Ý nghĩa nhan đề - các tác phẩm trọng tâm Ngữ Văn 9 thi vào 10 năm học 2021
Nhan đề giữ vị trí quan trọng đối với không chỉ người sáng tác mà đối với cả người tiếp nhận. Nhan đề gắn chặt với tìm tòi của tác giả, ở một vài trường hợp như bằng chứng về những đóng góp cụ thể của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Độc giả không biết đến nhan đề, hoặc không xuất phát từ nhan đề - hiệu quả giao tiếp có thể giảm đi khá nhiều. Dĩ nhiên, không phải nhan đề nào cũng thâu tóm đầy đủ tư tưởng chủ đề tác phẩm, biểu hiện nội dung chính văn một cách độc đáo. Nhưng nó thường giữ vị trí quan trọng như những tín hiệu chỉ dẫn con đường đi vào nghệ thuật của tác phẩm. Đặt nhan đề như đặt tên đứa con tinh thần. Trong nhân gian, các bậc cha mẹ đặt tên con phong phú thế nào, thì đặt nhan đề tác phẩm văn chương cũng đa dạng nhường ấy…
1. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng“Chiếc lược ngà” – Nguyễn Quang Sáng (1966)
- “Chiếc lược ngà” là một nhan đề hay, thể hiện sâu sắc nội dung của tác phẩm.
- Đó là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng.
- Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho tác phẩm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý nghĩa:
+ Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật, là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ.
+ Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng tình yêu, nỗi nhớ thương của ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng giân…
=> Với nhan đề này, nhà văn không chỉ nói tình cảm cha con thắm thiết, sâu nặng mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
2. “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải (1980)
- "Mùa xuân nho nhỏ" là một nhan đề hay, một ẩn dụ đầy sáng tạo, giàu ý nghĩa đã góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm - ước nguyện chân thành của nhà thơ Thanh Hải dành cho cuộc đời.
- “Mùa xuân” mang ý nghĩa tả thực – đó là mùa khởi đầu của một năm, là mùa của lộc non lá biếc, của vạn vật sinh sôi nảy nở.
- “Mùa xuân” còn mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người. Mùa xuân hay chính là sức trẻ trong tâm hồn và trí tuệ, là nhiệt huyết và năng lực cống hiến của mỗi người vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, của đất nước.
- Từ láy “nho nhỏ” làm rõ hơn đặc điểm của mùa xuân rất giản dị, rất khiêm nhường.
=> Đặt tên cho tác phẩm như thế, Thanh Hải đã thể hiện ước nguyện, khát vọng khiêm nhường mà rất đỗi chân thành, tha thiết, cao đẹp. Ông ước muốn làm “mùa xuân nho nhỏ”, nghĩa là đem tất cả những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất – dù bé nhỏ - của mình để hòa vào mùa xuân lớn của cuộc đời, của đất nước.
=> Nhan đề bài thơ cũng thể hiện quan niệm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Ai cũng phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho đất nước.
3. “Làng” – Kim Lân (1948)
- Kim Lân không đặt tên cho truyện của mình là "Làng Chợ Dầu", vì nhan đề này thiếu tính khái quát. "Làng Chợ ầu"là một danh từ riêng chỉ một làng quê cụ thể. -> Do đó, tình yêu làng được thể hiện cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân ở một làng quê, một địa phương cụ thể mà thôi.
- Nhan đề "Làng" có tính khái quát cao. Làng là danh từ chung chỉ mọi làng quê trên đất nước ta. Vì vậy, đặt tên truyện là :"Làng", Kim Lân muốn tác phẩm của mình không chỉ thể hiện tình yêu làng yêu nước của một nhân vật ông Hai, mà sâu rộng hơn, tác giả còn muốn nói đến một tình cảm bao trùm, phổ biến – đó là tình yêu làng quê, yêu đất nước - trong mọi người dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp trên khắp mọi miền Tổ quốc.
4. “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long (1970)
- Bề ngoài Sa Pa có vẻ lặng lẽ, thơ mộng. Đó là xứ sở của sương mù, của những dinh thự cũ kĩ, nơi mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi. Ở đó, có những cảnh đẹp nên thơ mê hồn, có những đàn bò lang cổ đeo chuông ung dung gặm cỏ, có những rừng thông đẹp lunh linh kì ảo dưới ánh nắng mặt trời…
- Cái lặng lẽ của Sa Pa còn ẩn chứa sự lặng lẽ âm thầm đầy khiêm nhường mà cao cả của những con người đang ngày đêm nhiệt tình, hăng say lao động góp sức xây dựng cuộc sống mới. Họ là những nhà khoa học không có tên. Tên của họ gắn liền với công việc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn với cách sống, cách nghĩ cao đẹp, đáng khâm phục, đáng yêu, đáng mến. Đó là ng kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa “ngày này sang ngày khác” ngồi cặm cụi miệt mài trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho ho.. Đó là anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét ở trung tâm khí tượng, đã 11 năm không một ngày xa cơ quan, lúc nào cũng luôn trong tư thế chờ sét “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”.
5. “Những ngôi sao xa xôi” – Lê Minh Khuê (1971)
- “Những ngôi sao xa xôi” chỉ là một chi tiết xuất hiện thoáng qua trong kí ức của Phương Định khi bất chợt có cơn mưa đá, gợi cho cô nhớ đến “những ng i sao to trên bầu trời thành phố…những ngọn điện trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích…”.
- Nhưng nhà văn lại lấy hình ảnh này để đặt cho truyện ngắn của mình. Phải chăng đây chính là hình ảnh đầy chất thơ, gợi lên vẻ đẹp tâm hồn trẻ trung, mơ mộng và nhạy cảm của Phương Định? Nó còn có sức gợi liên tưởng cho người về những cô gái trong truyện. Họ đẹp như “những ngôi sao xa x ôi”, ẩn hiện, vượt thoát lên những khói bom, đạn lửa, cái chết để mãi lung linh, tỏa sáng trên bầu trời…
- Như vậy, nhan đề của tác phẩm vừa thể hiện được vẻ đẹp thơ mộng, kì ảo của thiên nhiên Sa Pa, vừa thể hiện được sự cống hiến, âm thầm lặng lẽ nhưng lớn lao, cao đẹp của những con người nơi đây.
- Với việc đặt nhan đề như vậy, phải chẳng tác giả muốn lấy địa danh làm nền để làm nổi bật v ẻ đẹp của con người?
6. “Ánh trăng” – Nguyễn Duy (1978)
- Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước v ẻ đẹp của ánh trăng - người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (“Vọng nguyệt” – “Nhật kí trong tù”). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
+ Trước hết, “ánh trăng” của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sô ng biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với đồng”, Ánh trăng gắn với tuổi ấu thơ của tác giả. Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời.
+ Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn uy sẽ lẫn với vô vàn ánh trăng khác trong thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành “tri kỉ”- người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỉ niệm của thời “ở rừng”. Vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó : “ngỡ không bao giờ quên”.
+ Nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình - kí ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước cam go mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình “ánh điện cửa gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt…. :”đột ngột vầng trăng tròn”. Vầng trăng ấy đã đánh thức kí ức của tác giả. Ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng: không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hi sinh, những tổn thất thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.
Sửa lần cuối: