Baivanhay  Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Lưu biệt khi xuất dương ra đời ở hoàn cảnh chính trị đất nước đen tối, các cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp hầu như tan rã, nhân dân khổ cực lầm than do chế độ thống trị của thực dân Pháp. Lúc này, Phan Bội Châu đã quyết định lên đường sang Nhật Bản để tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Ông được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho văn chương trữ tình chính trị. "Lưu biệt khi xuất dương" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Cùng tới với bài Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu để hiểu hơn về quan niệm làm trai của ông.
Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu.png

DÀN Ý PHÂN TÍCH LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG​

1. Mở bài​

– Phan Bội Châu (1867-1940) quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên. Ông sáng lập ra Hội Duy Tân (1904). Năm 1905, bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phụ hội. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đưa về Hà Nội với cái án tử hình. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, chúng đưa ông về giam lỏng ở Huế.
– Là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20 – Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục đầy nhiệt huyết.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1905, trong lúc chia tay đồng chí, bạn bè, trước lúc bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du.
– Bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, là nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân.

2. Thân bài​

2.1. Hai câu đề​

Kẻ nam nhi phải mong có điều lạ, nghĩa là không thể sống tầm thường mà phải làm nên sự nghiệp lớn. Lưu lại tiếng thơm muôn đời. Con người ấy sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ thiên nhiên, há để càn khôn tự chuyển dời?.

2.2. Hai câu thực​

Tác giả tự ý thức về cái Tôi (ngã: tôi, tờ). Rất tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời (một trăm năm) và trong xã hội, lịch sử (ngàn năm sau).

Tác giả hỏi: Chẳng lẽ ngàn năm sau, lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Nhằm khẳng định một ý tường vĩ đại mà như người đồng hương của Phan Bội Châu trước đó nửa thế kỉ đã nhiều lần rồi:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phái có danh gì với núi sông.

(Nguyễn Công Trứ).

Quan niệm về công danh, về chí nam nhi của Phan Bội Châu mới mẻ, tiến bộ, hướng về Tổ quốc và nhân dân, như ông đã viết: Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua — tôi: “Dân là dân nước, nước là nước dân”.

2.3. Hai câu luận​

Nêu lên một quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc và lịch sử dân tộc. Non sông đã chết, một cách nói rất hay, cảm động về nỗi đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị thực dân Pháp thông trị. Trong Hải ngoại huyết thư, tác giả viết: hồn nước bơ vơ. Kẻ nam nhi, kẻ sĩ lập công danh trước hết bằng con đường học hành và thi cử. Một ý thơ phủ định về cách học cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền (đạo nho)… cách học ấy rất lạc hậu, vô nghĩa, càng học càng ngu, càng u mê. Đây là hai câu có tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, cho thấy Phan Bội Châu là một chí sĩ tiên phong:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.

2.4. Hai câu kết​

Hình tượng thơ kì vĩ lên một chí lớn mang tầm vũ trụ. Không phải gió nhẹ mà là trường phong. Không phái quanh quẩn chốn quan trường hoặc nơi trường thi chật hẹp, mà là di ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lèn với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất của Phan Bội Châu biểu lộ một bầu nhiệt huyết:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

3. Kết luận​

Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán. Giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.

Thể hiện một chí lớn phi thường: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Không phải là khẩu khí mà sự thật lịch sử đã xác nhận Phan Bội Châu đã sống và hành động như thơ ông đã viết ra.

BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG HAY NHẤT​

“Con người viết văn, con người làm thơ trong Phan Bội Châu nhất trí với con người chính trị. Ngòi bút Phan Bội Châu sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, lí tưởng anh hùng”. Đó là lời nhận định của một nhà phê bình văn học khi nói về sự nghiệp văn học cũng như phong cách của nhà văn Phan Bội Châu. Những bài ca tuyên truyền sắc bén mang đậm lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng có thể xem là cảm hứng chủ đạo trong thơ của ông. Một trong số đó không thể không kể đến tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” của ông.

Chúng ta có thể thấy Phan Bội Châu luôn được ca ngợi cũng như biết đến là một người con yêu nước, văn thơ của ông ngập tràn hơi hướng về quê hương, đất nước, một tâm hồn thi sĩ luôn hướng về những điều lớn lao, tốt đẹp cho đất nước. Ông hiểu sâu sắc và càng yêu thương nhân dân, đất nước để chuyển tải, đưa chúng vào trong lời văn thơ của mình sâu sắc vô cùng bởi Phan Bội Châu – một nhà lãnh đạo Cách Mạng với nhiều năm dài bôn ba, tổ chức nhiều phong trào yêu nước .

Phan Bội Châu được biết đến là một nhà Cách mạng lớn ở đầu thế kỉ XX. Khi ông lên đường sang Nhật Bản vào năm 1905 cũng là thời điểm ông sáng tác bài thơ lưu biệt khi xuất dương. Vốn dĩ xuất thân từ một người yêu nước, nhà Cách mạng do đó mà hơi hướng của một người chí sĩ cách mạng hùng hồn, rực lửa đứng lên tìm đường, bảo vệ nước nhà toát lên ở từng lời văn, câu từ. Ông đặt “chí làm trai” làm chủ đề, sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ. Đối với chủ đề này không còn quá xa lạ nữa, người ta có thể thấy nó trong văn học dân gian như là: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, hay trong văn học trung đại nó được Nguyễn Công Trứ thể hiện rõ nét trong bài “Chí làm trai”: “Chí làm trai Nam Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”.

