Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
*GIỚI TRẺ NGÀY NAY*
Có 1 điều tôi không thích mấy ở giới trẻ này nay, lý do như sau:
1/ngang ngược,hổ báo.
2/mùng 2/9 hay 30/4 thì chả biết đó là ngày gì trong khi nói đến lửa chùa phi phai là nói rành mạch thoăn thoắt
3/quay cóp đề thi
4/trẩu
5/bị chửi có tí thì mặt xịu xuống
6/trước nỗi đau của người khác thì họ lại lấy nó ra để làm trò hề
7/lúc nào chửi nhau cũng lôi bố mẹ của nhau ra để chửi
8/các anh hùng, nhân vật lịch sử bị lôi ra để phỉ báng, giễu cợt
9/thường xuyên bắt nạt kẻ yếu hơn mình
10/đc người khác khuyên còn vênh cái mặt ra làm vẻ mặt kinh, cười đểu
Thêm
219
0
1

Thích Văn Học

Sáng tạo nội dung (content)
30/9/21
149
15
18,000
Hà Nội
forum.vanhoctre.com
Xu
954,737
hi, chủ đề này nhiều nội dung quá. Nhưng tiêu đề đặt chưa sát, với lại bạn đăng sai chuyên mục rồi.

10 khía cạnh đặt vấn đề trên thì thuộc số ít thôi. Những cá nhân đó nói riêng, và lứa tuổi được...
 
Chương 1. MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN

1.1. Thuật ngữ “Hình tượng nghệ thuật”

1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật


Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng” [12, tr. 147].

“Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác” [12, tr.147].

1.1.2. Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật

Theo Lí luận văn học tập 1, hình tượng nghệ thuật mang 5 đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất, hình tượng nghệ thuật như một khách thể tinh thần đặc thù: “Gọi là khách thể bởi vì đó là thế giới tinh thần đã được khách thể hóa thành một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người sáng tạo hay người thưởng thức nữa, cũng không gắn liền với quá trình tâm lý, thần kinh của tác giả như trong quá trình sáng tạo” [13, tr.67].

Thứ hai , hình tượng nghệ thuật với tính tạo hình và biểu hiện:

“Tạo hình là việc làm cho khách thể có được một tồn tại cụ thể cảm tính bên ngoài qua chất liệu, là phú cho thế giới những hình tượng khái quát một thể xác, hình hài. Nó bao gồm tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những quan hệ, và rất quan trong là tạo dựng được những con người có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ” [13, tr. 69 - 70].

“Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Biểu hiện gợi lên sự toàn vẹn, đầy đặn của hình tượng, và nhất là thể hiện khuynh hướng tư tưởng tình cảm của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống” [13, tr.70].

Thứ ba, hình tượng nghệ thuật là một loại kí hiệu đặc biệt: “Hình tượng nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu giao tiếp. Bản chất của hiện tượng ký hiệu có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức, sáo mòn. Bản chất sự phản ánh nhận thức có xu hướng tìm tòi cái mới, phát hiện ra cái độc đáo. Từ đó diễn ra quá trình thường xuyên đổi mới và cắt nghĩa lại kí hiệu, sáng tạo ký hiệu mới” [13, tr. 73 - 74].

Thứ tư, hình tượng nghệ thuật là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ: “Trước hết là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với hiện tại mà nó phản ánh, thứ đến, quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa, cuối cùng, quan hệ của các yếu tố của bức tranh đời sống. Chính cái phức hợp quan hệ tạo thành hạt nhân cấu trúc của tác phẩm” [13, tr.74].

Thứ năm, tính nghệ thuật của hình tượng: “Tính nghệ thuật làm tích cực hóa khả năng cảm thụ của con người, nâng họ lên hàng nghệ sĩ, khẳng định vai trò chủ thể của con người trước thế giới (...) Tính nghệ thuật đa dạng như bản thân nghệ thuật. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống nhất hoàn mỹ của nội dung và hình thức nghệ thuât, là sức gây ấn tượng mang tính tư tưởng của hiện thực đời sống, phản ánh được hiện thực nhiều mặt và vận dụng biến hóa không ngừng” [13, tr.78 - 79].

Nếu không có hình tượng thì sẽ không có nghệ thuật. Hình tượng đối với một tác phẩm văn học có vai trò quan trọng, nó không chỉ tái hiện thế giới khách quan, góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tới mọi người. Không những thế, nó còn là tâm hồn, là bản ngã của người nghệ sĩ, là cái tôi, là phong cách của người nghệ sĩ.

1.2. Hình tượng người phụ nữ Nga

Trong những năm gần đây, hình tượng người phụ nữ đã được xây dựng khá toàn diện bởi các nhà văn, nhà thơ. Người phụ nữ xuất hiện với hai nét nổi bật. Thứ nhất, phụ nữ là hiện thân của sắc đẹp. Thứ hai, người phụ nữ cũng là hiện thân cho những số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn của Bunin, ta thường nghĩ ngay tới thế giới nhân vật của ông. Thế giới nhân vật của Bunin xuất hiện nhiều những con người bình thường, họ chỉ xuất hiện trong một vài dòng hoặc xuất hiện trong một vài trang truyện và hầu hết độc giả ấn tượng với người phụ nữ. Khi viết về người phụ nữ, đó là một hành trình khám phá những bí ẩn trong thế giới nội tâm của các nhân vật. Trong văn học, người phụ nữ vừa là chủ thể sáng tác, vừa là trung tâm của đối tượng miêu tả. Mỗi người phụ nữ đều mang trong mình những nét đẹp riêng, không trùng lặp với bất kì ai. Nếu Ph. Đôtxtôiepxki cho rằng “cái đẹp cứu rỗi thế giới” thì I.Bunin lại quan niệm “tình yêu là nhựa sống của con người”. Với quan niệm ấy, vẻ đẹp của những người phụ nữ trong những trang văn của ông được nhìn qua đôi mắt của những chàng trai trẻ và thường gắn liền với tình yêu. Qua đó, người nghệ sĩ có thể viết nên những trang truyện độc đáo mà qua việc đọc các tác phẩm , người đọc có thể thấy được hình tượng những người phụ nữ với những nét đẹp về ngoại hình cũng như những nét đẹp trong tính cách của họ. Trong các tác phẩm của mình, Bunin đã viết rất nhiều về người phụ nữ. Qua khảo sát, chúng ta có thể đề cập đến những truyện ngắn đặc biệt viết về người phụ nữ, cụ thể như sau: “Hơi thở nhẹ, Say nắng, Natali, Một chuyện tình nho nhỏ, Cuộc đời tươi đẹp, Ruxia, Những tấm danh thiếp,..”.

Trong truyện ngắn Ruxia, vẻ đẹp của Ruxia tượng trưng cho nét mỏng manh, trong trắng và trẻ trung của người con gái. Nàng xuất hiện với ngoại hình: “Cô ta tết đuôi sam dài sau lưng, mặt ngăm đen lấm tấm những nốt ruồi đen, mũi dọc dừa thanh thanh, mắt đen, lông mày đen... Mái tóc khô cứng, hơi quăn” [4, tr.239]; “Cả mắt cá chân và bàn chân cô ta đều gày gò trong đôi giày bện, với những khớp xương trồi lên dưới làn da mỏng ngăm đen” [4, tr.240]. Và trong mắt chàng trai đang yêu, những đặc điểm ấy thật đáng yêu. Bên cạnh đó, nhà văn cũng viết về trang phục của nàng: “Nàng đi đôi giày mềm, không có đế, nên toàn thân nàng phập phồng trong tấm xiêm áo dài cụt tay màu vàng ấy. Tấm xiêm rộng, nhẹ nhàng, nên tấm thân thanh nữ thon mảnh của nàng được thoải mái xiết bao” [4, tr.241]. Ngoài những nét đẹp về ngoại hình, vẻ đẹp của Ruxia còn được thể hiện qua việc miêu tả tình yêu của chàng trai dành cho Ruxia. Trong “một hôm dầm mưa ướt cả chân, nàng từ ngoài vườn chạy vào phòng khách, chàng thấy vậy bèn chạy vội đến cởi giày cho nàng và hôn lên đôi bàn chân bé nhỏ, ướt át của nàng và cảm thấy suốt đời mình chưa bao giờ có được niềm hạnh phúc như thế” [4, tr.241]. Ruxia còn giúp người đọc thấy được sự ngại ngùng và bối rối của cô: “Lúc đầu nàng luôn chăm chú nhìn chàng, mỗi khi chàng bắt chuyện thì nàng đỏ mặt một cách kín đáo và lúng búng đáp lại với vẻ giễu cợt” [4, tr.242]. Vẻ e thẹn, nhút nhát này của Ruxia là nét đẹp thường thấy của mỗi người con gái trong tình yêu. Trong con mắt tràn đầy tình yêu của chàng khi ấy: “Trong không gian bóng tối lờ mờ xuất hiện, cặp mắt đen và mái tóc kết thành bím của nàng thật tuyệt diệu. Chàng chẳng dám đụng vào người nàng nữa, chỉ hôn đôi tay nàng và im lặng vì sung sướng vô biên” [4, tr.248]. “Và chàng lại áp môi mình lên tay nàng, đôi khi hôn lên bô ngực lạnh ngắt của nàng như hôn một vật gì thiêng liêng vậy” [4, tr.248]. Khi đang trò chuyện với chàng, Ruxia bỗng hét lên sợ hãi, kéo váy lên đến tận đầu gối, giậm chân hét “Rắn! Rắn”. Chính nỗi sợ hãi của nàng khiến cho chàng cảm thấy choáng váng, ngây ngất và chàng nghĩ rằng nàng còn trẻ con quá. Phụ nữ vốn là phái yếu và sự sợ hãi của Ruxia khiến cho chàng có mong muốn được bảo vệ và che chở cho nàng. Tình yêu của Ruxia đến một cách tự nhiên và trong sáng. Nàng cũng là người con gái chủ động và bạo dạn trong tình yêu, điều đó được thể hiện qua chi tiết nàng chủ động rủ chàng trai hôm nào đó đi bơi thuyền và mạnh dạn hỏi chàng trai “Anh có yêu em không?” [4, tr.246]. Nàng cũng thừa nhận rằng mình cũng yêu chàng trai và giải thích ban đầu nàng cũng ghét anh, được thể hiện qua chi tiết: “Cả em cũng thế, - nàng nói. - Mà không đâu, mới đầu em ghét anh đấy, em ngỡ là anh chẳng chú ý gì đến em cả. Nhưng, ơn Chúa, tất cả những cái đó đều đã qua rồi” [4, tr.246]. Qua đó cho thấy nàng là người phụ nữ chủ động, say đắm trong tình yêu.

