Được sáng tác năm 1981 và mãi đến năm 1984 mới được ra mắt thế nhưng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ vẫn gây nên những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ trên sân khấu kịch Việt Nam đương thời. Bởi lẽ, tác phẩm không chỉ mang đến thông điệp về việc hãy sống là chính mình mà còn cổ vũ nồng nhiệt lối sống hòa hợp trọn vẹn giữa thể xác và tinh thần trong mỗi con người chúng ta.
Ôn tập kiến thức cơ bản tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ
Câu 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giả Lưu Quang Vũ
Trả lời
- Năm sinh: 1948;
- Mất năm: 1988;
- Quê quán: xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ;
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1954, gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội.
+ Năm 1965 đến 1970, ông nhập ngũ và gia nhập Quân chủng phòng không – không quân.
+ Năm 1970 – 1978, ông xuất ngũ là làm nhiều nghề để kiếm sống: làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp phích,...
+ Năm 1978 – 1988, ông làm biên tập viên “Tạp chí sân khấu”;
+ Lưu Quang Vũ là hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, và cũng là nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại;
+ Các tác phẩm chính: kịch, thơ và tiểu luận, với các tác phẩm như Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Hương cây, Tôi và chúng ta, Sống mãi tuổi 17, Nàng Xita, Ngọc Hân công chúa,...
+ Kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện nhiều cách tân độc đáo; quan tâm thể hiện xung đột trong cách sống và quan niệm sống, bày tỏ khát vọng hoàn thiện nhân cách con người;
+ Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ;
+ Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu năm 2000.
Câu 2: Hoàn cảnh ra đời của “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Trả lời
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, là một trong số những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước;
- Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc;
- Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
- Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc;
- Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
Câu 3. Ý nghĩa nhan đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Trả lời
Nhan đề tác phẩm đã khẳng định ý nghĩa sâu sắc về vấn đề: “Không thể sống trong cơ thể, thể xác của người không phải mình. Một tâm hồn cao quý không thể sống với thân xác của một kẻ xấu xa, tục tĩu”. Qua đây, tác giả muốn gửi gắm đến mọi người một thông điệp là hãy sống là chính mình.
Câu 4. Tóm tắt “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Trả lời
Hồn Trương Ba da hàng thịt được sáng tác năm 1981 và ra mắt vào năm 1984. Đoạn trích là cuộc đối thoại giữa hồn và xác, phản ánh mâu thuẫn giữa việc được sống với việc sống là chính mình của nhân vật Trương Ba. Trương Ba vốn là một người làm vườn giỏi, lại còn tốt bụng, yêu thương vợ con nhưng sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu trên thiên đình đã khiến cho Trương Ba phải chết đột ngột. Để sửa sai, hai vị quan ấy đã cho hồn của Trương Ba được nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết. Cũng từ đây, tình huống truyện được đẩy lên cao trào khi hồn và xác có những mâu thuẫn, không thể hòa hợp. Hồn Trương Ba thì luôn cho rằng mình có một đời sống riêng trong sạch, thẳng thắn, còn thân xác của anh hàng thịt thì lại vũ phu, thô kệch. Khi hồn Trương Ba đối thoại với thân xác của anh hàng thịt thì bị rơi vào hoàn cảnh đuối lí, hồn Trương Ba cảm thấy thật xấu hổ và ti tiện cho những hành động "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cố nghẹn lại" khi đứng cạnh vợ anh hàng thịt trong thân xác là của người chồng. Hơn thế nữa, hồn Trương Ba không chấp nhận việc thân xác ấy đã tát đứa con trai "tóe máu mồm máu mũi". Trương Ba còn gặp rất nhiều phiền toái khi nhập vào xác anh hàng thịt: lí trưởng sách nhiễu, vợ anh hàng thịt đòi chồng và đến cả gia đình của Trương Ba cũng không thừa nhận ông. Cuối cùng, Trương Ba đã chọn cái chết, không phải sống nhờ trong thân xác ai cả, không muốn phải sống khi không được là chính mình. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một ý nghĩa sâu xa. Đó là con người phải luôn sống là chính mình, không ngừng hoàn thiện thể xác và tâm hồn, đấu tranh với cái ác để giữ được đúng bản chất và lương tâm trong sạch của mỗi cá nhân.