Tuy cùng một chất liệu để khai thác nhưng Chí làm trai trong Phan Bội Châu cũng vô cùng độc đáo, khác biệt theo một cách mới mẻ:

“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”


Hai câu thơ mở đầu vô cùng hào hùng, dõng dạc không gì lay chuyển được khi nói về chí làm trai. Đối với Phan Bội Châu làm trai là không tầm thường, phải “lạ ở trên đời”. điều này nghĩa là nam nhi sinh ra phải có chí, có lý tưởng sống, mục đích cao đẹp, dám nghĩ dám làm với mưu đồ hiển hách, thể hiện sức mạnh, chứng tỏ bản thân mình có ích cho đời cho người. Ở ông không có sự cam chịu, đứng yên một chỗ chấp nhận số phận mà phải tự mình xoay vần, tác động để thay đổi số phận, cuộc đời mình. Đó là người nam nhi biết vượt qua giới hạn bản thân, làm những điều phi thường, lớn lao mà hiếm ai làm được bởi đã là nam nhi thì phải làm những điều cho xứng đáng là một bậc nam nhi. Dù chỉ là “Một phút huy hoàng rồi chợt tắt? Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Tố Hữu). Nam nhi với ông trong vũ trụ này là phải có khẩu khí mạnh mẽ, vẫy vùng ngang dọc, việc anh dũng, sống đẹp cho bản thân mình , hơn nữa ông muốn nhắc đến sự nghiệp của nước nhà, kiến thân lập nghiệp, phụng sự cho Tổ Quốc.

Nếu như hai câu đề nói rõ quan điểm của ông về nam nhi thì đến với hai câu thực thì cái tôi công dân rõ nét được phát họa:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai”


Trong thời chiến thì mỗi công dân khi đã là người con của đất nước đều phải biết đứng lên bảo vệ, chống lại quân thù không phân biệt giai cấp, giới tính, tuổi tác: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” . Hai câu thơ này tác giả muốn khẳng định trách nhiệm, lý tưởng của bản thân ông đối với đất nước, hay đó là món nợ công danh cần phải đền đáp. “Trong khoảng trăm năm” vốn là một dấu mốc lịch sử dài, một đời người, ông như gợi nhắc về những biến cố của dân tộc, nỗi cơ cực lầm than mà nhân dân ta phải hứng chịu khi bao lần bọn giặc phương Tây luôn lăm le cướp nước, hại dân. Do đó mà “trăm năm cần có tớ” là một lời khẳng định hùng hồn, vững chắc về tầm quan trọng của bản thân đối với công cuộc bảo vệ, phục hưng nước nhà. Nói tới đây thì một người cũng cùng chung chí hướng, tư tưởng lớn với ông là Nguyễn Công Trứ có câu thơ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Do đó mà với quan niệm chí làm trai như đã được đề cập ở trên thì người nam nhi cần phải sống hết mình, sức dài vai rộng dựng xây quê hương để xứng đáng với cái danh nam nhi của mình. Khi đã khẳng định được tầm vóc, sứ mệnh của bản thân rồi thì tác giả tiếp tục dành một câu thơ như lời ngỏ ý, sự khích lệ cho lớp trẻ thanh niên hôm nay và mai sau tiếp nối sự nghiệp.

Đất nước lúc bấy giờ rơi vào tay giặc, nhân dân cơ cực từng tháng ngày, nhận thức hiện thực bấy giờ của đất nước mà hai câu luận ông viết:

“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”


Đứng trước hiện trạng của đất nước lúc bấy giờ ông không phủ nhận mà luôn nhìn nhận đúng, mọi hành động luôn song hành cùng nước nhà. Đất nước khi này đã mất chủ quyền, mọi công sức xây dựng của ông cha ta đổ sông đổ biển rơi vào tay giặc “non sông đã chết”, chính vì một lòng yêu nước sâu đậm, nồng nàn đó là điều khiến ông thấy “sống thêm nhục” . Phan Bội Châu từng là một nhà Nho giáo nhưng hơi hướng của ông vô cùng phóng khoáng, mới mẻ, ông dám vạch trần, nhìn thẳng vào sự tụt hậu của nền Nho học không thể đủ sức giúp nước nhà phục hưng, tác giả thể hiện nỗi đau khổ của chí sĩ yêu nước. Hai câu thơ này có thể nói lên một Phan Bội Châu đầy mới mẻ, lý tưởng cao đẹp, sống thật và hơn hết là một trái tim yêu dân yêu nước nồng nàn, nén nỗi đau cá nhân vì dân tộc, món nợ công danh của đời mình.

Để rồi khi nén nỗi đau vào lòng, ông đã mạnh dạn nêu lên khát vọng, ý chí mãnh liệt của mình vì đất nước ở hai câu cuối:

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”


Hai câu thơ thôi mà tác giả như vẽ lên một bức tranh kì vĩ, rộng lớn về biển Đông, mọi vạn vật đều lớn mạnh, trào dâng đó là những ngọn gió lớn, đợt sóng bạc. Sức mạnh, lòng yêu nước nồng nàn muốn ôm trùm thiên hạ chỉ qua những hình ảnh như thế cũng đủ để thấy rõ.

Bài thơ lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu là một áng văn đầy ý nghĩa, khát vọng cao đẹp của một nhà Cách Mạng tài ba. Cảm hứng yêu nước, vì dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài thơ, nêu lên lý tưởng sống đẹp đẽ, cao cả của một người con dân tộc như Phan Bội Châu. Chủ nghĩa yêu nước sáng ngời qua ngòi bút sắc bén của ông, một phương tiện đắt giá để chiến đấu hết sức thuyết phục.