Ruxia còn được tái hiện như một thiên thần qua chi tiết : “Mọi chuyện mùa hè năm ấy đều dị thường. Thật lạ lùng rằng chúng chỉ cho mỗi mình nàng lại gần, cúi cong cái cổ dài thanh thanh, từ phía trên nhìn xuống nàng với vẻ rất nghiêm nghị nhưng đầy tò mò hiền lành, khi nàng nhẹ nhàng thanh thoát chạy đến bên chúng, chân đi hài sặc sỡ. Bất thần, nàng ngồi xổm trước đôi sếu, tấm váy xaraphan màu vàng xòe ra trên bãi cỏ xanh ven đầm ẩm ướt, ấm áp; với vẻ say sưa thơ trẻ nàng nhìn vào đôi mắt đẹp đen dữ tợn của chúng, đôi mắt lọt vào giữa mép vòng viền màu xám sẫm”[2, tr.32].

Tất cả những vẻ đẹp trên cho thấy Ruxia là một cô gái hiền từ và thật đặc biệt được thể hiện qua chi tiết chỉ có cô mới có thể lại gần những con sếu. Ruxia là một cô gái trẻ trung, ngây thơ, trong sáng, là biểu tượng cho khát vọng tình yêu, khát vọng được yêu thương. Trong truyện ngắn này, Bunin đã xây dựng hình tượng Ruxia với những nét đẹp tự nhiên, trong sáng, thánh thiện với khát vọng yêu thương bởi tình yêu của nàng với chàng trai trong câu chuyện không thành, họ yêu nhau nhưng không đến được với nhau do sự ngăn cản của mẹ Ruxia. Bà ta coi chàng trai là thằng đểu và không cho phép chàng trai ấy lấy con gái bà và bà đã đe dọa dùng cái chết nếu như Ruxia bỏ nhà theo chàng trai. Tình yêu là thứ tình cảm luôn tồn tại song song trong cuộc sống của mỗi con người, nhưng thay vì lựa chọn tình yêu với chàng gia sư thì Ruxia đã chọn chữ “hiếu” thay vì chữ “tình”. Với Ruxia trong câu chuyện này, chữ “hiếu” nặng hơn chữ “tình”. Nàng chấp nhận hi sinh hạnh phúc của mình để ở bên cạnh và chăm sóc mẹ bởi nếu cô bỏ đi lấy chồng, mẹ cô sẽ phát điên và không thể chịu nổi. Mặc dù yêu nhau nhưng không đến được với nhau, nhưng trong trái tim chàng gia sư kia, nàng mãi mãi là mối tình duy nhất của cuộc đời mình.

Bunin biết khơi dậy trong mỗi nhân vật sự say đắm của tình yêu lứa đôi, khiến cho mỗi nhân vật đều mang trong mình những khát vọng yêu thương và một tình yêu đẹp, thuỷ chung nhưng không kém phần mãnh liệt. Nhưng bên cạnh đó, cũng phải nói đến những cái dang dở của tình yêu, thể hiện ở việc Ruxia và chàng gia sư yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Như trong câu thơ của Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình của văn học Việt Nam đã viết : “Yêu là chết trong lòng một ít” và chúng ta thấy “tình chỉ đẹp khi còn dang dở” nên nhân vật trong truyện ngắn của Bunhin, cụ thể là nàng Ruxia đến với tình yêu mãnh liệt bao nhiêu thì thời gian hạnh phúc và giây phút chia tay càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Đến cuối cùng, thay vì chọn tình yêu, nàng đã chọn người mẹ điên và cô gái này đã ám ảnh chàng suốt cả cuộc đời khiến người vợ phát ghen bởi Ruxia chính là người đầu tiên mang đến cho anh ta hạnh phúc của một tình yêu hồn nhiên và trong sáng.

Trong truyện ngắn Hơi thở nhẹ, I.Bunin đã xây dựng nhân vật Olia Meserskaia là nhân vật trẻ tuổi nhất, xinh đẹp, ngây thơ và vui tươi như một bông hoa rực rỡ trong nắng mai, vẻ đẹp của nàng tượng trưng cho sự thuần khiết, tự nhiên và đầy sức sống của cô gái đang sống trong những năm tháng thanh xuân tươi đẹp. Olia xinh đẹp, đầy sức sống, nhưng nàng lại có cuộc đời bất hạnh. Nhà văn đã khéo léo sử dụng nhiều tính từ để miêu tả vẻ đẹp của cô, trong đó đôi mắt được miêu tả rất nhiều lần và sức thu hút của Olia được khắc họa thành công: “Đôi mắt đầy vui sướng và vô cùng linh lợi”; “ánh mắt sáng long lanh”; “cặp mắt sáng tinh lợi”; “ánh mắt trong sáng”. Vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp không cần chải chuốt mà đó là vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Vẻ đẹp của Olia khiến nhiều người si mê. Nét đẹp tự nhiên, sẵn có ấy được thể hiện ở chi tiết : “Olia thì chẳng e sợ gì, kệ cho có vết mực dây ra ngón tay, kệ cho mặt đỏ gay gắt, đầu tóc rối bù, và khi chạy ngã chân hở ra quá đầu gối cô cũng mặc. Tuy chẳng phải chăm sóc hay cố gắng đặc biệt gì, trong hai năm qua tất cả những gì đã khiến cô nổi bật lên trong trường dường như đã cũng đến với cô một cách hết sức tự nhiên: nào là duyên dáng, thanh lịch, yểu điệu và cặp mắt sáng long lanh”[4,tr. 192]. Olia là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, đằm thắm, quyến rũ nhưng vô cùng trong sáng và đầy sức sống.

Chân dung của Olia được Bunin xây dựng trên phông nền đám đông khi cô hòa mình vào đám nữ sinh mặc đồng phục, khi thì nổi bật lên trong vũ hội, trên sân băng bởi: “Trong các cuộc vũ hội chẳng ai nhảy đẹp bằng Olia, chẳng ai trượt băng nhanh như cô, trong vũ hội cũng chẳng ai được săn đón nhiều như cô, và cũng chẳng hiểu vì sao chẳng ai được các lớp dưới yêu chuộng bằng cô”[4, tr.192]. Xinh đẹp, quyến rũ nhưng cũng có nhiều tiếng xì xào bàn tán nàng nông nổi và không thể sống thiếu những chàng trai dành tình cảm mến mộ cho mình. Bên cạnh đó, hình ảnh Olia còn được Bunin. khắc họa trong khung cảnh khu vườn, trong không gian cứng nhắc, đầy khuôn phép của căn phòng bà hiệu trưởng. Bằng tài năng của mình, tác giả đã tạo nên sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên. Bunin đã vẽ nên không khí trong lành, tươi mát của khu vườn sau cơn mưa, sự tươi mát ấy phù hợp với sự trẻ trung, hạnh phúc của Olia và nàng cảm thấy thế giới này chỉ có một mình nàng. Không khí tươi mát của khu vườn trái ngược với căn phòng cứng nhắc, đầy khuôn phép của bà hiệu trưởng: “sạch như ly như lau” với “đường ngôi đều đặn”, “mái tóc uốn rất khéo của bà hiệu trưởng”, với những lời nhắc nhở nghiêm khắc, mỉa mai của bà. Những chi tiết xung quanh ngoại hình và tính cách của bà hiệu trưởng càng làm nổi bật lên sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ và ngời sáng của Olia. Dường như nhân vật là sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên đất trời, bởi những bước ngoặt trong cuộc đời của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên. Những rung động đầu đời của nàng thiếu nữ Olia cũng diễn ra trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình, mộng mơ. Nàng đã trao thân cho một người đàn ông lịch lãm đã từng trải qua bao sóng gió cuộc đời tại cái khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy. Là người có sắc đẹp, nàng tự cho mình cái quyền được đùa cợt tình cảm với người khác. Và rồi, nàng đã chết dưới họng súng của Kazak, cái chết diễn ra bất ngờ nhưng có lẽ cô gái ấy sẽ không hối hận vì bản thân đã được sống thật với cảm xúc của mình.Vào mùa đông cuối cùng của Olia “có tuyết rơi, có nắng đẹp”. Như vậy, có thể thấy cuộc sống cũng như cái chết của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên như để minh chứng cho một tâm hồn người thiếu nữ trong sáng, tươi vui và tràn ngập sự sống. Thậm chí ngay cả trong bức chân dung trên mộ Olia, ánh mắt trong trẻo, vui tươi của Olia dường như đã làm lu mờ, xua đi sự ảm đạm của những tấm bia đá trong nghĩa trang vào những ngày mùa đông lạnh lẽo.

