Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng thương em.
Đọc thơ Nguyễn Bính, đâu đây ta thấy âm hưởng của ca dao dân tộc vọng về trong từng câu chữ. Nguyễn Bính là gương mặt thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, nhưng ông lại là người “quen” nhất bởi những sáng tác đậm màu dân tộc, gắn liền với hàng cau liên phòng, với hàng trầu, cô gái dệt lụa. Điệu âm ca dao dường như đã trở thành thi liệu và nguồn cảm hứng bất tận để Nguyễn Bính níu giữ tất cả chân quê bên trong mình dành cho những con người chân quê. Bởi vậy, tình yêu trong ông cũng mộc mạc, thanh bình và đẫm hương đồng quê. Mối tình day dứt ấy đã đọng mật trong tiếng thơ “Xa cách” được Nguyễn Bính viết năm 1938.
Trong thi phẩm “Xa cách”, người ta nhận ra được ít nhiều sự hòa hợp của cái tôi trữ tình thơ Mới kết hợp cùng hồn quê. Phong cách thơ Nguyễn Bính bộc lộ rõ nét, gần gũi với ca dao dân tộc đến mức gợi cho người đọc cảm giác như đang đọc ca dao. Bài thơ là nỗi lòng trăn trở, khát khao đầy suy tư về tình yêu của cô gái quê. Trong nỗi lòng ấy vừa khao khát nắm giữ được tình yêu, vừa đau đớn nhận ra khoảng cách chia lìa giữa cô và chính người mình yêu.
Tiếng thơ gợi người đọc liên tưởng tới bài ca dao quen thuộc:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sống cũng lội
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua
Yếu tố “thơ Mới” của “Xa cách” là cách nói ngược đầy hàm ý. Cô gái tâm sự, giãi bày cho người yêu về khoảng cách khó hàn gắn giữa hai người, không đơn thuần là khoảng cách địa lí mà còn là khoảng cách về vị trí trong xã hội vốn chưa nhiều công bằng với người phụ nữ. Hình ảnh “quả đồi”, “ngọn suối”, “cánh rừng” vốn đã gợi ra một khoảng cách xa xôi, cách trở, khó vượt qua về mặt địa lý, không còn đơn thuần là “cách có một thôi đê” như trong bài thơ “Mưa xuân”. Khoảng cách đó đã vậy còn bị nhân lên gấp ba bốn lần bởi các lượng từ “bốn”, “ba”, “đôi”. Đó thực sự là một khoảng không gian “xa cách quá chừng” ngăn cách cặp đôi trẻ tỏ bày tình yêu nhau. Thế nhưng, có một điều là khoảng cách cách trở xa xôi ấy càng lúc càng được rút ngắn lại bởi lời của người con gái. Từ “bốn" trở về “ba" rồi lại quay về “hai".
Tuy con đường đến nhà người con gái vẫn còn xa xôi nhưng dường như đã được rút ngắn lại theo sự vận động giảm dần của số lượng không gian. Sự xa xôi giờ đây được đo đếm bởi số lượng của các sự vật thiên nhiên. Hình ảnh thiên nhiên giờ đây trở thành vách ngăn, khoảng cách ngăn giữa người con trai và người con gái. Cô gái, trong lời nói thì tỏ bày nỗi đớn đau khi phải sống xa người mình yêu, nhưng thực chất trong thâm tâm lại khao khát rút ngắn khoảng cách ấy lại để được sát gần người mình yêu. Cũng nói chuyện cách trở sơn khê, ca dao tình nhân về lối nói thuận theo chiều tăng tiến, còn ở đây Nguyễn Bính lại ngã về núi nói nghịch theo đà lui giảm. Cuối cùng tất cả những xa xôi cách trở ấy lại biến thành “quá chừng". Thì ra đây không phải tổng số những cách trở, mà là cấp số lùi của những ngăn trở.
Đây là lời nói ý nhị, gửi gắm bao tâm tình của người con gái, chẳng biết trong lòng chàng trai kia có hiểu được hay không? Tuy bốn quả đồi nhưng chỉ có ba ngọn suối, xu chỉ còn có đôi cánh rừng thôi. Từ “đôi" nghe như thật ít ỏi chả đáng kể gì. Chị phải dòng thơ em đã diễn tả được cái rắc rối của một cô gái bốn chân quê nhưng lần đầu khao khát ái tình. Vừa băn khoăn mà thắm thiết, ái ngại mà đầy khích lệ chối từ mà không nguôi gắn bó, tuyệt vọng mà khắc khoải hi vọng. Đó là một nỗi khổ sở rất thơ Mới. Đó là một khao khát trữ tình rất phụ nữ, rất chân quê, mộc mạc và đúng với tinh thần Nguyễn Bính.
Hồn thơ Nguyễn Bính là sự đồng thời theo một kiểu nào đó của hồn quê với khối tình lỡ đầy uẩn khúc. Sự hòa quy này đã làm cho nỗi tủi hờn phổ biến trong ca dao dân gian than thân tổ chức nhập vào mỗi tủi sầu hiện đại, hóa thân đầy da diết trong tiếng thơ “Xa c
ách" của Nguyễn Bính.