Nguồn: THPT Trịnh Hoài Đức

Xem thêm các bài viết liên quan tới chủ đề Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu :
Tìm hiểu tác giả Phan Bội Châu và tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương

Tiểu sử, sự nghiệp và đặc điểm nội dung của thơ văn Phan Bội Châu
 
Từ khóa Từ khóa
cảm hứng yêu nước dàn ý phân tích lưu biệt khi xuất dương phan bội châu phân tích lưu biệt khi xuất dương quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc quyết tâm xuất dương
454
0
2
Trả lời

Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu - Bài văn mẫu của học sinh giỏi​


Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp. Chế độ phong kiến suy tàn kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống tư tưởng phong kiến già cỗi, lỗi thời. Tình hình đó đặt ra cho các chí sĩ yêu nước một câu hỏi lớn: Phải cứu nước bằng con đường nào? Trong không khí u ám bao trùm khắp đất nước thời đó, những tia sáng hi vọng hé rạng qua nguồn sách Tân thư truyền bá tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của phương Tây với nội dung khác hẳn với các sách thánh hiền thuở trước. Người ta có thể tìm thấy ở đó những gợi ý hấp dẫn về một con đường cứu nước mới, những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Vì thế, các nhà Nho tiên tiến của thời đại như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tiên phong dấn bước, bất chấp nguy hiểm, gian lao.

Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở ra con đường cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Mặc dù sự nghiệp không thành, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước thiết tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất.

Sinh thời, Phan Bội Châu không coi văn chương là mục đích của cuộc đời mình nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, ông đã chủ động nắm lấy thứ vũ khí tinh thần sắc bén ấy để tuyên truyền, cổ động, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào ta. Năng khiếu văn chương, bầu nhiệt huyết sôi sục cùng sự từng trải trong bước đường cách mạng là cơ sở để Phan Bội Châu trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm xuất sắc như:Việt Nam vong quốc sử(1905),Hải ngoại huyết thư(1906),Ngục trung thư(1914),Trùng Quang tâm sử(1913 -1917),Phan Bội Châu niên biểu(1929)…

Năm 1904, ông cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Trước lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơXuất dương lưu biệtđể từ giã bạn bè, đồng chí:

Phiên âm chữ Hán:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.


Dịch thơ:

Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ,Lưu biệt khi xuất dươngđã khắc họa vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.

Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:

Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.


Câu thơ chữ Hán:Sinh vi nam tử yếu hi kì. Hai từ hi kì có nghĩa là hiếm, lạ, khác thường cần được hiểu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Đây cũng là lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thời phong kiến.

Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề cập đến chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn:

Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu


(Tỏ lòng)

Trong bài Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ khẳng định:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông


và nhấn mạnh:

Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể


(Chí khí anh hùng)

Chí làm trai của Phan Bội Châu thuyết phục thế hệ trẻ thời bấy giờ ở sự táo bạo, quyết liệt và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành bay bổng. Với ông, làm trai là phải làm được những điều lạ, tức những việc hiển hách phi thường. Câu thơ thứ nhất khẳng định điều đó. Câu thơ thứ hai mang ngữ điệu cảm thán bổ sung cho ý của câu thứ nhất: Kẻ làm trai phải can dự vào việc xoay chuyển càn khôn, biến đổi thời thế chứ không phải chỉ giương mắt ngồi nhìn thời cuộc đổi thay, an phận thủ thường, chấp nhận mình là kẻ đứng ngoài.

Thực ra, đây là sự tiếp nối khát vọng của nhân vật trữ tình trong bài Chơi xuân:

Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế
.

Chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dươnghiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một con người mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những trọng trách lớn lao. Con người ấy dám đối mặt với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên trên cái mộng công danh xưa nay thường gắn liền với tam cương, ngũ thường của Nho giáo để vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả hơn nhiều.

Cảm hứng và ý tưởng đó phần nào xuất phát từ lí tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho thuở trước nhưng tiến bộ hơn vì mang tính chất cách mạng. Theo quy luật, con tạo xoay vần vốn là lẽ thường tình, nhưng Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng chủ động xoay chuyển càn khôn, chứ không để cho nó tự chuyển vần. Cũng có nghĩa là ông không chịu khuất phục trước số phận, trước hoàn cảnh. Lí tưởng tiến bộ ấy đã tạo cho nhân vật trữ tình trong bài thơ một tầm vóc lớn lao, một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ thách thức với càn khôn.

Hai câu thực thể hiện ý thức về trách nhiệm cá nhân của nhà thơ, cũng là nhà cách mạng tiên phong trước cuộc đời:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?


Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa một tâm niệm: Sự hiện diện của ta không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích; vì vậy, ta phải làm một việc gì đó lớn lao, hữu ích cho đời. Câu thứ tư có nghĩa là ngàn năm sau, lẽ nào, chẳng có người nối tiếp công việc của người đi trước. “Cái tôi công dân” của tác giả đã được đặt ra giữa giới hạn trăm năm của đời người và ngàn năm của lịch sử. Sự khẳng định cần có tớ không phải với mục đích hưởng lạc mà là để cống hiến cho đáng mặt nam nhi và lưu danh hậu thế.