Hình ảnh hơi thở nhẹ kết thúc câu chuyện, một câu kết thúc rất gợi hình: “Giờ đây cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế gian này, trong bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân giá lạnh này”[4,tr.201]. Hình ảnh Olia đã trở thành yếu tố cân bằng, khẳng định sức sống bất diệt, vượt qua cái chết của tuổi trẻ. Olia là hiện thân cho vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, với những vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, vui tươi, ngời sáng, tràn đầy sức sống và thánh thiện. Không ai có thể ngờ rằng, sự thẳng thắn, mạnh mẽ, bồng bột của một cô gái đang còn ở lứa tuổi học trò lại có thể trở thành lí tưởng sống cho bà giáo viên chủ nhiệm của nàng. Những vẻ đẹp ấy lại có thể mang đến ý nghĩa lớn lao, mang đến sức sống cho tất cả mọi người.

Khác với những nhân vật nữ trong các truyện ngắn khác, nhân vật Naxtia trong truyện ngắn Cuộc đời tươi đẹp hiện lên là một người con gái có ngoại hình đẹp, nhưng khác biệt ở chỗ đó là vẻ đẹp tháo vát, chất phác, đầy sức sống của một cô gái nghèo bị chèn ép, không có nơi bấu víu. Với hoàn cảnh khó khăn, không biết nương tựa bấu víu vào ai, Naxtia phải tìm cách để đứng vững, để sống sót và tự bảo vệ mình trước cuộc sống đói nghèo. Ở truyện ngắn này, người phụ nữ đã xưng “tôi” và kể lại cuộc đời mình. Bunin đã cho người đọc tự hình dung về người phụ nữ qua ngôn ngữ, hành động, những biến cố trong cuộc đời nàng và qua những diễn biến tâm trạng của nàng. Sau khi chứng kiến bố bị bắt đi đày, nàng đã nghĩ: “Rõ ràng là sống với lẽ phải là không được rồi, và rõ ràng là phải tính toán thận trọng mới được” [4,tr.52]. Nàng đã suy nghĩ tới việc phải mau mau lấy chồng, nàng thích một người, rất thích, nhưng anh ta nghèo chẳng kém gì nàng và cuối cùng nàng đã quyết định từ bỏ người mình thích để lấy một người bạn của bố trong thành phố: “Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi bằng lòng, mặc dù dĩ nhiên tôi biết là ông ta đã luống tuổi, rượu chè, tính hay nóng nảy, nó quả đáng là một ông ăn cướp..”[4,tr.52]. Nàng lấy chồng và trở thành một thị dân trong thành phố. Với nàng, tiền là thứ duy nhất đáng được chú ý, nhưng cuộc sống với ông chồng ấy khiến nàng khổ sở, mang tiếng là thị dân nhưng lại nghèo chẳng hơn gì nông dân. “Ờ, may mờ trời cũng còn thương tôi, đem ông ấy đi”[4, tr.53] sau 9 năm khổ sở. Cuộc đời Naxtia là những chuỗi ngày khó khăn và đầy biến động, cha bị đi đày, mất cả ruộng bắp cải sắp đến mùa thu hoạch. Sau khi cha bị đi đày, nàng quyết định lấy một ông chồng đã luống tuổi, tưởng như sẽ được hưởng hạnh phúc với cuộc sống giàu sang. Thực chất lại không phải như vậy, người nàng lấy là một người đàn ông mê rượu chè, tính nóng nảy, nghèo. Người đàn ông ấy đã đeo bám người phụ nữ này suốt 9 năm trời. Tên truyện ngắn là Cuộc đời tươi đẹp, chính nhân vật cũng tự nhận cuộc đời mình tươi đẹp và xưng “tôi” kể lại, nhưng thực chất đó là cuộc sống khổ sở, đầy nỗi đau. Trong truyện hiện lên là nàng Naxtia bản lĩnh, tháo vát nhưng khá tàn nhẫn: Nàng đã làm ngơ trước tình yêu của cậu công tử tàn tật mới qua tuổi 14, tên là Nikanor Matvêits, làm ngơ trước lời van xin của chàng trai đó. Chàng công tử đó mê Naxtia, thậm chí còn cho Naxtia số tiền mà mẹ cậu cho bao năm qua với điều kiện cô hôn chàng một cái. Nàng tàn nhẫn tới mức bình thản trước lời đe dọa sẽ tự tử của cậu và nàng vẫn rời khỏi nhà chủ, mở quán rượu và xây dựng một cuộc sống mới. Naxtia còn ngăn cản con trai bà yêu Phenka - một cô gái theo bà nghĩ đó là “con đĩ trăm thằng”. Sau đó, Naxtia được làm mối cho một ông góa vợ nhưng ông này yêu cầu bà phải từ bỏ đứa con trai của mình và Naxtia đã nhẫn tâm đuổi con trai của mình là Vania đi để có thể thực hiện cuộc hôn nhân này. Đằng sau cái giọng kể lạnh lùng ấy chỉ là vỏ bọc để giấu đi sự khổ đau của cuộc đời người phụ nữ. Đuổi con đi để cưới một người đàn ông góa vợ có điều kiện, nhưng Naxtia vẫn là người mẹ đầy yêu thương dành cho con của mình. Điều đó được thể hiện qua chi tiết: “còn tôi, tuy vốn không phải người mau nước mắt mà đã phải tuôn trào nước mắt. Ngày hôm trước khóc, ngày hôm sau khóc, cứ nghĩ làm sao nó có thể nói với mình những lời lẽ như vậy, thế là lại không cầm được nước mắt” [3, tr. 95]; “Tôi nhìn, nhìn mãi, nghe ngóng rồi đi ra. Và một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lòng tôi! Tôi cố ăn cho xong bữa chiều, dọn dẹp bàn ăn, tắt đèn...Tôi không sao ngủ được và cứ mãi như thế, nằm mà toàn thân rung lên”; “Thế nhưng đôi lúc tôi cũng thấy nhức nhối trong tim(...) cũng lại có lúc tôi buồn nhớ đến thằng Vania” [3, tr.98]. Mặc dù Naxtia đuổi con đi để thực hiện cuộc hôn nhân đầy toan tính với ông chồng khá giả, nhưng trong bà vẫn có tình yêu thương con da diết, khi một mình lại chan chứa nước mắt khóc thầm, do hoàn cảnh đã bắt bà phải lựa chọn từ bỏ đứa con của mình. Chính cuộc sống khắc nghiệt, nghèo khổ đã đẩy người phụ nữ ấy tới sự lạnh lùng, tới những lựa chọn, những mong cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nói đến Bunin, nói đến người phụ nữ, chúng ta không thể không kể đến truyện ngắn Natali. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng hai nhân vật nữ: Natali và Xônhia. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khắc họa thành công nhân vật “tôi” trong mối quan hệ tình cảm với hai nhân vật nữ. Những cảm xúc tình yêu hay những dục vọng xác thịt đều được tái hiện qua mùa hè năm ấy. Xônhia hiện lên là một người quyết liệt chiếm giữ tình cảm của chàng trai. Đối lập với Xônhia lại là hình ảnh cô nàng Natali xinh đẹp, nhẹ nhàng và dịu dàng. Ở nhân vật “tôi” đối với hai người con gái này lại có những cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Đối với Xônhia chỉ xuất hiện tình yêu xác thịt, đắm đuối và mệt nhọc mỗi đêm nhưng đối với Natali thì khác, nhân vật “ tôi” dành sự quan tâm của mình đối với Natali, theo dõi từng cử chỉ cũng như từng bước đi của Natali và giữa họ tồn tại tình yêu trong sáng nhưng cũng rất đau đớn, bởi Natali biết được người con trai mình yêu đang trong mối quan hệ song song với một người con gái khác. Ở nhân vật “tôi” này xuất hiện thứ ý nghĩ muốn được kết hôn với Natali, nhưng hằng đêm nhân vật “tôi” này vẫn chìm đắm trong những ân ái xác thịt với Xônhia. Nhà văn đã tạo nên thành công cho tác phẩm khi xây dựng được những nhân vật đều đẹp và hết sức quyến rũ, họ là những cô gái trẻ trung và rất thu hút ánh nhìn, sự để tâm của mọi người xung quanh.