Câu 5. Viết bài văn ngắn trình bày của cảm nhận của bản thân về “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Đoạn văn mẫu
Được sáng tác năm 1981 và mãi đến năm 1984 mới được ra mắt thế nhưng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ vẫn gây nên những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ trên sân khấu kịch Việt Nam đương thời. Bởi lẽ, tác phẩm không chỉ mang đến thông điệp về việc hãy sống là chính mình mà còn cổ vũ nồng nhiệt lối sống hòa hợp trọn vẹn giữa thể xác và tinh thần trong mỗi con người chúng ta. là một loại hình nghệ thuật sân khấu phát triển mạnh mẽ ở nước ta từ thế kỉ XX. Đã có rất nhiều nhà soạn kịch và nhiều vở kịch thành công được ra đời vào thời kì này. Và cái tên Lưu Quang Vũ đã không còn xa lạ đối với ai yêu kịch, vở kịch "Hồn Trương Ba da hàng thịt" lại càng không thể là một cái tên mới.
Là một nhà soạn kịch, nhà thơ hiện đại Việt Nam, các tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn đáng kể trong lòng khán giả. Gần 50 vở kịch của ông luôn được khán giả ủng hộ bởi tính chân thực và nhân văn của nó. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt được lấy từ cốt truyện dân gian. Nhưng không vì thế mà nó trở nên nhàm chán. Cái tài của tác giả đó chính là ông đã sáng tạo ra tình huống trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò Trương Ba khi phải sống trong xác anh hàng thịt. Và cuối cùng đi đến một cái kết đầy tính nhân văn: Trương Ba được trở về với con người thật của mình.
Tác phẩm được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nhằm giải phóng sức lao động, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong đó có lực lượng cầm bút. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khai thác mạnh. Những vấn đề nóng bỏng, chống tiêu cực đã trở thành cảm hứng cho nhiều nhà văn. Và Lưu Quang Vũ cũng không ngoại lệ. Với mục đích phê phán những tiêu cực lúc bấy giờ, ông đã viết vở kịch này. Những tiêu cực ấy được thể hiện rất rõ qua những xung đột trong đoạn trích. Theo ông, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ muốn hưởng thụ trở thành phàm phu thô thiển. Ai cũng biết tâm hồn là quí, đời sống tinh thần là trọng nhưng không quan tâm đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn thì chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm. Tình trạng con người phải sống giả, không dám được như bản thân đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi. Nếu sống vay mượn chắp vá, không hài hòa giữa tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của con người thực sự có hạnh phúc có giá trị khi được sống là chính mình. Đó là tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt đến người đọc, người nghe, người xem.
Ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự khập khiễng, mâu thuẫn. "Hồn" là phần tinh thần, là nội dung bên trong, là phần lí trí, tình cảm con người. Ở đây hồn Trương Ba là một người có lối sống thanh cao, nhân hậu, luôn đấu tranh với hoàn cảnh để được trở về với cuộc sống nguyên vẹn trong sạch thẳng thắn. "Xác" là phần vật chất, là hình thức bên ngoài. Trong vở kịch, xác anh Đồ tể mà hồn Trương Ba buộc phải trú ngụ. Từ nhan đề, tác giả đã gợi ra được sự vênh lệch, khấp khểnh giữa bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, một mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa vật chất - tinh thần, lí trí - bản năng, con người - hoàn cảnh, thanh cao - phàm tục.
Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, hồn Trương Ba đã bày tỏ sự chán ghét với cái xác mình nương nhờ, khinh bỉ hoàn cảnh mình đang sinh sống, khát khao sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Nhưng đối lập với hồn, xác bị ảnh hưởng bởi những dung tục tầm thường, đại diện cho kiểu người vừa chú trọng vật chất, bản năng, vừa là kiểu nhân vật đại diện cho nhiều người trong xã hội, quan tâm đến lợi ích của nhiều người đòi hỏi sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Bi kịch của hồn là nhận ra một con người cần phải hài hòa cả về vật chất, tinh thần, nhận ra mình đã bị tha hóa. Tiếp theo trong các cuộc đối thoại với người thân, hồn bị người thân xa cách, nghi ngờ. Triết lý của vở kịch được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích. Trương Ba bày tỏ khao khát được sống với chính mình, không nhờ vả, không giả dối, ông quyết định tìm đến cái chết chứ không chấp nhận nhập vào xác cu Tị. Kết của vở kịch có ý nghĩa triết lý sâu sắc, đó là sự gieo mầm cho những gì nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, là sự sống trong tâm hồn mỗi người. Trương Ba chính là tấm gương về lòng nhân hậu, thanh cao.