Câu hỏi tu từ cũng là một cách khẳng định mãnh liệt hơn khát khao cống hiến và nhận thức đúng đắn của tác giả: Lịch sử là một dòng chảy liên tục, cần có sự góp mặt và gánh vác của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Trong bốn câu thơ đầu, những hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên như càn khôn, trăm năm, muôn thuở đã thể hiện cảm hứng lãng mạn bay bổng, chính là cội nguồn sức mạnh niềm tin của nhân vật trữ tình.

Ở những năm đầu thế kỉ XX, sau thất bại liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, một nỗi bi quan, thất vọng đè nặng lên tâm hồn những người Việt Nam yêu nước. Tâm lí an phận thủ thường lan rộng. Trước tình hình đó, bài thơLưu biệt khi xuất dươngcó ý nghĩa như một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, động viên mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm.

Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế của lịch sử đương thời:

Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.


Lẽ nhục – vinh mà tác giả đặt ra gắn liền với sự tồn vong của đất nước và dân tộc: Non sông đã chết, sống thêm nhục. Ý nghĩa của nó đồng nhất với quan điểm: Chết vinh còn hơn sống nhục trong thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cuối thế kỉ XIX.

Câu thơ thứ 5 bày tỏ một thái độ dứt khoát, được thể hiện bằng ngôn ngữ đậm khẩu khí anh hùng, bằng sự đối lập giữa sống và chết. Đó là khí tiết cương cường, bất khuất của những con người không cam chịu cuộc đời nô lệ tủi nhục. Ý thơ mới mẻ mang tính chất cách mạng. Ở câu thứ 6, Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến trước một thực tế chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ khư khư theo đuổi thì chỉ hoài công vô ích mà thôi.

Tất nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế thì quả là táo bạo đối với một người từng là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để đưa nước nhà thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ.

Bài thơ không đơn thuần là chỉ để bày tỏ ý chí mà thực sự là một cuộc lên đường của nhân vật trữ tình:

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Các hình ảnh kì vĩ trong hai câu kết mang tầm vũ trụ: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả như hòa nhập làm một với con người trong tư thế bay lên.

Trong nguyên tác, hai câu 7 và 8 liên kết với nhau để hoàn chỉnh một tứ thơ đẹp: Con người đuổi theo ngọn gió lớn qua biển Đông, cả vũ trụ bao laMuôn lớp sóng bạc cùng bay lên(Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi). Tất cả tạo thành một bức tranh hoành tráng mà con người là trung tâm được chắp cánh bởi khát vọng lớn lao, bay bổng lên trên thực tại tối tăm khắc nghiệt, lồng lộng giữa trời biển mênh mông. Bên dưới đôi cánh đại bàng đó là muôn trùng sóng bạc dâng cao, bọt tung trắng xóa, dường như muốn tiếp sức cho con người bay thẳng tới chân trời mơ ước. Hình ảnh đậm chất sử thi này đã thắp sáng niềm tin và hi vọng cho một thế hệ mới trong thời đại mới.

Thực tế thì cuộc ra đi của Phan Bội Châu là một cuộc ra đi bí mật, tiễn đưa chỉ có vài ba đồng chí thân thiết nhất. Dù phía trước chỉ mới le lói vài tia sáng của ước mơ, nhưng người ra đi tìm đường cứu nước vẫn hăm hở và đầy tin tưởng.

Sức thuyết phục, lôi cuốn của bài thơ chính là ở ngọn lửa nhiệt tình đang bừng cháy trong lòng nhân vật trữ tình. Bài thơ đã thể hiện hình tượng người anh hùng trong buổi lên đường xuất dương lưu biệt với tư thế kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ. Người anh hùng ấy ý thức rất rõ ràng về “cái tôi công dân” và luôn khắc khoải, day dứt trước sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.

Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được viết theo bút pháp ước lệ và cường điệu, rất phù hợp với mục đích cổ vũ, động viên. Giọng thơ vừa sâu lắng, da diết, vừa sôi sục, hào hùng, mang âm hưởng tráng ca. Nỗi đau đớn, niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng đã thổi hồn vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh trong bài thơ. Âm hưởng hào hùng của bài thơ có sức lay động, thức tỉnh rất lớn đối với mọi người. Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là lời kêu gọi, thúc giục lên đường. Tầm vóc bài thơ hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ và tin tưởng. Trong tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu(1925) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã suy tôn Phan Bội Châu là: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập được hai mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng.
 

TOP 5 BÀI PHÂN TÍCH Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu HAY NHẤT​

1. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương hay nhất - bài mẫu số 1​

Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội… Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước:

Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng
(Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.
Xuất dương lưu biệt

được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

Sinh nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.


Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác:

Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.


Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.


(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)
(Tùy biên thi thoại – Viên Mai)

Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy… (Ngục trung thư).

Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.


Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng

(Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn).

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!


(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)

Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào con đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài


Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong

Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…


Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.

Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:

Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi


Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên).

Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông Hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

Xuất dương lưu biệt là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

2. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương bài mẫu số 2​

Những năm đầu thế kỉ XX, trong lúc đất nước Việt Nam mất đi chủ quyền, phong trào Cần Vương thất bại thì tư tưởng dân chủ tư sản đã thổi một luồng gió mới đến các thanh niên yêu nước. Họ tìm thấy những lí tưởng mới mẻ và ra đi với một niềm tin mạnh mẽ vào dân tộc. Một trong những nhà cách mạng đã có cuộc ra đi hào hùng như vậy là Phan Bội Châu. Trước khi lên đường sang Nhật Bản, ông đã viết bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” như một lời từ biệt. Đây là một bài thơ đặc sắc trong kho tàng văn thơ của Phan Bội Châu.