Hầu hết trong các truyện ngắn của mình , Bunin đã xây dựng những người phụ nữ luôn bị đẩy vào những thái cực cảm xúc trái ngược nên họ có những hành động khó hiểu. Cụ thể, trong truyện ngắn Say nắng hiện lên một thiếu phụ mà ở nàng mọi nét đều rất có duyên. Truyện ngắn này kể về câu chuyện tình yêu ngắn ngủi nhưng tự nhiên giữa chàng trung úy với người thiếu phụ. Câu chuyện tình yêu này diễn ra và kết thúc rất nhanh chóng, chỉ vỏn vẹn trong vòng một ngày, từ trưa ngày hôm trước và kết thúc vào sáng ngày hôm sau. Nàng đã tình nguyện tiến tới cuộc tình chốc lát với chàng trung úy trẻ, để rồi hôm sau lại quay trở về với cuộc sống thường ngày của mình mà không để lại cho chàng trung úy ngay cả cái tên và nàng tự gọi đùa mình là một “người đẹp không quen biết”. Ban đầu, họ chỉ tình cờ gặp nhau và giữa họ chỉ xuất hiện những đam mê về thể xác chứ không hề có tình yêu. Dường như họ chỉ coi đó là giải trí, người phụ nữ còn không hiểu tại sao mình lại có thể đi theo chàng trai và ở cùng chàng trai một đêm. Nhưng sau đó tình yêu bất ngờ trỗi dậy - người ta gọi đó là say nắng, nhưng chính cái say nắng ấy lại ám ảnh anh sĩ quan trẻ tuổi. Chàng trung úy ấy đã yêu người thiếu phụ, yêu một cách si mê, say đắm. Chính sự ra đi của người thiếu phụ ấy đã khiến trái tim chàng trai tan nát, để lại chàng trung úy một trái tim đầy đau khổ với những thiếu hụt và trống trải trong tâm hồn. Dường như, sự gặp gỡ tình cờ giữa chàng trung úy và người thiếu phụ, phải chăng chỉ là cái cớ để Bunin diễn tả sự phong phú trong thế giới nội tâm của con người. Có lẽ Say nắng chính là truyện tình ấn tượng và bất ngờ nhất của Bunin, ở đó người đọc ngạc nhiên, bàng hoàng về một tình yêu trỗi dậy chỉ sau một lần gặp gỡ và ra đi sau một đêm gần gũi.

Hay hình tượng một người phụ nữ nghèo nàn, chất phác trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp. Nàng đã có chồng, là một người hiền lành, tốt bụng nhưng không thú vị và nàng không hề yêu chồng mình. Khi nàng trò chuyện với nhà văn lừng danh, nàng đã châm thuốc hút một cách dũng cảm, rít những hơi nhanh theo kiểu phụ nữ. Do tác dụng của rượu, khuôn mặt nàng đỏ ửng lên, đôi môi cũng hồng hào, cặp mắt mơ màng. Nàng đã đón nhận tình yêu của nhà văn trẻ.Tình yêu của họ đã nảy sinh trên một chuyến tàu tốc hành, ban đầu chỉ là những đam mê thấp hèn, sự đùa cợt, nhưng đến khoảnh khắc phải chia li, chàng đã nhận ra tình cảm của mình.

Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, Bunin cũng khắc họa thành công hình tượng về một cô tiểu thư giàu có đã dứt khoát gạt bỏ về câu chuyện tương lai, nàng luôn dửng dưng, lạnh lùng với anh chàng bảnh trai ấy. Dường như nàng là một cô gái chẳng thiết cái gì cả, bởi những lần chàng trai tặng cô hoa, socola và những quyển sách thì nàng chỉ chìa tay ra cho chàng trai hôn rồi nói cám ơn. Nàng được xây dựng với vẻ đẹp: “khuôn mặt nàng ngăm ngăm màu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ dội vì vừa đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại vừa bóng lên, đôi mắt đen, miệng nàng quyến rũ với đôi môi đỏ thắm mịn màng” [4, tr. 266]. Xuyên suốt truyện ngắn này là hình tượng của người phụ nữ với tình yêu mỏng manh, thoáng chốc có thể tan vỡ và biến mất. Nhà văn đã xây dựng lên hình tượng một cô tiểu thư giàu có luôn dửng dưng, lạnh lùng để rồi lại bất ngờ chấp nhận hiến dâng cho chàng trai ấy với cuộc ái ân chớp nhoáng trong một đêm và từ đó về sau không bao giờ gặp lại anh ta nữa

Bunin đã xây dựng hình tượng những người phụ nữ không muốn xưng tên như “người thiếu phụ vô danh nhỏ nhắn”, “là người đẹp không quen biết” như trong Say nắng. Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, nhân vật người phụ nữ cũng được gọi là “nàng” mà không hề có tên. Những người phụ nữ trong truyện ngắn của Bunin còn rất đặc biệt, họ luôn có những tính cách và những hành động khó lí giải, mỗi người đều có dấu ấn và cách sống riêng nhưng đều là điển hình cho phụ nữ Nga với tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng thương yêu và tràn đầy sức sống nhưng cũng đầy bản lĩnh. Viết về người phụ nữ, Bunin luôn dành cho họ những tình cảm chân thành và thái độ trân trọng qua những số phận và tính cách của mỗi nhân vật. Kết thúc truyện thường là nỗi buồn man mác, nhưng trong truyện ngắn của Bunin, cái buồn ở đây là cái buồn của tình yêu không trọn vẹn. Tình yêu và hạnh phúc trong truyện ngắn của Bunin không bao giờ trọn vẹn, nó luôn bị khiếm khuyết, thậm chí là rơi vào bi kịch, nhưng điều nhà văn hướng tới đôi khi không phải một cái kết có hậu mà là những khoảnh khắc hạnh phúc được sống, được yêu. Nhân vật trong truyện ngắn của I. Bunin thường đến với nhau một cách tình cờ và say mê, chìm đắm trong tình yêu nhưng lại nhanh chóng rời đi, trở về cuộc sống thường ngày của mình một cách lí trí, thậm chí có phần lạnh lùng. Mặc dù chỉ là những cơn say nắng, những tình yêu đến bất chợt, nhưng lại để lại trong trái tim họ những kí ức về tình yêu thật đẹp đẽ, ngọt ngào và để lại dấu ấn đặc biệt trong tâm trí người đọc.

Xuyên suốt các truyện ngắn của Bunin là những câu chuyện tình yêu với khát khao về một tình yêu đẹp, khát khao hạnh phúc cháy bỏng.Vì thế, giai điệu tình yêu trở thành âm thanh chủ đạo trong truyện ngắn của Bunin, có sự cộng hưởng và lan tỏa mạnh mẽ. Nhà văn biết làm thế nào để khơi dậy trong nhân vật của mình sự say mê tình yêu, ham muốn tình yêu và một tình yêu mãnh liệt, chung thủy. Đồng thời, nhà văn cũng đau lòng khi nói đến những điều còn dang dở, buồn, thậm chí là bi kịch của tình yêu. Đắm chìm trong những truyện ngắn về tình yêu của Bunin là nỗi buồn và sự chia ly. Mỗi câu chuyện lại mang trong mình những sắc thái tình yêu khác nhau. Chẳng hạn như cuộc tình thoáng qua trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp; mối tình thực dụng trong Chiếc cốc đời, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối; bên cạnh đó cũng có một tình yêu ngây ngất như Hơi thở nhẹ. Những khoảnh khắc hạnh phúc trong tình yêu của các nhân vật thường rất ngắn ngủi và hầu hết quãng đời còn lại của họ chỉ sống trong nỗi nhớ của những kí ức cũ. Với họ, hạnh phúc trong tình yêu là điều quan trọng nhất. Bởi vậy, người phụ nữ trong truyện ngắn của Bunin luôn mang trong mình khát khao hạnh phúc đến cháy bỏng.

Bên cạnh những khát khao về hạnh phúc ấy, Bunin cũng xây dựng nên những nhân vật mang trong mình những nỗi buồn không tên với những nỗi u sầu mà chỉ đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được. Tóm lại, Bunin đã thể hiện được cái nhìn chiều sâu về con người, đó là những con người thiên về cảm xúc, thường đứng trước nhiều tình huống cảm xúc bất chợt khiến người đọc cũng như nhân vật rơi vào trạng thái ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Người phụ nữ được hiện lên với tất cả những điều chân thật nhất. Nhà văn đã nắm bắt được tâm lí của người phụ nữ nên những nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông đều gắn với tình yêu, dưới con mắt của những chàng trai, để họ tự bộc lộ được những vẻ đẹp cũng như góc khuất trong tâm hồn mình.

1.3. Hình tượng thiên nhiên

Bên cạnh việc khắc họa hình tượng người phụ nữ, những truyện ngắn của Bunin còn xây dựng được những bức tranh phong cảnh man mác buồn, nhưng rất đẹp. Nhà văn đã vẽ được bức tranh thiên nhiên nước Nga không phải đơn thuần như các họa sĩ khác, mà ông vẽ nên bức tranh ấy bằng ngôn ngữ.

1.3.1. Sự trù phú của vùng quê nay chỉ còn trong kí ức

Viết về phong cảnh nông thôn Nga là một đề tài khá quen thuộc đối với các nhà văn Nga, trong đó có I. Bunin, có lẽ người đọc chỉ cần đọc Những quả táo Antonov là thấy được sự say mê cảnh vật, say mê thiên nhiên Nga của Bunin. Khi đọc đến những đoạn văn mà Bunin miêu tả về một vùng quê nào đó, người đọc dễ có cảm giác chân thật, dường như đang được đứng trước nước Nga, đất nước mà mình chưa hề được đặt chân đến. Nhà văn say mê, đắm đuối cảnh sắc thiên nhiên, ông được xem là người “viết về nông thôn Nga, chưa có ai viết sâu sắc được đến thế, có tính chất lịch sử đến thế” [4, tr. 9].

Từ mở đầu đến khi kết thúc tác phẩm, Những quả táo Antonov đã vẽ nên một bức tranh trong tâm tưởng của nhân vật “tôi” về những năm tháng tươi đẹp về quá khứ đã qua: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng Tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố tình rơi xuống cho dân cày cấy...Tôi nhớ lại một buổi sớm sủa, tươi mát, yên tĩnh...Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi hệt như hoàn toàn không có nó nữa, khắp khu vườn âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt” [4, tr.11]. Chỉ với 30 trang truyện, nhà văn đã vẽ nên những bức tranh làng quê, những khu vườn trong kí ức bằng ngôn từ.

Hình ảnh làng quê trong Những quả táo Antonov là một làng quê trù phú, tươi vui và hạnh phúc. Đó là một thế giới huyền diệu tràn ngập mùi vị, hương sắc và âm thanh: “mùi lúa thơm ngát tỏa ra từ những đống rơm mới và những đống thóc lép trên sân phơi”; “mùi khói thơm nức của những cành anh đào tỏa ra nồng nặc”; “bừng bừng một ngọn lửa đỏ ối giữa tăm tối trập trùng”..Những bức tranh thiên nhiên trong truyện ngắn của I.Bunin hiện lên đa sắc màu, đẹp và buồn gắn với tâm trạng con người. Mùi vị, hương sắc, ánh sáng, âm thanh đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên thanh thoát, trữ tình. Bằng tài năng của mình, Bunin đã hòa được màu sắc và ánh sáng để tạo nên những tác phẩm sinh động, tinh tế.

Cảnh vật cứ hiện lên tầng tầng, lớp lớp, theo dòng kí ức cái nọ gọi cái kia về. Truyện ngắn này không có thời gian cụ thể, chỉ là những mốc thời gian rất chung chung: “tôi hồi tưởng lại một năm được mùa ấy”; “và tôi còn nhớ hồi ấy”...diễn tả khoảng thời gian xảy ra mọi chuyện nhưng là hoài niệm của tác giả về khoảng thời gian đã qua. Với lối viết này, mặc dù đang sống ở hiện tại, nhưng nhà văn có thể trở lại quá khứ với vùng quê trù phú ấy một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỉ niệm. Phải là người có tình cảm dạt dào với quê hương đất nước, hiểu được những quy luật của tạo hóa và có tâm hồn nhạy cảm như Bunin mới có thể viết được những trang truyện về con người và thiên nhiên sâu sắc đến như vậy.

Trong truyện ngắn Những quả táo Antonov, nhà văn đã vẽ nên nhiều bức tranh, có thể kể đến bức tranh vườn táo vào mùa thu hoạch, bức tranh làng quê khi màn đêm buông xuống hay bức tranh vào ngày mùa, bức tranh về một cuộc đi săn và bức tranh miêu tả sự tàn tạ của vùng quê đã từng giàu có, phát triển. Ở phần một, táo Antonov hiện ra trong không gian mùa thu trong lành. Ở phần hai, táo Antonov xuất hiện trong sự hồi tưởng của nhân vật tôi về một năm được mùa: “Táo Antonov mẩy, cả năm thảy đều vui. Nếu táo Antonov sai quả thì công việc nông thôn sẽ tốt, bởi vì có nghĩa là lúa cũng sẽ được mùa... Tôi hồi tưởng lại một năm được mùa ấy” [4, tr.16]. Trong phần ba, khi lang thang trong khu vườn vào một buổi sáng ngủ quên đi săn, nhân vật “tôi” cảm nhận được hương vị của quả táo dường như đã bị lãng quên: “Trước mắt ta là cả một ngày yên tĩnh trong khu điền trang đã im lìm trong những ngày đông. Ta sẽ thong thả mặc quần áo, đi dạo trong vườn, vớ được trong đám lá ẩm một quả táo, ngẫu nhiên bị bỏ quên, đã ướt lạnh và không hiểu tại sao ta thấy quả táo này ngon khác thường, hoàn toàn không giống như những quả táo khác” [4,tr.30]. Những bức tranh được nhà văn vẽ nên bằng ngôn ngữ tưởng như không liên quan tới nhau, nhưng không, tất cả những bức tranh được bao trùm bởi nỗi tiếc nuối và man mác buồn. Mặc dù có sự xáo trộn về không gian, thời gian nhưng mỗi bức tranh dường như đều có sự tách biệt. Các gam màu trong những bức tranh ấy thống nhất trên những phông nền. Các bức tranh được đặt cạnh nhau, đối sánh nhau, không chồng chất lên nhau cho thấy sự biến đổi âm thầm nhưng rõ nét đến xót xa của làng quê Vyselki. Với việc vẽ nên những bức tranh gắn liền với tâm trạng, nhà văn đã thể hiện được những suy ngẫm của mình về quá khứ và tương lai, về nỗi buồn và sự suy thoái của nước Nga.

Mặc dù tác giả không nêu tên địa danh cụ thể nhưng ông đã để cho những cô gái và những người đàn bà xuất hiện, đó là những gương mặt vừa lạ lại vừa quen: “Những cô gái thuộc các hộ tiểu nông vẻ hoạt bát, mặc những tấm xiêm cụt tay nức mùi thuốc nhuộm (...) và có mặt cả một bà lí trưởng trẻ măng, đang có chửa, mặt phèn phẹt, bơ phờ và bộ điệu quan trọng như một con bò cái vùng đồi núi” [4, tr.13]. Nhà văn đã để cho nhân vật của mình đột nhiên xuất hiện, xuất hiện như thể chính người đọc cũng quen biết họ từ rất lâu rồi. Họ được miêu tả khá cụ thể nhưng lại không có tên, mà được gọi bằng những cụm từ chung chung: “người thị dân”, “bà lí trưởng”, “bác nông dân được giao việc đổ táo”... Có thể hiểu đây chính là những người dân ở vùng quê của nhà văn. Việc miêu tả quê hương với sự góp mặt của những người ông từng quen khiến cho truyện ngắn trở nên gần gũi với người đọc.

Xuyên suốt truyện ngắn này ta có thể nhận thấy tình cảm dạt dào, thiết tha, trìu mến của nhà văn đối với quê hương mỗi khi nhớ về. Khi vùng quê ấy trù phú hay khi nó trở nên tàn tạ thì đó vẫn là những hình ảnh đầy yêu thương, khắc sâu trong trái tim người nghệ sĩ xa quê hương. Qua cái nhìn của một nhà văn lưu vong, những hồi ức về một làng quê đã được khái quát hóa trở thành biểu tượng của làng quê nước Nga. Sau chiến tranh, ông đã nhiều lần có ý định trở về với mảnh đất quê hương, nhưng tuổi tác đã không cho phép ông thực hiện được nguyện vọng của mình. Và người ta vẫn luôn nhớ tới câu nói của ông trước khi chết: “Làm sao chúng ta có thể quên Tổ quốc? Con người có thể quên Tổ Quốc được không? Tổ Quốc ở trong tâm hồn mình. Tôi là một người rất Nga. Điều đó dù bao nhiêu năm cũng không mất đi được” [4, tr.7]. Những dòng văn trên cho ta thấy được những tâm sự chất chứa trong lòng Bunin, dường như đến khi chết, ông vẫn không thể quên được quê hương dù cho bao nhiêu năm về sau bởi quê hương luôn ở trong tâm hồn mỗi con người chúng ta. Bởi quê hương không chỉ là nơi sinh ra, nuôi ta khôn lớn mà còn là cái nôi hun đúc nên bản chất của mỗi con người. Với tài năng của mình, Bunin đã khiến cho Gorki phải thừa nhận rằng: Bunin là “bậc thầy hàng đầu trong văn học Nga hiện đại?” [4, tr.9].

Viết về những bức tranh phong cảnh nông thôn nước Nga sống động, đẹp ngỡ ngàng, ta có thể dễ dàng tìm thấy trong nhiều truyện ngắn của Bunin: “Làn không khí trong lành, ánh mặt trời nhợt nhạt còn vương lại, những đám mây trắng bồng bềnh cuộn tròn mờ mờ hiện ra trên nền trời và dưới mặt nước xen giữa những đám cỏ gấu và hoa súng; trên hồ chỗ nào cũng nông đến nỗi có thể nhìn rõ đáy với đám rong rêu mọc ngầm dưới nước, tuy nhiên đáy nông cũng không làm mất đi vẻ sâu thăm thẳm của bầu trời và mây đã in hình trong đó” [2, tr.26 ].

1.3.2. Sự tiêu điều xơ xác

Trong truyện ngắn Những quả táo Antonov, hình ảnh khu vườn được xây dựng như hình ảnh tượng trưng cho nước Nga, nổi bật lên hương thơm khác thường của táo Antonov. Hương vị ngọt ngào của quá khứ trở thành sợi dây liên kết truyện ngắn này thành một chỉnh thể. Ở đầu chương bốn, Bunin viết: “Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi”[4, tr.33], điều đó khiến người đọc nghĩ tới tất cả đã thay đổi và tất cả dường như đã lùi vào dĩ vãng xa xăm và bắt đầu cho sự xuất hiện của một thời đại mới.

Truyện có kết cấu mở đầu - kết thúc khá đặc biệt. Mở đầu truyện là chi tiết: “Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng Tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp...” và kết thúc bằng chi tiết: “Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...”. Qua hai chi tiết trên thấy được, nhà văn hướng cái nhìn của mình ra cảnh vật, hướng về bức tranh phong cảnh không phải là đứng yên mà là đang vận động. Bức tranh có sự vận động từ mùa thu tươi mát tới tuyết phủ lớp lớp trong mùa đông. Đó cũng chính là sự vận động của làng quê nơi nhà văn sinh ra đang ngày càng tiêu điều, xơ xác. Nếu như mở đầu nhà văn có những hồi tưởng đẹp về mùa thu nước Nga với giọng điệu phấn khích thì về sau âm điệu dường như chùng xuống với nỗi xót xa và nuối tiếc về sự trù phú trước kia: “Và những người khác rời rạc, làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng, ủ dột và tuyệt vọng:

Cánh cổng ta mở toang hoang

Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...” [4, tr.38]

Có thể hiểu con đường tuyết phủ này là hình ảnh tượng trưng cho con đường trở về với cuộc sống trong quá khứ. Cuộc sống tươi đẹp và trù phú ấy bây giờ dường như đã trở nên xa lạ và chỉ còn được tái hiện qua hồi ức của con người. Hoặc cũng có thể hiểu con đường tuyết phủ này là con đường tương lai chưa thể đoán trước được. Bên cạnh đó, con đường tuyết khiến người đọc có cảm giác về một không gian lạnh lẽo, mờ mịt, hơn nữa nó còn có tác dụng tô đậm không khí buồn, tiếc nuối và hụt hẫng của Bunin. Truyện không có khởi đầu, cũng không có kết thúc, nó đang và sẽ tiếp tục trong không gian của kí ức.

Viết về vẻ tiêu điều của những nông trại có thể thấy được trong nhiều tác phẩm của Bunin. Rõ nét nhất phải nói tới truyện ngắn Ngày cuối cùng. Cuộc sống giàu có trước đây chỉ còn mờ nhạt trong những mảnh giấy dán tường đã bị xé rách, trong hình ảnh nền nhà gỗ nứt nẻ, những mảnh kính nứt vỡ, những bức tranh tối xỉn... bị chính con người cố tình tàn phá, vùi dập. Trong truyện ngắn Lần gặp gỡ cuối cùng, Những tấm danh thiếp, chỉ với một vài chi tiết nhỏ, nhà văn đã hé mở cho người đọc thấy được cảnh phá sản của một tầng lớp, kéo theo nó là những liên tưởng tưởng tượng về một thời đại đã là dĩ vãng và không thể lấy lại được.

Bằng tài năng của mình, Bunin đã vẽ nên những khung cảnh bằng ngôn từ, hiện lên cho người đọc thấy được những bức tranh sống động, quen thuộc khiến người đọc ngạc nhiên đến ngỡ ngàng bởi đã gặp ở đâu đó, thậm chí ngỡ như đó là khung cảnh nơi mình đang sinh sống. Với những chi tiết cụ thể, chân thực nhưng lại không thuộc về địa danh nào, nó có thể là một vùng quê bất kì trên đất nước Nga: “Nhưng rồi xe cũng lên tới đỉnh dốc và chạy lộc cộc trên đường phố, qua một quảng trường nho nhỏ nào đó, những công sở, tháp cao, cái ấm áp và mùi vị của một phố huyện vào một đêm hè” [2, tr.36]. Không gian và thời gian vừa cụ thể vừa mơ hồ góp phần đem lại sức sống lâu bền cùng với những thế hệ sau.
Thêm
  • Like
Reactions: Vanhoctre
1K
1
1

Khánh Nguyễn

Thành Viên
9/8/23
7
8
3,000
Hồ Chí Minh
Xu
167,198
1.4. Hình tượng người nông dân

Không phải ngẫu nhiên mà người đọc gọi Bunin là nhà văn của nông thôn Nga. Nếu như Êxênhin được mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng ruộng Nga” thì Bunin...
 
Tiếp theo chủ đề Thực dân Pháp đối tượng phản ánh của thơ ca trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX. Hôm nay Triều Anh xin mời bạn đọc cùng tiếp tục tìm hiểu thêm một đối tượng phản ánh của thơ ca trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX. Đó chính là vua quan triều đình nhà Nguyễn.


Cuối thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn bất lực, bạc nhược đã dâng đất đầu hàng thực dân Pháp. Sau khi Pháp đặt xong bộ máy cai trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều biến đổi từ chính trị, kinh tế và cả đời sống văn hóa. Hình thái xã hội thay đổi, kéo theo lớp người mới được hình thành. Họ tham sống sợ chết, tham bả vinh hoa, tham quyền thế và tiền tài mà chịu chữ đầu Tây. Lớp người này xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành bọn chó săn khát máu của thực dân Pháp. Với hành động phản quốc đớn hèn của bọn sợ Tây, đầu hàng Tây, các nhà nho yêu nước đã công khai lên tiếng tố cáo, phê phán bằng những dòng thơ đậm chất trào phúng. Hàng loạt những nhà thơ như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Huỳnh Mẫn Đạt, Học Lạc, Nhiêu Tâm...đều lên tiếng tố cáo những ông quan triều đình nhà Nguyễn nhu nhược bất tài từ kinh thành cho đến các thôn ấp.


Xem thêm
Diện mạo thơ trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX
Diện mạo thơ trào phúng Nam Bộ (phần 1)
Các nhà thơ trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX
Các công trình nghiên cứu thơ trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỉ XIX

Một trong những nhà thơ sớm lên tiếng bất bình phải kể đến Phan Văn Trị. Ông là tác giả có nhiều bài thơ đả kích, chỉ trích hành vi hèn nhát, bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn. Cử Trị từng cười thẳng vào mặt các ông quan triều đình trong bài Mất Vĩnh Long: Tan nhà cám nỗi câu li hận/ Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa/ Gió bụi đòi cơn xiên gió ngã/ Ngậm cười hết nói nỗi quan ta. Cảnh khốn cùng đến phải tan nhà nát cửa, biệt ly, sầu hận mà người dân phải chịu đều do sự nhu nhược, đớn hèn không dám cùng nhân dân đánh Tây của quan ta. Vì vậy bốn câu cuối trong bài Mất Vĩnh Long người đọc thấy rõ tấm lòng đau đáu của tác giả trước an nguy của đất nước của nhân dân. Bài thơ còn là lời bất bình của Cử Trị đối với quan quân triều đình. Ở một bài thơ khác, Phan Văn Trị cũng đã viết: Muỗi hỡi! Thân mi sướng mọi điều!/ Thiếu chi chi nữa lại còn kêu?/ Giường ngà chiếu ngọc từng nương dựa/ Má phấn môi son cũng ấp yêu/ Béo miệng chẳng thương con trẻ dại/ Cành hông nào đoái chúng dân nghèo/ Ngày nào miễn gặp cây xơ quất/ Xử tội nhà ngươi mắt chẳng nheo! (Con muỗi). Phan Văn Trị đã mượn hình ảnh con muỗi hút máu người để lên án hành động vô nhân tính của bọn Kí lục, Thông ngôn, Chánh học,...Chúng là những Hợp Cương, Tổng Ca, Hợp San, Tổng Trinh, Thủ Nho, Tôn Thọ Tường, Nguyễn Trực, Nguyễn Văn Nguyện,...dựa hơi Tây mà “béo miệng” “cành hông”. Nhà thơ đã dõng dạc tỏ rõ sự phản kháng mạnh mẽ của mình bằng ý muốn dùng cây xơ quất để xử tội bọn bán nước hại dân.

Giống như Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa đã nói lên tiếng nói mỉa mai của mình trước quan nhà Nguyễn đớn hèn vô tích sự: Ai khiến thằng Tây tới vậy cà? Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba/ Hẳn hòi ít mặt đền nợ nước/ Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà (Ai xui Tây đến). Từ khi Tây đến, cuộc sống an nhàn của nhân dân bỗng chốc dậy phong ba. Đất nước lâm nguy, nhân dân rơi vào cảnh lầm than, ly hận. Đây là lúc “những trang tuấn kiệt” phải trả thù nhà đền nợ nước, đem lại cuộc sống bình an cho nhân dân. Thế mà chỉ thấy có “ít mặt”. Còn những tay “bận việc nhà” vì lý do như mẹ già, con thơ nên không thể cùng chiến tuyến với dân cứu nước thì nhiều vô số kể. Từ “nháo nhác” được dùng rất đắc địa đã tố cáo bản chất hèn nhát, sợ sệt trước uy vũ của “tàu thiết tàu đồng”. Bọn chúng không ai khác hơn là bọn quan triều đình, ngày lo mặc ấm, tối ngủ chăn êm nhưng thật vô tích sự.

Có phần mãnh liệt hơn Phan Văn Trị và Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Huân trong bài Mang gông đã thẳng thắn phê phán hành vi phản quốc của một bộ phận ông quan: Thắng bại, dinh hư trời khiến chịu/ Phản thần đéo hỏa đứa cười ông. Trước khi bị hành hình, Nguyễn Hữu Huân đã làm bài thơ tuyệt mệnh này để tỏ rõ ý chí kiên cường và thái độ bất hợp tác với giặc. Hơn thế, ở hai câu cuối, người anh hùng Nguyễn Hữu Huân đã lên án và khinh miệt, chửi thẳng mặt bọn phản quốc theo giặc cam tâm làm trâu ngựa cho Pháp mà giày xéo quê hương.

Thể hiện rõ thái độ phê phán triều đình phong kiến nhu nhược, Huỳnh Mẫn Đạt viết: Dãi dầu giúp kẻ khi soi tối/ Giúp nước vui người buổi khát trưa/ Rường cột miếu đường không xứng mặt/ Chống ngăn bờ cõi cũng bừa bừa (Cây dừa). Tác giả ví mình như cây dừa - loài cây đặc trưng của miệt vườn Nam Bộ. Cây dừa không chỉ có bề ngoài ưa nhìn mà còn có rất nhiều trái ngon. Đặc biệt, dầu dừa còn là chất đốt thắp sáng cho người dân khi tối trời. Qua việc miêu tả cây dừa, Huỳnh Mẫn Đạt đã tỏ rõ mong muốn “dãi dầu giúp kẻ khi soi tối”, được góp phần tài hèn sức mọn của mình cho đất nước nhân dân. Thế nhưng, người Nam Bộ lúc bấy giờ còn phát hiện ẩn ý của nhà thơ được thể hiện qua câu 7, 8: Rường cột miếu đường không xứng mặt/ Chống ngăn bờ cõi cũng bừa bừa. Gỗ cây dừa rất xốp, không thể dùng để làm rường cột cho nhà ở hoặc miếu đường nhưng có thể dùng để làm bờ giậu để chống ngăn chó mèo,...Lời thơ chỉ là nêu công dụng của gỗ cây dừa. Vậy mà Huỳnh Mẫn Đạt lại dùng các từ “rường cột”, “miếu đường”, “bờ cõi” thì thật là có gì đó bất hợp lí. Cũng từ điểm bất hợp lí này, ta hiểu thêm một tầng nghĩa nữa được ẩn giấu dưới sau lớp nghĩa tả cây dừa. Tác giả tự nhận mình là tài hèn sức mọn, không đủ sức làm nên “rường cột miếu đường”, ông “chưa xứng mặt” để làm chuyện lớn lao. Nhưng nếu để “chống ngăn bờ cõi” thì cũng “bừa bừa”. Hóa ra Huỳnh Mẫn Đạt đang vạch trần bản chất vô tích sự của vua quan bất tài; đồng thời thể hiện rõ mong muốn được dùng tài hèn sức mọn mà bảo vệ nước nhà trong cơn li loạn. Ý muốn này đã cho ta thấy rõ quan niệm đứng hẳn về phía nhân dân mà phản đối hành động lần lượt cắt đất cầu hòa của vua quan triều đình nhà Nguyễn. Vì vậy bài thơ là lời oán trách, chế giễu của tác giả đối với triều đình. Dám nói lên tư tưởng của mình như thế khi vẫn còn làm quan tại triều, cho thấy một Huỳnh Mẫn Đạt khí khái, bản lĩnh ngay cả trong cuộc sống, sự nghiệp làm quan và trong thơ

Cùng phản ánh bản chất của bọn vua quan triều đình nhà Nguyễn nhu nhược bất tài, Bùi Hữu Tú viết: Hồ ly mi ở rất vô nghì/ Ngọc đế rơi đầu lỗi tại mi!/ Hiển hích Trung tôn ngồi ngủ gục/ Linh thiêng Hộ pháp đứng từ bi/ Ông Tiêu lè lưỡi coi lên lạ/ Chú Ác vinh tay ngó rất kỳ/ Bắc đẩu ở kề không tiếp cứu/ Nam tào hầu cận chẳng linh chi (Hồ Ly). Mượn chuyện hồ ly vào chùa ăn quả trên bàn phật, Bùi Hữu Tú có dịp phơi bày toàn bộ bản chất của các vị thánh thần tiên phật ở cõi trời. Từ Ngọc Hoàng đại đế đến Nam Tào, Bắc Đẩu thực ra chỉ là phỗng đá mà thôi. Bởi phò trợ Ngọc Hoàng là Trung Tôn thì đã “ngồi ngủ gục”, còn Hộ pháp hai bên thì chỉ đứng “từ bi” (không can thiệp hay trách phạt). Hàng loạt các vị thánh thần tiên phật khác như ông Tiêu, chú Ác, Bắc Đẩu, Nam Tào theo hầu cận Ngọc Hoàng cũng chỉ ngó mắt trông mà lắc đầu lẽ lưỡi, tuyệt nhiên “chẳng linh chi”, không giúp ích được gì cho Ngọc Hoàng. Đến đây, có thể thấy, bài thơ Hồ Ly của Bùi Hữu Tú mang giá trị trào phúng rất cao. Thông qua hình tượng Ngọc Hoàng và các vị tiên phật thánh thần ở cõi trời, tác giả đã phơi bày sự bất lực đến bù nhìn của vua quan triều đình nhà Nguyễn. Trước nạn ngoại xâm, chúng chẳng được tích sự gì, chỉ như “ông phỗng đá” cứ mặc cho “non nước đầy vơi”.

Một bài thơ khác khuyết danh tác giả được làm trong giai đoạn này cũng thể hiện rõ thái độ phê phán triều đình nhà Nguyễn bỏ mặc nhân dân trước họa ngoại xâm: Muôn dê bao sá loài Hồ lỗ/ Một tưởng hàng vương, một nghiến răng (Tô Vũ, khuyết danh). Bài thơ lấy tích Tô Vũ chăn dê để nói lên tâm sự của tác giả trước thời cuộc. Mượn chuyện Tô Vũ, tác giả khuyết danh ẩn ý nhắc đến thời điểm nguy nan của đất nước. Thực dân Pháp đã đánh chiếm Nam Kì lục tỉnh, người thì ẩn nhẫn chờ thời, kẻ đang tâm bán rẻ lương tri đi làm tay sai cho giặc. Nhiều sĩ phu yêu nước giữ vững “lòng son” với đất nước nhân dân như Tô Vũ thà chịu chăn dê chứ không đầu phục Hung nô. Đây cũng là ý chí, quyết tâm của những người yêu nước lúc bấy giờ. Hai câu cuối của bài thơ giúp người đọc nhận rõ quan niệm của các sĩ phu trước thời cuộc. Họ thà chọn “chăn dê” sá chi sự hung hăng tàn ác của loài “Hồ lỗ”/ Pháp. Mỗi khi tưởng đến chuyện “hàng vương” họ cũng “một nghiến răng”. Hành động “nghiến răng” đã tỏ rõ thái độ không thuận, “không phục” trước quyết định đầu hàng giặc của Tự Đức. Nói cách khác, tác giả đã vạch trần bản chất yếu hèn nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn trước thực trạng đất nước lâm nguy.

Góp thêm tiếng nói đả kích các ông quan, Học Lạc đã dũng cảm gọi cả tên họ, danh phận của những kẻ tham quan. Theo lời dẫn của Huỳnh Mẫn Chi, năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương, một nhóm nhà báo từ Sài Gòn - Gia Định xuống Cai Lậy - Mỹ Tho gặp ông giáo Nguyễn Văn Nhã. Trong buổi gặp gỡ ấy, các nhà báo đã được nghe một số bài thơ trào phúng rất thú vị. Ông giáo Nguyễn Văn Nhã khẳng định là do Học Lạc sáng tác. Vì bài thơ đã chửi thẳng tên tuổi của các ông quan nên đành không đề tên tác giả. Nếu quả thực, Ông thượng Nguyễn là của Học Lạc, đọc xong thơ, ta càng thấy bản tính không biết sợ của nhà thơ. Học Lạc viết: Nghĩ thương ông thượng Nguyễn Kim Tri/ Khôn khéo không ai dám sánh bì/ Gói bánh bon chen bưng dưới chợ/ Trồng trầu tái mót bán trong ty/ Bề nhà đầy đủ cho vừa vợ/ Việc nước hư nên chẳng thiết gì/ Cái án họp binh nên xẻ thịt/ Đành ăn hối lộ lại tha đi!. Nguyễn Kim Tri chính là quan Tổng đốc phủ Định Tường. Ông ta nổi danh là một kẻ hà tiện và khét tiếng tham ô. Thay vì cung phụng chiều chuộng thương yêu vợ con hết mực, hắn đã bắt họ phải làm việc như kẻ ăn người ở trong nhà. Buộc vợ con phải gói bánh đem chợ bán. Hắn ta còn bắt lính thay vì ngày đêm rèn luyện võ nghệ, giúp đỡ dân lành thì phải trồng trầu ngay tại nơi làm việc để có thêm thu nhập. Cặp mắt tinh đời của Học Lạc còn quan sát thấy Nguyễn Kim Tri chỉ có tài bắt nạt vợ, ngoài ra “việc nước hư nên” hắn đều chẳng quan tâm đến. Để minh chứng cho lời nói của mình, Học Lạc đã chỉ ra minh chứng: “Cái án họp binh” nên xử thật nặng tội thì chỉ cần có đưa hối lộ là quan Thượng “lại tha đi”. Câu kết nghe như là thật tình kể về một vụ xử án của quan Thượng Nguyễn, thế nhưng bằng ngòi bút trào phúng bậc thầy, Học Lạc lại tố cáo, vạch trần thêm một cái tội của Nguyễn Kim Tri - tội ăn hối lộ, một trong những trọng tội của xã hội lúc bấy giờ.