Là một nhà soạn kịch, nhà thơ hiện đại Việt Nam, các tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn đáng kể trong lòng khán giả. Gần 50 vở kịch của ông luôn được khán giả ủng hộ bởi tính chân thực và nhân văn của nó. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt được lấy từ cốt truyện dân gian. Nhưng không vì thế mà nó trở nên nhàm chán. Cái tài của tác giả đó chính là ông đã sáng tạo ra tình huống trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò Trương Ba khi phải sống trong xác anh hàng thịt. Và cuối cùng đi đến một cái kết đầy tính nhân văn: Trương Ba được trở về với con người thật của mình.
Tác phẩm được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nhằm giải phóng sức lao động, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong đó có lực lượng cầm bút. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khai thác mạnh. Những vấn đề nóng bỏng, chống tiêu cực đã trở thành cảm hứng cho nhiều nhà văn. Và Lưu Quang Vũ cũng không ngoại lệ. Với mục đích phê phán những tiêu cực lúc bấy giờ, ông đã viết vở kịch này. Những tiêu cực ấy được thể hiện rất rõ qua những xung đột trong đoạn trích. Theo ông, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ muốn hưởng thụ trở thành phàm phu thô thiển. Ai cũng biết tâm hồn là quí, đời sống tinh thần là trọng nhưng không quan tâm đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn thì chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm. Tình trạng con người phải sống giả, không dám được như bản thân đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi. Nếu sống vay mượn chắp vá, không hài hòa giữa tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của con người thực sự có hạnh phúc có giá trị khi được sống là chính mình. Đó là tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt đến người đọc, người nghe, người xem.
Ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự khập khiễng, mâu thuẫn. "Hồn" là phần tinh thần, là nội dung bên trong, là phần lí trí, tình cảm con người. Ở đây hồn Trương Ba là một người có lối sống thanh cao, nhân hậu, luôn đấu tranh với hoàn cảnh để được trở về với cuộc sống nguyên vẹn trong sạch thẳng thắn. "Xác" là phần vật chất, là hình thức bên ngoài. Trong vở kịch, xác anh Đồ tể mà hồn Trương Ba buộc phải trú ngụ. Từ nhan đề, tác giả đã gợi ra được sự vênh lệch, khấp khểnh giữa bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, một mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa vật chất - tinh thần, lí trí - bản năng, con người - hoàn cảnh, thanh cao - phàm tục.
Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, hồn Trương Ba đã bày tỏ sự chán ghét với cái xác mình nương nhờ, khinh bỉ hoàn cảnh mình đang sinh sống, khát khao sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Nhưng đối lập với hồn, xác bị ảnh hưởng bởi những dung tục tầm thường, đại diện cho kiểu người vừa chú trọng vật chất, bản năng, vừa là kiểu nhân vật đại diện cho nhiều người trong xã hội, quan tâm đến lợi ích của nhiều người đòi hỏi sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Bi kịch của hồn là nhận ra một con người cần phải hài hòa cả về vật chất, tinh thần, nhận ra mình đã bị tha hóa. Tiếp theo trong các cuộc đối thoại với người thân, hồn bị người thân xa cách, nghi ngờ. Triết lý của vở kịch được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích. Trương Ba bày tỏ khao khát được sống với chính mình, không nhờ vả, không giả dối, ông quyết định tìm đến cái chết chứ không chấp nhận nhập vào xác cu Tị. Kết của vở kịch có ý nghĩa triết lý sâu sắc, đó là sự gieo mầm cho những gì nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, là sự sống trong tâm hồn mỗi người. Trương Ba chính là tấm gương về lòng nhân hậu, thanh cao.
Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY