tả hay tường thuật của người đứng ngoài quan sát và kể lại. Sự mô tả có chi tiết đày đủ đến mấy, dẫu sao cũng chỉ là cái hiện thực của mặt nổi, của bề ngoài. Còn bề dày cuộc sống, chiều sâu tâm hồn con người, làm sao có thể nói hết ngay cho được. Chả thế mà các cụ nhà ta đã phải thốt rằng : " Sông sâu còn có kẻ mò. Lòng người nham hiểm biết dò nơi nao ? " Nếu chịu khó để ý và so sánh, ta sẽ thấy không có nhân vật nào, dù là chính hay phụ, trong truyện của Hemingway lại được mô tả đày đủ chi tiết ngay từ đầu như trong tiểu thuyết truyền thống tây phương cả. Thí dụ như Robert Jordan, nhân vật chính trong Pour qui sonne le glas . Mới xuất hiện ngay trang đầu, ta chỉ biết đó là một chàng trai đang nằm quan sát cây cầu mà y có nhiệm vụ đánh sập, với người dẫn đường bên cạnh là ông già Anselmo. Mãi tới khi hắn đứng dậy, ta mới biết đó là một chàng trai tóc vàng úa, mặt rám nắng, thân hình mảnh khảnh, bận chiếc sơ mi đã cũ và chiếc quần nông dân. Vậy thôi. Ngoài ra không hề một lời giới thiệu về thân thế, sự nghiệp, tâm tính của y. Sự khác biệt này là do Hemingway không muốn dựng lên những nhân vật như trong tiểu thuyết truyền thống tây phương. Trái lại, ông muốn dẫn đến ta những con người bằng xương bằng thịt với cử chỉ, lời ăn tiếng nói mà phải qua nhiều lần tiếp xúc ta mới rõ được chân tướng của họ. Điển hình là vai trò Pablo trong cuốn Pour qui sonne le glas. (Ernest Hemingway, Gallimard édit. 1961 coll. Folio 466).

Nguyên là một lái buôn ngựa, đứng về phe chính phủ cộng hòa dân cử chống lại nhóm quân phiệt phát xít nổi loạn trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939), Pablo cầm đầu một nhóm dân quân ẩn náu trong một hốc núi cheo leo hiểm trở thuộc vùng Ségovia phia bắc Madrid. Vừa mới gặp Jordan, hắn đã lên mặt ta đây dân xếp sòng bằng cử chỉ hống hách, lời lẽ trịch thượng. Nhưng khi được biết sứ mạng của Jordan là đánh sập cây cầu trong khu vực, hắn đã lén lút tìm cách phá hoại bộ phận cho nổ mìn vi e ngại hành động này sẽ làm lộ nơi trú ẩn, phương hại tới sự an toàn và công việc làm ăn của y (ch.1). Âm mưu bại lộ, trong đêm sinh hoạt của nhóm dân quân trong hang, hắn tỏ ra hèn nhát, không dám phản ứng trước hành động khiêu khích của Augustin, một du kích quân. Tuy nhiên theo lời thuật lại của Pilar, vợ hắn, khi mới gia nhập phe chính quyền, Pablo tỏ ra gan dạ, mưu lược nhưng tàn bạo, đặc biệt là trong vụ tổ chức và khích động quần chúng tàn sát các viên chức thuộc bộ phận hành chánh phát xít của thi trấn Avila hắn vừa chiếm được ( Sdd ch.10). Chót cùng, Pablo đã để lộ bộ mặt hiểm độc bất nhân của y khi rủ nhóm Elias cùng tham gia vào cuộc phá cầu. Sứ mạng thành công, về gần tới điểm hẹn, hắn đã không ngần ngại hạ sát Elias và đồng bọn để cướp ngựa cho người của mình có đủ điều kiện trốn chạy. Pablo gợi cho ta hình ảnh kẻ đi làm cách mạng thời cơ, do tham vọng cá nhân hơn là cho lý tưởng đấu tranh. Khi cần, họ không ngần ngại loại bỏ những kẻ đã từng chung lưng đấu cật với mình để củng cố địa vị quyền hành. Với những con người như vậy ta khó dùng lời mô tả ngay cho hết được. Chỉ khi đặt họ trong những trạng huống khác nhau, rồi qua phản ứng bằng lời lẽ, bằng hành động ta mới nắm được chân tướng con người.

