“Văn học không quan tâm đến câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra và những câu hỏi này luôn rộng hơn bất kì câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris).
Bằng hiểu biết của anh (chị) về tác phẩm văn học, hãy bàn luận về ý kiến trên.Bài tham khảo
Qua hàng vạn năm tồn tại ở đời, văn học đã dần khẳng định được chỗ đứng của chính mình trong lòng độc giả không chỉ bởi những giá trị sâu sắc mà nó đem lại, đồng thời đó còn là những câu hỏi đầy tính nhân văn khiến cho người đọc phải trăn trở khôn nguôi đến từ phía người viết. Phải chăng, cái mà văn học nói chung và độc giả nói riêng mong muốn ở người nghệ sĩ là góc nhìn của anh qua từng sự việc, hoàn cảnh từ hiện thực cuộc sống, từ những gì anh đã từng trải ở đời? Phải chăng, cái mà văn học quan tâm là những câu hỏi do nhà văn đặt ra chứ không phải là câu trả lời mà người cầm bút đem lại? Cho nên, khi bàn về thiên chức của nhà văn trong quá trình sáng tác, nhà văn người ý Chaudio Magrid cho rằng: “Văn học không quan tâm đến câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra và những câu hỏi này luôn rộng hơn bất kì câu trả lời cặn kẽ nào.”
Để có được những tác phẩm có giá trị lay động được tới trái tim bạn đọc thì cần có một trái tim nóng bỏng, một tâm hồn nhạy cảm tinh tế; những gì viết ra cần phải xuất phát từ tình cảm chân thật sâu sắc. Muốn vậy trái tim người nghệ sĩ phải để ở giữa cuộc đời và vì cuộc đời. Đọc giả khi thẩm bình và hưởng thụ “cái Đẹp” của một tác phẩm văn học nói chung không nên nhìn vào kết cấu đồ sộ, dung lượng hoành tráng của câu từ để vội vàng đánh giá mà phải di sâu tìm ra được cái mạch nguồn cảm xúc dạt dào mà sâu kín của thi nhân, nắm được cái hạt ngọc mà người nghệ sĩ thai nghén gửi gắm. Có như thế mới có thể bước vào địa hạt của cái Đẹp.
Nói như nhà phê bình người Nga Bielinsky thì: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó”. Rõ ràng, đối với văn học nói chung và bất kì nhà văn nào nói riêng, câu trả lời của người cầm bút đối với hiện thực cuộc sống vẫn là một trong những điều kiện tiên quyết làm nên tác phẩm văn học. Bởi lẽ đó là những kiến giải, suy tư của chính nhà văn, những người đã mở cả tâm can của mình để trải nghiệm, để hiểu hơn về nhân thế và cuộc đời, đồng thời đó còn là thành quả của cả một đời lao động sáng tạo vì nghệ thuật.
Hơn ai hết, những nhà văn vĩ đại với những tư tưởng lớn lao vẫn có đủ khả năng mang đến những câu trả lời mang tính thời đại, đem đến cho cuộc sống bạn đọc những biến chuyển, lịch sử lớn, như chính Banlzac cũng thừa nhận: “Nhà văn là nhà thư kí trung thành của thời đại”. Đành rằng nhờ những câu trả lời do nhà văn mang lại, tức là một khía cạnh khác của hiện thực được khai sáng đến với người đọc, song, nếu trong quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ mà chỉ có những câu trả lời mang tính chủ quan thì sớm muộn đó cũng chỉ là những điều giáo điều, khô khan, vô nghĩa trên trang giấy, không còn thu hút độc giả. Cho nên, văn học không chỉ cần đến “câu trả lời” mà đồng thời, những “câu hỏi” mà nhà văn đặt ra trong quá trình sáng tác đóng một vai trò quan trọng hết thảy đối với cả tác phẩm, người viết và người đọc.
“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu). Hiện thực cuộc sống thì hữu hạn còn con người nói chung và những câu trả lời do nhà văn đem lại thì vô hạn. Bởi lẽ, mỗi người nghệ sĩ chỉ có thể đưa ra những câu trả lời mang tính chủ quan, khó mà bao quát hết được sự vận động, biến chuyển không ngừng của hiện thực xung quanh ta. Nhưng những “câu trả lời” thì khác. Nói như Lev Tolstoy thì “Khi một nhà văn xuất hiện, ta sẽ đặt ra câu hỏi liệu rằng anh ta có thể mang cái gì đến cho chúng ta”. Thật vậy, bởi chính câu hỏi ấy sẽ là thứ khơi gợi vấn đề, kích thích tư duy, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm khác nhau, từ đó dường như bao quát được hết tầm lớn lao vốn có của hiện thực. Và cũng chính bởi được khắc họa từ hiện thực đời sống rộng lớn, nên những câu hỏi được đặt ra không chỉ mang cấu trúc mở mà nó còn gần gũi với nhân sinh vô cùng. Điều đó khơi gợi tinh thần bạn đọc mong muốn đối thoại với nhà văn trong quá trình khám phá tác phẩm, trở thành cầu nối giữa “những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Từ sự bao quát của hiện thực mà đồng thời, những câu hỏi cũng giúp cho một tác phẩm trở thành cấu trúc gọi mời, liên tục mở rộng biên độ của nó để sản sinh nghĩa, trở thành một tác phẩm không chạm đáy, vượt qua mọi bờ cõi và giới hạn để trở thành tác phẩm chung cho cả loài người.