“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”


Hai câu đầu mở ra một quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong xã hội. Đã làm nam nhi thì phải sống thật phi thường, hiển hách, dám mưu đồ sự nghiệp, dám xoay chuyển “càn khôn”, dám chủ động đương đầu với thử thách chứ không sống thụ động, tẻ nhạt và tầm thường. Con người phải khẳng định được vị trí của mình trong cuộc đời chứ không đầu hàng trước số phận. Cũng giống như Nguyễn Công Trứ từng dõng dạc: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Như vậy, Phan Bội Châu đã bộc lộ một tư tưởng, một lẽ sống cao đẹp và tiến bộ. Từ đó tác giả ý thức:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?”


Quan niệm mới đã hình thành nên ý thức cá nhân gắn với một “cái tôi” đầy trách nhiệm trước thời thế. Nhà thơ khẳng định về sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của mình giữa cuộc đời, ý thức sâu sắc và trách nhiệm lớn lao của bản thân. Không phải chỉ sống một cuộc sống nhạt nhòa, bình lặng mà phải sống cống hiến, hiên ngang, hiển hách để ghi lại tên tuổi với hậu thế. Câu thơ thứ tư phủ định chính là để khẳng định dứt khoát hơn về lẽ sống của mình. Những hình ảnh thơ to lớn, kỳ vĩ như “càn khôn”, “trăm năm”, “muôn thuở” đã góp phần làm nổi bật lên khát khao sống, cống hiến của tác giả.

Không chỉ ý thức được trách nhiệm của mình, Phan Bội Châu còn bộc lộ thái độ kiên quyết của mình trước thời cuộc:

“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”


Bằng tình yêu nước cháy bỏng và đôi mắt tinh tế của mình, Phan Bội Châu đã nhận thức rõ hơn về tình hình đất nước lúc bấy giờ. Lẽ vinh – nhục được đặt ra như một nỗi đau đáu của người nam nhi trước tình cảnh nước mất, nhà tan. Cũng như những nhà cách mạng khác, ông cũng trăn trở về con đường tương lai của dân tộc, phải làm sao để cứu được đất nước. Ông đã tỉnh táo nhận ra thực tế: đất nước mất đi chủ quyền, “hiền thánh” cũng không thể làm gì được.

Ở câu này, bản dịch thơ chưa sát lắm so với nguyên tác. Bản nguyên tác đã nói lên thái độ dứt khoát, mạnh mẽ của Phan Bội Châu: “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”. Không phải ông hoàn toàn mất niềm tin ở học vấn Nho giáo nhưng ông đã sáng suốt nhìn nhận được những hạn chế của nó. Đó một phần là nhờ vào sự ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản được truyền vào nước ta. Đứng trước tình hình đó, Phan Bội Châu đã dấy lên những khát vọng cuồng nhiệt, quyết liệt:

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”


Hai câu thơ cuối đã vẽ ra tư thế hiên ngang, hào hùng và không kém phần lãng mạn của người ra đi tìm đường cứu nước. Những hình ảnh thơ lớn lao, kì vĩ liên tục xuất hiện: “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”,… đã góp phần tô đẹp tư thế và khát vọng của con người buổi lên đường. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ vẫn chưa làm nổi bật được hết vẻ đẹp của bức tranh này. “Tiễn ra khơi” chỉ là một cuộc đưa tiễn bình thường như bao cuộc đưa tiễn khác, “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” mới thể hiện đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh hoành tráng với hình tượng trung tâm là con người, xung quanh là vũ trụ rộng lớn cùng chắp cánh cho ước mơ của con người.

Trên thực tế, đây là cuộc ra đi khá lặng lẽ, bí mật, nhưng qua bài thơ, tác giả đã thể hiện một tư thế hết sức hiên ngang, tự tin vào tiền đồ của đất nước. Đó được xem là một hình ảnh đẹp trong văn học, một hình ảnh vừa giàu chất sử thi lại vừa hòa quyện với cảm hứng lãng mạn.

Bài thơ được đánh giá là một trong những thi phẩm có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Không chỉ với tư tưởng và quan niệm mới mẻ mà còn những nét nghệ thuật đặc sắc. Thi phẩm được viết với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phù hợp với việc “nói chí” của Phan Bội Châu. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao góp phần lột tả trọn vẹn những khát vọng hành động và ý thức trách nhiệm của tác giả. Giọng thơ linh hoạt, sôi nổi và mạnh mẽ.

Như vậy, cả bài thơ đã xây dựng được hình tượng người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn. Bằng nhiệt huyết và tình yêu nước sâu nặng của mình, Phan Bội Châu đã không chỉ trở thành một nhà cách mạng mà còn trở thành một văn sĩ lớn của dân tộc, đáng được người đời sau tôn kính.

3. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương bài mẫu số 3​

Phan Bội Châu vốn được biết đến là một chí sĩ yêu nước, là một người lãnh đạo nhiều phong trào yêu nước. Tuy con đường mà Phan Bội Châu đang đi gặp nhiều chông gai và đến cuối cùng ông phải chịu thất bại nhưng ông vẫn là tấm gương sáng của thế hệ mai sau. Không chỉ là một người chí sĩ, Phan Bội Châu còn là một người nghệ sĩ với nhiều tác phẩm hay. Năm 1905, Hội Duy Tân của có chủ trương phong trào Đông Du, và đưa thanh niên ưu tú sang Nhật. Việc này vừa nhằm mục đích chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng, vừa nhằm mục đích tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Ngày trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để bày tỏ quan điểm và cảm xúc của mình đối với những người đồng chí, đồng đội.