Một thí dụ khác : Pilar vợ của Pablo. Với diện mạo xấu xí, vóc dáng tướng đàn ông, cử chỉ thô lỗ, ăn nói sỗ sàng, mới gặp, ta tưởng Pilar với Pablo đúng là cá mè một lứa. Phải qua nhiều lần tiếp xúc với ta mới thấy rằng đằng sau bộ mặt Chung Vô Diệm ấy, lại tỏa ra một ma lực quyến rũ như vẻ đẹp man dại thu hút của thời hồng hoang. Chả thế mà trước khi gặp Pablo, Pilar cũng đã có dăm ba mảnh tình trăng gió, kể cả với một tay cao thủ đấu bò thiện nghệ. Nhưng bên trong con người thô kệch, đằng sau điệu bộ hung hãn hầu như sống theo bản năng ấy, lại vẫn tồn tại nơi Pilar cái phẩm chất nguyên thủy của con người nhân chi sơ tính bản thiện. Vừa gặp Jordan trong bộ trang phục phong sương bạc màu, râu tóc còn lởm chởm nhưng khuôn mặt nom thanh tú sạch nước cản lại là khách phương xa tới, đúng là dân của lạ thứ thiệt, Pilar đinh bụng thế nào rồi cũng sẽ " cua ". Bởi vậy khi thấy Jordan và Maria quấn quýt nhau, Pilar không dằn nổi bực tức và thăng thắn bộc lộ ghen tuông với Maria. Nhưng sau khi nhận thấy mối tình giữa Maria và Jordan là thắm thiết, là chân thật và trước cảnh ngộ của Maria cũng như số mệnh đọc được trên bàn tay của Jordan, Pilar tỏ ra thông cảm và biết vị tha. Sau khi cùng tới gặp nhóm El Sordo để thương lượng hợp tác trở về, khi đi ngang cánh rừng, Pilar đã lặng lẽ tìm cách bỏ đi, để cho Maria và Jordan được tự do tình tự và cùng sống những giây phút thần tiên tuyệt vời nhất trên đời (chương 12 & 13). Với những nhân vật độc đáo đậm đặc cá tính thổ dân như vậy, ta khó dùng lời diễn tả để giới thiệu trọn vẹn hoặc tạc thành nhân vật điển hình cho được. Chỉ bằng cách đặt họ trong những trạng huống khác nhau, rồi qua phản ứng bằng lời lẽ, bằng hành động ta mới nắm được chân tướng từng người.

Quan niệm vê hiện thực và phương thức tạo dựng nhân vật như trên, Hemingway đã rút ra được từ bài học về quan sát hiện tượng chuyển động của tảng đá băng (iceberg). Được nhìn một tảng đá băng khổng lồ lặng lờ di chuyển trước mắt, ta không tránh khỏi cảm giác thán phục trước cảnh tượng huy hoàng tráng lệ đó. Nhưng, cũng như cõi vô thức nơi tích lũy các ẩn lực (pulsions) mới là nền tảng của sinh hoạt tâm lý theo phân tâm học của Freud, hình ảnh tảng đá băng có đập vào mắt ta biết mấy, mới chỉ là phần nổi và là phần nhỏ thôi. Cái giúp cho nó được chuyển động lại thuộc về phần chìm và chiếm tới ba phần tư thể tích của toàn khối. Cũng như con người, khuôn mặt cuộc sống cũng thế thôi. Những gì ta chỉ mới tai nghe mắt thấy, chắc gì đã phản ánh đúng hiện thực ? Đó là điều Jordan học hỏi được, thời gian sống tại khách sạn Gaylord ở Madrid, khi được cố vấn Nga tên Karkov, tiết lộ về hành tung bí ẩn của một vài cán bộ cộng sản Nga được gài vào tổ chức chính quyền dân cử Tây Ban Nha thời bấy giờ. (ch.18). Một vài tiết lộ của Karlov trong lúc chuyện trò nổi hứng bất tử đã giúp Jordan được sáng mắt và lấy làm " hài lòng vì được biết các sự kiện đã thực sự sảy ra thế nào, chứ không phải