Nam Cao đã từng viết: “Sống cho đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống của nhân dân”. Hơn ai hết, nhà văn phải thể hiện, phải đặt ra những câu hỏi về nhân sinh, về cuộc đời trong chính đứa con tinh thần của mình. Bởi lẽ khi tác phẩm được mở ra cũng là lúc độc giả hiểu hơn về hiện thực cuộc đời, ý nghĩa, giá trị và bản chất ở thế giới mà họ đang sống, để từ đó bước vào thế giới đối thoại cùng nhà văn, tìm ra câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở, suy nghĩa của chính mình. Còn nhớ Nam Cao, qua số phận bi kịch của Chí Phèo đã đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để thế giới không còn những người nông dân bị chèn ép đến tha hóa như Chí Phèo?”, “Làm sao để cứu vớt họ trở thành những người lương thiện trở lại?” Rõ ràng, xuyên suốt tác phẩm, câu hỏi như một hồi chuông đánh thẳng vào trái tim bạn đọc và đó cũng chính là nút thắt trong lòng Nam Cao, tuy không dẫn trực tiếp, song Nam Cao vẫn ngầm đưa ra câu trả lời cho bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí. Đối với ông, chỉ khi tiêu diệt xã hội đại ác này, tiêu diệt tên quỷ dữ Bá Kiến, Đội Tảo… thì cuộc đời mới không còn những người bị tha hóa như Chí Phèo. Nhưng xét đến cùng, văn học cũng không quan tâm đến “câu trả lời” mà Nam Cao đã đem lại, khi bạn đọc hiểu được về nhân vật Chí và khám phá ra được “câu hỏi” đau đáu, vang vọng trong cái bi kịch cự tuyệt ấy, tôi chắc rằng có người sẽ như Nam Cao, sẽ cho rằng chỉ khi giết được Bá Kiến, chỉ khi lật đổ được cái xã hội xấu xa ấy thì những người như hắn mới không còn, nhưng có người lại cho rằng, trong đời để cứu rỗi những linh hồn tội lỗi như Chí đơn thuần chỉ cần một “lòng tốt bình thường”, là Thị Nở đây.
Vì hiện thực thì vô hạn, mà câu trả lời của người cầm bút chỉ là một cá nhân hữu hạn, cho nên có thể nói, văn học cần có những “câu hỏi” như vậy, không chỉ khẳng định thiên chức của nhà văn, đồng thời trở thành chân trụ vững chắc cho tác phẩm văn học, để khi nhớ về một con người từng bị xã hội, hiện thực đàn áp đến mất đi tính người, ta lại nhớ về một Chí Phèo đã từng cố gắng hướng về cánh cửa trở lại làm người ra sao, nhớ về Nam Cao đằng sau cái vẻ ngoài lạnh lùng trên câu chữ là một trái tim ấm áp tình đời, và để tác phẩm tồn tại đến muôn đời.
“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật” (Nguyễn Khải). Nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay, cái đẹp mà nhà văn phát hiện ra trong quá trình trải nghiệm ở cuộc đời để từ đó anh mới cảm thấy đau thay những số phận trong đời không thể lên tiếng cứu rỗi chính mình. Như đến với “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng cũng vậy. Tác phẩm là một áng văn về câu hỏi cho nỗi trăn trở của số phận lẫn sức sống nghệ thuật cùng với vai trò nghệ sĩ của nhân vật Vũ Như Tô. Trước hoàn cảnh éo leo, trăn trở, oái ăm của người người đam mê nghệ thuật, câu hỏi đầu tiên được đặt ra “Nên hay không nên xây Cửu Trùng Đài?” Đối với Vũ Như Tô, dù ông lựa chọn phương án nào, thì ông cũng không thể trách khỏi bi kịch đau khổ đó. Hoặc là hoặc chấp nhận cuộc sống cam chịu không sáng tạo để hao phí tài trời và nhận cái chết ngay khi còn sống, hay chấp nhận lợi dụng quyền lực của Lê Tương Dực để thực hiện ước mơ, khát vọng và khẳng định ý nghĩa sống và nhận lấy cái chết bi phẫn đến tận cùng. Cái chết trong trường hợp này là cái giá vô cùng đau đớn mà người nghệ sĩ phải trả cho sự dấn thân tìm kiếm bản ngã, tìm kiếm ý nghĩa của sự tồn tại, để trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải đau đớn của Vũ Như Tô ở cuối màn kịch: “Trời ơi! Phú cho ta tài để làm gì?”. Từ đó ta cũng thấy rõ được khát vọng Vũ Như Tô là khát vọng mãnh liệt ngàn đời của nhân loại, của mọi dân tộc, của mọi nghệ sĩ, nên câu hỏi được đưa ra là “Vũ Như Tô nên chọn cuộc sống bình thường hay chọn vẻ đẹp siêu đẳng?”. Đó là vượt qua sự hữu hạn của không gian, thời gian để đạt đến sự trường tồn, bất diệt.