Trong bài thơ Xuất dương khi lưu biệt, Phan Bội Châu đã sử dụng ngôn ngữ thơ giàu sức lay động. Người chí sĩ cách mạng hiện lên trong thơ mang một vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa hào hùng. Trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, những tư tưởng mới mẻ, táo bạo của nhà chí sĩ cách mạng được thể hiện một cách cháy bỏng. Mở đầu bài thơ, Phan Bội Châu đã khẳng định chí làm trai ở trong trời đất:

Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời


Trước đây, Nguyễn Công Trứ cũng đã từng nói về chí làm trai rằng đã làm trai ở trong trời đất thì phải có danh gì với núi sông. Giờ đây, Phan Bội Châu cũng nói về chí làm trai nhưng viết theo một cách khác mới mẻ hơn. Đó chính là làm trai thì phải làm nên được điều lạ ở trên đời. Điều lạ ở đây có thể hiểu là đứng lên chống lại kẻ thù. Làm trai thì phải chủ động chứ không nên bị động để số phận cuộc đời mình cho trời đất xoay chuyển. Đó là một lời thuyết phục thế hệ trẻ phải biết táo bạo và quyết liệt hơn nữa. Chí làm trai của Phan Bội Châu đã vượt qua cái mộng công danh xưa nay là gắn với tam cương, ngũ thường của Nho giáo. Chí làm trai của Phan Bội Châu vươn tới lí tưởng xã hội rộng lớn và cao cả.

Một phần cảm hứng ấy có lẽ cũng xuất phát từ lý tưởng trí quân, trạch dân của nhà Nho thuở trước nhưng vì mang tính chất cách mạng nên tư tưởng trở nên tiến bộ hơn. Đúng như tự nhiên, con tạo xoay vần là lẽ tự nhiên nhưng Phan Bội Châu không chấp nhận điều đó. Ông muốn xoay chuyển cả càn khôn chứ không để nó tự chuyển vần. Điều này đồng nghĩa với việc Phan Bội Châu không chấp nhận khuất phục số phận hay hoàn cảnh.

Sang đến hai câu thực, nhà thơ ý thức rõ về trách nhiệm của mình trước lịch sử, trước vận mệnh của đất nước:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai


Không chỉ đơn giản là xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà câu thơ thứ ba còn hàm chứa một tâm niệm đó là sự hiện diện của tác giả trên đời không phải điều ngẫu nhiên. Chính từ ý thức đó, nhà thơ tự thấy bản thân cần phải làm những điều có ích bởi vì sau này, chắc cũng sẽ có người nối tiếp con đường mà mình đã đi.

Cái chí làm trai không chỉ là cái lý tưởng suy nghĩ ở trong lòng tác giả mà nó được tác giả đặt vào trong hoàn cảnh thực tế của lịch sử:

Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài


Ở mỗi thời, có lẽ chí làm trai mỗi khác. Nếu như ở thời bình, chí làm trai là thi đỗ, làm quan thì thời chiến, sự nghiệp học hành, theo đuổi hiền thánh không còn đúng nữa. Nếu đất nước lâm nguy, rơi vào tay giặc thì việc học hành nào có ích gì. Non sông mà không còn thì sống chỉ thêm nhục. Đó là lý tưởng của con người thời đại. Đối với Phan Bội Châu, việc bây giờ là phải đánh đuổi được giặc thù. Hai câu thơ cuối đã thể hiện được khát vọng muốn vươn ra biển lớn của nhà thơ:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi


Hình ảnh trong hai câu thơ mang tầm vũ trụ, nó khiến cho ý chí của tác giả trở nên lớn lao hơn, kì vĩ hơn. Tất cả mọi thứ cứ như hòa nhập lại và cùng nhau thăng hoa.

Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã có sức lay động lòng người, khích lệ tinh thần tướng sĩ lúc bấy giờ. Đây xứng đáng là một kiệt tác mà không chỉ thế hệ trước, cả thế hệ chúng ta, thế hệ sau này cũng đều rút ra được bài học cho riêng mình.

4. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương bài mẫu số 4​

Phan Bội Châu được đánh giá chính là một trong những văn sĩ đã khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình – chính trị. Có thể nhận thấy được ở thơ Phan Bội Châu luôn luôn thể hiện một bầu nhiệt huyết, thơ ông luôn sục sôi của một người mà có được lí tưởng duy nhất cao đẹp. Đó chính là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Nhắc đến Phan Bội Châu người ta không quên tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” đó là vào năm 1904, khi mà người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội. Thế rồi cũng sau đó một năm vào năm 1905 lúc này thì hội chủ trương phong trào Đông Du để có thể đưa thanh niên ưu tú nhất sang Nhật Bản học tập để có thể học hỏi cũng như chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho chính nền cách mạng nước ta lúc này đây đồng thời cũng tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Thế rồi cũng chính trước lúc lên đường thì Phan Bội Châu đã sáng tác bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” để từ giã bạn bè.