theo ta tưởng là chúng đã diễn ra như vậy. (Il était content de savoir comment les choses se passaient réellement, et non comment elles étaient censées se passer. Sdd. Tr. 254) Nhờ bài học này và với ý định sẽ trở thành nhà văn, Jordan tự nhủ sau khi hoàn thành sứ mạng " sẽ viết một cuốn sách và chỉ nói lên, không phải những gì được thấy nghĩa là chỉ mới nhìn bằng mắt nghe bằng tai ; mà còn phải là điều mình biết được nghĩa là sau khi đã kiểm chứng hư thực ". (Eh bien, il écrirait un livre quand ceci serait fini. Rien que sur ce qu'il connaissait vraiment et sur ce qu'il savait." ( Sdd. Tr. 273). Và Hemingway đã mượn lời tự nhủ của Jordan làm tôn chỉ viết văn cho mình. Bởi thế Heminway mới cho rằng phương cách trình bày hiện thực của tiểu thuyết truyền thống có phần nào giới hạn. Nó chỉ mô tả được hiện tượng tức là những gì được biểu hiện, được phô bày trước mắt ta mà thôi. Còn phần chìm của nó, cũng như phần chìm của một tảng đá băng, mắt ta không thấy được, phải biết vận dụng trí tưởng tượng hoặc óc suy luận để hình dung . Nghệ thuật diễn tả của Hemingway, do đó, không đơn giản như ta tưởng.

Ta không thể đọc các trang sách ông như đọc một bản bạch văn. Đôi khi ta phải biết đọc văn ông giữa hai hàng chữ như khi đọc một bài thơ tượng trưng, có thế mới thưởng thức được ý vị của những câu văn tưởng bình thường, nhưng lại hàm súc ý nghĩa. Thí dụ như hai đoạn văn ngắn sau đây đề cập tới cuộc đối diện giữa Barnes, nhân vật chính và Georgette trong cuốn Le soleil se lève aussi. Thuộc loại gái giang hồ thường lảng vảng trên đại lộ Opéra để kiếm mối, Georgette bữa đó được Jake Barnes mời cặp kè cốt để rong chơi cuối tuần. Thọat đầu, khi mới cùng Georgette ngồi giải khát tại một quán café terrasse, Barnes nhận xét : " Cô ta thoáng mỉm cười và tôi hiểu tại sao cô giữ ý không muốn cười. Khi khép miệng lại, cô ta khá xinh. " (" Elle ébaucha un sourire et je vis pourquoi elle se faisait un devoir de ne pas rire. Quand elle fermait la bouche, elle était plutôt jolie. " E. Hemingway, Le soleil se lève aussi, Gallimard 2004, coll. Folio 221, p.28 ) Sau đó, khi cùng Georgette ngồi ăn tại nhà hàng, Barnes để ý : " Chúng tôi gọi một chai rượu khác và Georgette buông ra một câu bông đùa. Cô ta cười, để lộ toàn bộ răng sâu, và chúng tôi tiếp tục cụng ly ". (" Nous primes une autre bouteille de vin et Georgette lâcha une plaisanterie. Elle sourit, montra toutes ses mauvaises dents, et nous trinquâmes. " Sđd, tr.29). Thay vi dài lời để mô tả nhân vật, Hemingway chỉ cần nêu lên một vài phản ứng nhỏ nhặt qua một vài câu văn ngắn gọn đó thôi, cũng đủ giúp ta hình dung được tác phong của Georgette cũng như hoàn cảnh sống khó khăn nghèo hèn ra sao đằng sau bộ đồ diêm dúa với phấn son lòe loẹt. Chúng ta đừng quên rắng câu truyện được lồng trong khung cảnh ngay sau Đệ nhất thế chiến, khi mà đời sống tại Pháp, nói chung, còn gặp khó khăn thiếu thốn về mặt vật chất. Nếu không để ý tới một vài