Như thế, đánh đổi xương máu cho vẻ đẹp đó, có xứng đáng không? Câu hỏi này không dễ gì trả lời, và bi kịch ở chỗ người nghệ sĩ không có quyền trả lời nó thay nhân dân. Chính sự trăn trở, băn khoăn này đã tạo ra tâm trạng đầy nghịch chiều ở Nguyễn Huy Tưởng khi sáng tác Vũ Như Tô, một mặt, ông đồng cảm với niềm tự hào của Trương Tửu về một dân tộc ham sống, khao khát sống, nhưng mặt khác đó cũng là niềm xót xa, càng tự hào, thì càng xót xa. Có thể thấy, những câu hỏi ấy “rộng hơn bất kì câu trả lời nào” vì đã nêu ra được những mối quan hệ không dễ gì giải quyết được giữa cái Thiện, cái Đẹp, giữa nghệ thuật và lợi ích của nhân dân. Chính những suy ngẫm, trăn trở ấy đã thể hiện rõ cho một tài năng tâm huyết, hết mình vì văn học để tác phẩm có thể sánh bước cùng thời đại đến sau này.
Rõ ràng, “câu hỏi” hay “câu trả lời” đều là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình hình thành tác phẩm văn học. Nhà văn trong hành trình cảm thụ cuộc đời cũng phải củng cố và cải cách tầm nhìn, tâm hồn chính mình trước hiện thực rộng lớn liên tục đổi thay. Nếu “Chí Phèo” là một câu hỏi đau đáu, vang vọng về số phận bị tước đoạt quyền làm người trong xã hội lúc bấy giờ thì đến với “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, đó lại là những khát khao, ước mơ theo đuổi nghệ thuật, theo đuổi cái đẹp không đúng thời điểm, để khi người đọc nhìn lại, họ lại thấy tiếc nuối cho một thân phận hết mình vì nghệ thuật, để chính ta phải tự hỏi, nếu Vũ Như Tô hay Chí Phèo ở thời ta, liệu những bi kịch ấy có xảy ra hay không? Có lẽ không ai biết được. Vì vậy mà có thể nói, chính những “câu hỏi” đã khơi gợi cho không chỉ cá nhân người viết những suy tư, trăn trở mà đồng thời, nó còn thúc đẩy bạn đọc khám phá, tìm tòi xa hơn những con chữ đơn thuần trên trang giấy, khiến họ tìm được cầu nối tâm hồn với người cầm bút.
Và tất yếu, những câu hỏi không chỉ là những con chữ vô tri, những câu hỏi bâng vơ mà nhà văn tự nghĩ ra, nói như Lê Ngọc Trà thì: “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Bởi những câu hỏi luôn phải bắt nguồn từ những trái tim thổn thức, những tấm lòng luôn hết mình vì cuộc đời và vì con người, nó phải được kết tinh từ trí tuệ của con tim thì mới đủ khả năng đưa tác phẩm lên đến tận cùng của vũ trụ, song hành với con người đến tận mai sau.
Tóm lại, ý kiến của Claudio Magris đã thể hiện đúng đắn về đặc trưng của văn học cũng như thiên chức của nhà văn. Văn học luôn cần đến những “câu hỏi” mà người viết đặt ra để bạn đọc có thể từ đó khám phá được nhiều hơn về tác phẩm và cuộc đời, đồng thời văn học cũng cần đến “câu trả lời” bởi nhờ đó mà ta mới thấy được các khía cạnh khác đến từ lăng kính của người viết. Cả hai “câu hỏi” và “câu trả lời” là những yếu tố then chốt, cần có và nên có trong quá trình sáng tạo để tác phẩm có thể tồn tại đến muôn đời, song hành cùng độc giả và thời đại, để nó mãi sống và neo đậu trong lòng bạn đọc.