Đọc tác phẩm người đọc thấy được sáng tác chất chứa một giọng thơ đầy sôi nổi, đầy hào khí. Hơn hết Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác ra như đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại. Và chính tinh thần này cũng đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX của nước nhà một luồng sinh khí mới. Chính điều này có ý nghĩa rất lớn lao vào thời buổi nước nhà lúc đó:

Làm trai thì phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.


Không thể phủ nhận được với hai câu thơ trên như đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người và tác giả như muốn nhấn mạnh ở đây đó là một trang nam nhi. Con người chúng ta cũng phải làm chủ bước đi của lịch sử mỗi người như cũng lại phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Từ xưa cho đến nay thì chí “Làm trai” luôn được coi trọng, nó cũng chính là sự khẳng định chí khí của thanh niên nói chung. Cũng chính từ chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương đã như hiện lên khá rõ qua hai câu đề đầu tiên thôi.

Phan Bội Châu cũng đã xây dựng lên nhân vật trữ tình luôn ý thức được tránh nhiệm của chính mình để có thể gánh vác trọng trách như thật lớn lao. Con người mà Phan Bội Châu xây dựng lên, muốn nhắc đến chính là việc phải đối mặt với càn khôn cũng như vũ trụ rộng lớn để có thể khẳng định:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?


Đây cũng chính là một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về chính sức mạnh của con người trước càn khôn của thiên nhiên. Dường như cũng chính cái ý thức về cái “Tôi” ở đây cũng đã được tác giả tận dụng triệt đó chính là bằng cách tạo cho nhân vật có thế đứng như thật đặc biệt. Ở đây hoàn toàn không phải là cái “tôi” bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới xuất hiện sau này mà nó còn chính là một sự khẳng định về trách nhiệm của mỗi người và nhất là một trang nam nhi.

Câu thơ như một lời giục giã đanh thép, như thách thức về tinh thần đấu tranh của con người. Thông qua đó thì thấy được hình ảnh một người lãnh tụ đầy hiệt huyết – Phan Bội hâu cũng đã có ý thức kêu gọi mọi người để cùng góp sức tranh đấu để bảo vệ đất nước. Sau khi đã khẳng định được chí nam nhi thì cũng nói đến trách nhiệm của mỗi người với nhân cách thật cao đẹp của những nhà Nho:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài


Chúng ta đọc đến hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu thực sự quen thuộc của thơ cổ điển. Với thể thơ nó cũng vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Thực sự có thể nói rằng ngay trong thời buổi đó của đất nước thì việc ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Bởi khi dân tộc đã mất tự do, cũng như bị xâm chiếm thì sự ra đi tìm đường cứu nước là một lý tưởng của thời đại. Câu thơ không hề có ý chê bai chuyện đọc sách thánh hiền mà lại có ý như khuyên con người phải có nhận định thật đúng đắn về đạo sách thánh hiền ở đời chứ không phải cứ đọc sách thánh hiền mà bỏ mặc mọi thứ.

Không chỉ vậy mà câu thơ lại như nói lên được cả nỗi xót xa của nhà thơ khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Thực dân Pháp mang đến nước ta nền văn hóa phương Tây theo rất nhiều xu hướng mới mẻ như cũng lại có những rác rưởi cần phải bài trừ. Tất cả những điều đó cũng đã gây lên sự xáo trộn thật ghê gớm về đạo đức cũng như luân lý xã hội.

Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Hai câu thơ trên với khí thế ra đi lúc nào cũng phải thật hùng dũng và đầy quyết tâm đồng thời cũng thật tràn trề sức mạnh. Dễ dàng có thể nhận thấy được câu thơ cuối cùng của bài “Lưu biệt khi xuất dương” dường như đã khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Người ra đi luôn luôn hướng về phía (nước Nhật) người ra đi cũng chính với một quyết tâm thật cao.

Tinh thần chí làm trai như thể hiện rõ ràng nhất chính là “nhất tề phi”. Thực sự bài thơ hào hùng, lãng mạn nó dường như cũng lại đã thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Hơn hết chính người ra đi đã gửi gắm vào đó biết bao nhiêu hi vọng vào chính con đường mà mình đã chọn. “Lưu biệt khi xuất dương” cũng chính là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng chính là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Hơn hết đó là khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tinh thần chiến đấu và bảo vệ non sông đất nước.

5. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương bài mẫu số 5​

Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng cho loại văn chương trữ tình chính trị. Trong đó, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một tác phẩm tiêu biểu. Đây là bài thơ được viết trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để chia tay với các bạn bè, đồng chí trước lúc lên đường sang Nhật Bản năm 1905. “Lưu biệt khi xuất dương” đã thể hiện ý tưởng lớn lao, mới mẻ đầy trách nhiệm của tác giả, thể hiện niềm hăm hở, quyết tâm cao độ trong buổi đầu vượt biển đi ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”.

Chí làm trai đã được nhắc đến trong văn học từ thời xa xưa nhưng đặc biệt được đề cao ở thời kì chế độ phong kiến, thời kì đạo Nho phát triển mạnh mẽ. Nam nhi phải có công danh, sự nghiệp thì mới đáng làm trai. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Tỏ lòng“, Phạm Ngũ Lão đã viết:

“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”


Hay Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:

“Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.


Muốn trở thành bậc nam nhi được mọi người công nhận thì phải biết phấn đấu, lập được công trạng, có được danh vọng, có sức vóc “vẫy vùng” khắp bốn bể để chứng minh tài năng, bản lĩnh của bản thân. Kế thừa tư tưởng ấy của Nho giáo, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan điểm về chí làm trai như một tuyên ngôn đầy khí thế:

“Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”.