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng thương em.
Đọc thơ Nguyễn Bính, đâu đây ta thấy âm hưởng của ca dao dân tộc vọng về trong từng câu chữ. Nguyễn Bính là gương mặt thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, nhưng ông lại là người “quen” nhất bởi những sáng tác đậm màu dân tộc, gắn liền với hàng cau liên phòng, với hàng trầu, cô gái dệt lụa. Điệu âm ca dao dường như đã trở thành thi liệu và nguồn cảm hứng bất tận để Nguyễn Bính níu giữ tất cả chân quê bên trong mình dành cho những con người chân quê. Bởi vậy, tình yêu trong ông cũng mộc mạc, thanh bình và đẫm hương đồng quê. Mối tình day dứt ấy đã đọng mật trong tiếng thơ “Xa cách” được Nguyễn Bính viết năm 1938.
Trong thi phẩm “Xa cách”, người ta nhận ra được ít nhiều sự hòa hợp của cái tôi trữ tình thơ Mới kết hợp cùng hồn quê. Phong cách thơ Nguyễn Bính bộc lộ rõ nét, gần gũi với ca dao dân tộc đến mức gợi cho người đọc cảm giác như đang đọc ca dao. Bài thơ là nỗi lòng trăn trở, khát khao đầy suy tư về tình yêu của cô gái quê. Trong nỗi lòng ấy vừa khao khát nắm giữ được tình yêu, vừa đau đớn nhận ra khoảng cách chia lìa giữa cô và chính người mình yêu.
Tiếng thơ gợi người đọc liên tưởng tới bài ca dao quen thuộc:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sống cũng lội
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua
Yếu tố “thơ Mới” của “Xa cách” là cách nói ngược đầy hàm ý. Cô gái tâm sự, giãi bày cho người yêu về khoảng cách khó hàn gắn giữa hai người, không đơn thuần là khoảng cách địa lí mà còn là khoảng cách về vị trí trong xã hội vốn chưa nhiều công bằng với người phụ nữ. Hình ảnh “quả đồi”, “ngọn suối”, “cánh rừng” vốn đã gợi ra một khoảng cách xa xôi, cách trở, khó vượt qua về mặt địa lý, không còn đơn thuần là “cách có một thôi đê” như trong bài thơ “Mưa xuân”. Khoảng cách đó đã vậy còn bị nhân lên gấp ba bốn lần bởi các lượng từ “bốn”, “ba”, “đôi”. Đó thực sự là một khoảng không gian “xa cách quá chừng” ngăn cách cặp đôi trẻ tỏ bày tình yêu nhau. Thế nhưng, có một điều là khoảng cách cách trở xa xôi ấy càng lúc càng được rút ngắn lại bởi lời của người con gái. Từ “bốn" trở về “ba" rồi lại quay về “hai".
Tuy con đường đến nhà người con gái vẫn còn xa xôi nhưng dường như đã được rút ngắn lại theo sự vận động giảm dần của số lượng không gian. Sự xa xôi giờ đây được đo đếm bởi số lượng của các sự vật thiên nhiên. Hình ảnh thiên nhiên giờ đây trở thành vách ngăn, khoảng cách ngăn giữa người con trai và người con gái. Cô gái, trong lời nói thì tỏ bày nỗi đớn đau khi phải sống xa người mình yêu, nhưng thực chất trong thâm tâm lại khao khát rút ngắn khoảng cách ấy lại để được sát gần người mình yêu. Cũng nói chuyện cách trở sơn khê, ca dao tình nhân về lối nói thuận theo chiều tăng tiến, còn ở đây Nguyễn Bính lại ngã về núi nói nghịch theo đà lui giảm. Cuối cùng tất cả những xa xôi cách trở ấy lại biến thành “quá chừng". Thì ra đây không phải tổng số những cách trở, mà là cấp số lùi của những ngăn trở.
Đây là lời nói ý nhị, gửi gắm bao tâm tình của người con gái, chẳng biết trong lòng chàng trai kia có hiểu được hay không? Tuy bốn quả đồi nhưng chỉ có ba ngọn suối, xu chỉ còn có đôi cánh rừng thôi. Từ “đôi" nghe như thật ít ỏi chả đáng kể gì. Chị phải dòng thơ em đã diễn tả được cái rắc rối của một cô gái bốn chân quê nhưng lần đầu khao khát ái tình. Vừa băn khoăn mà thắm thiết, ái ngại mà đầy khích lệ chối từ mà không nguôi gắn bó, tuyệt vọng mà khắc khoải hi vọng. Đó là một nỗi khổ sở rất thơ Mới. Đó là một khao khát trữ tình rất phụ nữ, rất chân quê, mộc mạc và đúng với tinh thần Nguyễn Bính.
Hồn thơ Nguyễn Bính là sự đồng thời theo một kiểu nào đó của hồn quê với khối tình lỡ đầy uẩn khúc. Sự hòa quy này đã làm cho nỗi tủi hờn phổ biến trong ca dao dân gian than thân tổ chức nhập vào mỗi tủi sầu hiện đại, hóa thân đầy da diết trong tiếng thơ “Xa c
ách" của Nguyễn Bính.