chi tiết nhỏ nhặt này, chúng ta sẽ khó thưởng thức hết được ý vị văn chương đặc sắc của Hemingway. Cái ý vị đó không chỉ nằm trong một vài chi tiết nêu trên, mà còn cả trong cách sắp câu nữa. Ta hãy đọc lại hai câu ở trích đoạn hai : " Nous primes une autre bouteille de vin et Georgette lâcha une plaisanterie. Elle sourit, montra toutes ses mauvaises dents, et nous trinquâmes. " Nếu là tôi, tôi sẽ viết như sau vì cho hợp lý hơn : " Nous primes une autre bouteille de vin. Georgette lâcha une plaisanterie et sourit. Elle montra toutes ses mauvaises dents, et nous trinquâmes ". Bởi vì, theo tôi nghĩ, động tác pha trò và động tác cười luôn luôn đi đôi với nhau theo phản xạ thông thường, như khi ta bực bội trước tiếng cười khoái trá của ai đó vừa mới chọc quê ta: Cười gì, cười hở mười cái răng ấy à ! Vậy mà Hemingway lại tách rời hai động tác này ra, và đặt động tác cười ở câu tiếp để liên hệ nó với động tác hở răng và cụng ly (trinquâmes). Chi tiết nhỏ nhặt này, tưởng chẳng có gì quan trọng nếu ta đọc phớt qua cốt để mua vui giải trí. Nhưng khi ta biết Le soleil se lève aussi không thuần thuộc loại truyện kể, và mục đích của Hemingway khi viết tác phẩm này là để nói về " thế hệ lãng phí " hay" thế hệ lạc hướng đời " (" génération perdue ", chữ của Gertrude Stein), tức là thế hệ trẻ sau Đệ nhất thế chiến bị mất niềm tin vào mọi lý tưởng đấu tranh và chỉ muốn đi tìm quên lãng trong hơi men và các mục vui chơi theo kiểu yêu cuồng sống vội. Có nắm được ý nghĩa nội dung cuốn sách ta mới thưởng thức được ý vị văn chương của Hemingway qua cách sắp xêp đặt câu của ông. Trong trích đoạn đầu, Georgette còn dè dặt vì chưa biết cái mối mình vừa bắt được thuộc loại nào. Tới khi được Barnes mời đi ăn và thấy chai rượu gọi thêm được mang ra, Georgette yên chí gặp được khách sộp, nên buông ra một câu bông đùa. Sau câu buông đùa, Georgette bắt đầu quên giữ ý, mỗi lúc thêm vui vẻ cười đùa, để lộ toàn bộ răng sâu. Về phần Barnes, trở thành liệt dương do trúng đạn nơi sống lưng, nếu có mời Georgette đi chơi không phải vì cô ta là gái điếm, mà muốn có người bàu bạn để bớt cô đơn, và lấy việc quan sát điệu bộ cử chỉ của Georgette làm niềm khuây khỏa. Bằng cách sắp xếp các câu văn như trên, dụng ý của Hemingway muốn nói lên cuộc sống vui chơi phù phiếm của " thế hệ lãng phí " hay "thế hệ lạc hướng đời " . Ở ngoài nhìn vào, thấy hai người vui vẻ cụng ly với nhau, ai mà chẳng cho là đôi tình nhân tâm đầu ý hợp chia sẻ những giây phút hạnh phúc bên nhau. Họ đâu biết rằng bên trong lại tâm hồn mỗi người một ngả, không thể cùng nhau hòa điệu. Cái tâm trạng vẫn quanh quẩn mãi nơi Barnes, ngay cả khi được cùng người yêu là Brett trao đổi nụ hôn thắm thiết. Nhưng sự quấn quít này, vẫn để lại nơi hai người cảm xúc đắng chát của một cái gì còn giang dở, của một cái gì còn chưa toại nguyện qua mẩu đối thoại ngắn ngủi giữa Brett và Barnes : " Jake ôi, Brett nói, lẽ ra chúng ta đã có thể được hạnh