(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)

Trước hết, ông cho rằng, làm trai phải “lạ”, có nghĩa là phải sống khác mọi người, không được giống với bất kì ai để tạo nên điểm riêng biệt. “Lạ” cũng có nghĩa là điều phi thường, hiển hách, xoay chuyển cả trời đất. Đó là lối sống chủ động, không chùn bước, nản chí để mặc cho hoàn cảnh chi phối mà phải có bản lĩnh để chi phối hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình dám đối mặt với càn khôn, đất trời, vũ trụ để tự khẳng định bản thân, phấn đấu đạt được giấc mộng công danh.

Phan Bội Châu ôm ấp khát vọng xoay chuyển được càn khôn chứ không để “càn khôn tự chuyển dời”. Ông không đầu hàng, khuất phục trước số phận, hoàn cảnh mà dùng chính khả năng của mình để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói, chí làm trai của ông là chí làm trai của một đấng nam nhi hiên ngang trong vũ trụ, dám ngạo nghễ và thách thức với trời đất. Con người mang tầm vóc lớn lao, tầm vóc vũ trụ ấy luôn mang trong mình ý thức, trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc:

“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)

Trong cuộc đời trăm năm hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho đất nước, làm nên những công trạng phi thường, lớn lao để xứng đáng làm một nam nhi lưu danh vào thiên cổ ngàn năm. Tác giả đã tự khẳng định bản thân mình, đây là cái tôi mang đầy trách nhiệm, chủ động tích cực chứ không phải cái tôi vị kỉ, chỉ biết lo nghĩ cho lợi ích của cá nhân.

Ở hai câu thực có sự đối nhau hài hòa giữa sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người, Phan Bội Châu dùng cái phủ định để làm nền, làm nổi bật lên điều ông khẳng định. Ông muốn làm những điều phi thường, lưu lại tên tuổi của mình trong sử sách để không hổ thẹn với chí làm trai mà mình đã lấy làm lí tưởng sống. Cống hiến cho đời vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của bậc trượng phu.

Trong một trăm năm hữu hạn ấy, người nam nhi phải thực hiện được chí làm trai và cũng trong ngàn năm sau đó phải để lại được tiếng thơm cho đời. Hai câu thơ như lời thúc giục khơi dậy tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của con người, đặc biệt là những thanh niên trai tráng phải góp hết sức mình vào công cuộc cứu nước, tìm ra hướng đi mới cho dân tộc. Gắn với hoàn cảnh thực tại của đất nước, Phan Bội Châu đã nêu lên trách nhiệm mà người nam nhi cần có đối với vận mệnh dân tộc:

“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”!

(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)

Đất nước bị xâm lược, non sông cũng không còn nữa thì ta có sống cũng chỉ chuốc lấy sự nhục nhã, ê chề. Sách vở, người có học thức cũng trở thành vô nghĩa khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được ông đặt lên hàng đầu bởi ông ý thức được thời cuộc. Sách vở cũng không có ý nghĩa gì khi nước mất nhà tan. Việc làm quan trọng và thiết thực nhất lúc bấy giờ là tìm được con đường, hướng đi cho đất nước để thoát khỏi sự xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp.

Phan Bội Châu là một người yêu nước và ông cũng mong rằng phong trào Đông du do mình lãnh đạo sẽ gặt hái được nhiều thành quả giúp ích cho nước nhà. Bên cạnh đó, hai câu luận cũng có ý nghĩa thức tỉnh những con người có tấm lòng yêu nước. Đây cũng là lúc để họ xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển cục diện, tình hình của dân tộc. Hai câu kết của bài thơ đã thể hiện khí thế, sự quyết tâm cao độ trên con đường cứu nước mà mình đã chọn của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu:

“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.


(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)

Ông có khát vọng lớn lao muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông. Khát khao đó thể hiện ý chí, khát vọng hành động và tư thế của nhân vật trữ tình. Con người muốn bay lên cùng cơn gió để bắt kịp thời đại. “Bể đông”, “cánh gió”, “sóng bạc” là những hình ảnh thơ kì vĩ, hào hùng ẩn dụ cho khát vọng vượt lên hiện thực tăm tối để tìm đường cứu nước của Phan Bội Châu.

Tác giả “nguyện” vì lí tưởng cao đẹp mà vượt qua tất cả những gian khó, thử thách để chạm được đích đến, hoàn thành chí làm trai của bậc nam nhi ở đời. Bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt tuy chưa dịch sát nghĩa của từ “nhất tề phi” nhưng cũng đã phần nào thể hiện sức mạnh, lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần chiến đấu sục sôi của tác giả.

Trong bối cảnh của thời đại mới, con người cần phải có những tư tưởng hành động bắt kịp thời đại, có như vậy mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn, mang lại sự tự do cho dân tộc. Và với Phan Bội Châu, con đường mới của ông là con đường sang Nhật Bản để học tập, chuẩn bị lực lượng hùng mạnh để nắm bắt thời cơ giành lại nền độc lập cho nước nhà.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật có giọng điệu hào hùng, tràn đầy tâm huyết có sức mạnh lay động mạnh mẽ đến các thanh niên yêu nước. Lưu biệt khi xuất dương đã khắc họa tâm thế, khát khao ra đi tìm đường cứu nước của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. Nhân vật trữ tình mang một vẻ đẹp mới mẻ, tràn đầy khí thế của thời đại.
 

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.