phúc bên nhau biết mấy ! ... Ừ, phải đấy ! (Jake) nói. Thôi cứ nghĩ như thế là tốt rồi " (Oh, Jake, dit Brett, nous aurions pu être si heureux ensemble !... Eh oui ! dis-je. C'est toujours agréable à penser ". (Sdd. Tr. 276) Cái dư vị đắng chát ấy, Hemingway lại dùng làm lời kết cho câu chuyện như muốn gợi ý ta về cái tâm trạng hoang mang của điều mà Certrude Stein gọi là " thế hệ lãng phí ". Do không tìm ra được lẽ sống nên lớp người này đành chôn vùi tuổi trẻ trong men rượu, trong những điệu vũ cuồng loạn hay những cuộc vui chơi phù phiếm ảo ảnh để tìm quên, tìm quên, tìm quên vô vọng, nhưng vẫn miệt mài tìm quên... Bởi vì, dẫu sao, ngày mai trời lại vẫn sáng. Đoạn kết này liệu có gợi cho ta điều gì? Phải chăng chứng liệt dương của Barnes còn là biểu tượng cho sự bất lực của một thế trẻ đi tìm cho mình một lẽ sống, và cái vị chua cay còn đọng lại trên môi sau nụ hôn nồng nàn cũng là biểu tượng cho sự bất lực của một thế hệ trẻ trong nỗ lực đi tìm lối thoát bất kể mọi hình thức vui chơi giải trí. Nếu quả đúng vậy, tôi nghĩ Hemingway hẳn phải có nuôi sẵn ý đồ từ trước, chứ chẳng lẽ cứ hạ bút khơi khơi viết, rồi sau đó bốc thăm trúng đại cái tựa The sun also rises hay Le soleil se lève aussi dể đặt tên cho cuốn sách.

Trên đây là một vài nét chủ yếu về điều mà tôi gọi là " mỹ học trường phái hiện thực Hemingway ". Ta có thể tóm lược mấy nét chủ yếu này vào hai điểm sau. Trước hết là phục hồi sự trong sạch và tính lương thiện cho chữ nghĩa. Do quan tâm tới điều này, Hemingway mới thường có những câu văn sắc gọn mà mỗi từ sử dụng đều được chọn lựa tinh sảo để phản ánh trung thực điều nhà văn muốn nói lên. Thứ đến là quan niệm về khảo sát và mô tả hiện thực. Theo Hemingway, hiện thực không phải chỉ là những gì ta nhận biết được bằng giác quan mà thôi. Đó mới chỉ là bề mặt, những biểu hiện của đời sống hàng ngày. Còn bề sâu nơi con người, của cuộc sống lại như phần còn chìm sâu dưới đáy đại dương của tảng đá băng, ta phải vận dụng trí tưởng tượng, óc xét đoán mới hình dung được trọn vẹn. Hai điểm mấu chốt này, chính là cây chìa khóa mở động đào, giup ta biết cách rẽ mây để được soi tỏ lối vào thâm cung tư tưởng Hemingway. Có thế, đọc Hemingway, ta mới thấy rằng sách của ông không chỉ có là những truyện kể phiêu lưu mạo hiểm, tình tiết éo le để đọc trong tinh thần mua vui giải trí, hay để cho các nhà đạo diễn tài ba Holywood mượn làm sườn để dàn dựng lên những bộ phim tuyệt tác. Trái lại, bên trong những tình huống éo le bi đát của các truyện kể, đằng sau mặt nổi của những hình ảnh lôi cuốn hấp dẫn trên màn bạc, bề sâu mỗi cuốn sách của ông còn là một thông điệp ý nghĩa phản ánh cái nhìn nhân bản sâu sắc của ông về con người, về xã hội loài người và về thân phận con người trong các cơn lốc lịch sử. Đó là điều chúng tôi mong sẽ nói lên được phần nào trong phần kế tiếp.

Nguyễn Bảo Hưng
 
  • Like
Reactions: Vanhoctre

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.