Một bài thơ khác cũng được ông Nguyễn Văn Nhã cho là của Học Lạc, đó là bài Vịnh quan hùng dõng Nguyễn Công Nhàn (Quan hùng dõng). Bài thơ có nhan đề về một vị quan hùng dõng, thế nhưng khi đọc thơ, ta mới thấy cách nói ngược của quán ngữ Nam Bộ được Học Lạc vận dụng hiệu quả: Có quan hùng dõng Nguyễn Công Nhàn/ Hùng dõng nhưng ngài cũng ít gan/ Giặc tới Bến Tranh run lập cập/ Tàu vô cửa Tiểu chạy bò càng!/ Mưu thần trước biết ngăn sông chặn/ Kế giữ sau toan đóng cửa hàng/ Thất thủ muốn liều cho rỡ tiết/ Ngặt vì con, vợ bận chưa an. Bài thơ có kết cấu như một truyện cười của văn học dân gian. Câu thơ mở đầu chắc đã làm cho quan Hộ đốc Nhàn ưỡn ngực lên vì tự đắc. Thế nhưng ông chưa kịp khoe khoang với mọi người thì Học Lạc đọc luôn một tràng các câu thơ trái ngược với biểu hiện “hùng dõng”. Trong lúc quan quân cùng nghĩa quân và nhân dân dũng cảm đánh giặc thì Hộ đốc Nhàn lại “run lập cập” mà “chạy bò càng”. Lẽ ra với chức Tổng đốc phủ Định Tường (Mỹ Tho), hắn phải hùng dũng điều binh khiển tướng cùng chung sức bảo vệ từng tấc đất ngọn rau của quê hương xứ sở. Vậy mà, dù đã bày mưu lắp sông ngăn bước tiến của giặc, Nguyễn Công Nhàn “hùng dõng” đến mức sợ hãi mà bỏ trốn. Đọc đến đây, người đọc mới vỡ lẽ về một ông quan “hùng dõng” thứ thiệt. Chính vì sự “hùng dõng” của hắn mà quân ta thua trận thảm bại.

Thẳng thắn lên tiếng tố cáo bọn “quan tay sai”, Phan Văn Trị đã đi đầu trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường. Vốn bản tính ranh ma xảo quyệt, tên họ Tôn đã thanh minh, biện minh cho hành động theo Tây của mình là “bất đắc dĩ”, là “vì nước vong thân”. Vì vậy ở các bài Tôn phu nhân quy Thục, Từ Thứ quy Tào và 10 bài Tự thuật hắn đã tung hỏa mù nhằm lấy “vải thưa che mắt thánh” để tranh thủ sự ủng hộ của người dân. Hiểu được sự gian xảo của Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị đã quật cho hắn những đòn quyết liệt thích đáng. Trong bài thơ Tôn phu nhân quy Thục, tác giả đã phản đòn bằng cách dùng lại tích em gái Tôn Quyền sang nhà Thục. Việc dùng lại điển tích này chủ đích Phan Văn Trị ca ngợi tấm gương nữ lưu hào kiệt, từ đó dạy cho Tôn Thọ Tường một bài học “vỡ lòng”: Hai vai tơ tóc bền trời đất/ Một gánh can thường nặng núi sông/ Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết/ Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng! (Tôn phu nhân quy Thục, Họa thơ Tôn Thọ Tường). Sau khi khẳng định Tôn phu nhân là một tấm gương tốt đẹp về hành động vì nghĩa vong thân, Phan Văn Trị đã mượn lời vị nữ lưu này dạy dỗ Tôn Thọ Tường phải Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng. Câu thơ cuối đã thể hiện rõ hàm ý phê phán hành động bán nước hại dân của Tôn Thọ Tường. Lần khác, họ Tôn biện bạch việc theo Tây chẳng qua là giống với Từ Thứ quy Tào. Phan Văn Trị cũng dập lại luận điệu xảo trá của hắn bằng bài thơ Hát bội, một đề tài không ăn nhập gì với chuyện “quy Tào” của hắn. Nhà thơ đã ví Tôn Thọ Tường như phường hát bội: Đứa ghẻ ruồi, đứa lác voi/ Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi (Hát bội). Hai câu thơ đã vạch rõ bộ mặt gớm ghiếc của bè lũ tay sai bán nước Tôn Thọ Tường. Dù hắn có che đậy bằng bao nhiêu xiêm áo đẹp thì bản chất “ghẻ ruồi” “lác voi” làm cho chúng càng xấu xa. Cuối bài thơ, Phan Văn Trị viết: Hèn chi chúng nói bội là bạc/ Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi (Hát bội). Quả thật đây là ngón đòn hiểm mà Phan Văn Trị dành riêng cho Tôn Thọ Tường. Nhà thơ đã vạch trần bản chất “bội là bạc” của tên bán nước hại dân vô liêm sỉ. Bởi chỉ có những kẻ như hắn mới “bôi mặt đánh nhau”, “gà nhà đá gà nhà” mà thôi. Ngoài Tôn phu nhân quy Thục - Họa thơ Tôn Thọ Tường và Hát bội, Phan Văn Trị còn họa lại 10 bài Tự thuật của Tôn Thọ Tường. Nhà thơ đã xông trận bằng việc xuất khẩu thành thi 20 bài họa. Với những bài họa này, Phan Văn Trị đã chỉ ra những giả dối trong luận điệu của Tôn Thọ Tường, từ đó vạch trần bản chất phản bội, xảo trá đã ăn sâu trong đầu hắn: Đáy giếng trông trời trương mắt ếch/ Làm người như vậy cũng rằng là (Tự thuật 6A). Tiếp theo phát pháo mở màn cho cuộc bút chiến giữa các nhà nho yêu nước và Tôn Thọ Tường, nhiều nhà thơ trào phúng cũng đã tấn công trực diện vào đại diện bọn bán nước hại dân. Trước đòn tấn công tập thể của các nhà thơ trào phúng Nam Bộ lúc bấy giờ, Tôn Thọ Tường bẽ mặt mà lộ nguyên hình là một tên nho học cam tâm làm quan cho giặc, phản nước hại dân.

Có thể nói, cười vua nhu nhược bất tài và cười quan sợ giặc, theo giặc là hai tiếng cười phổ biến nhất của thơ trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX. Bằng các tác phẩm thơ trào phúng, các nhà nho yêu nước đã châm biếm, đả kích không khoan nhượng, không e dè, không kiêng nể giai cấp thống trị đớn hèn. Những ai trong bộ máy cai trị của triều đình nhà Nguyễn có can dự vào việc “bó gối xin hàng”, xuôi tay đầu Tây để thêm danh thêm phận đều được các tác giả trào phúng lột mặt nạ, vạch trần bản chất nhu nhược, vô tích sự, phản quốc hại dân. Vì thế đối tượng châm biếm của họ rất đa dạng. Có khi là ông vua nhu nhược bất tài, có lúc lại là các ông quan hèn nhát sợ giặc mà đầu hàng giặc. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng các bài thơ có đối tượng phê phán là các ông vua, ông quan đương triều và bọn tay sai bọn bán nước hại dân đã làm phong phú thêm, hoàn chỉnh, sinh động thêm nội dung thơ trào phúng của văn học trào phúng Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX nói riêng và văn học trào phúng thế kỷ XIX nói chung.
............................................
Triều Anh​
Thêm
368
0
0
Văn học - nghệ thuật trước hết là chuyện đời sống, chuyện tâm hồn. Rất dễ hiểu là ít nhiều đều tiềm tàng trong mỗi người khả năng rung cảm, xúc động trước cái đẹp thiên nhiên cũng như nghệ thuật, nếu không thì đã không có văn nghệ dân gian và nhất là cũng sẽ không thể có thông cảm và tiếp thu của đông đảo quần chúng đối với tác phẩm nghệ thuật. Chỗ khác nhau giữa nghệ sĩ và quần chúng chủ yếu là do nghệ sĩ không chỉ cảm thụ, thu nhận, mà còn nói ra được, nói nên lời, bằng các ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau, những điều vốn ấp ủ hay mường tượng trong lòng nhiều người. Các văn nghệ sĩ lớn nhất xưa nay vẫn không thoả mãn, vẫn thấy sự nghiệp sáng tác của mình chưa thấm vào đâu so với thiên tài vĩ đại là bản thân đời sống, bản thản nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu nói: “Có người làm thơ nào, nghệ sĩ lành mạnh nào, dám bảo mình lớn hơn nhân dân đã đẻ ra mình?”.

Trong xã hội có giai cấp, quần chúng bị áp bức bốc lột, tất cả tinh lực để dồn cho bát cơm manh áo, luôn luôn lo sợ cho ngày mai, năng khiếu, tài năng bị thui chột, không có điều kiện bộc lộ, nảy nở. Lênin, khi khẳng định nghệ thuật thuộc về nhân dân, phải được quần chúng hiểu và ưa thích, đồng thời đặt ra cho văn nghệ trong xã hội xô-viết nhiệm vụ “đánh thức những nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”. Giữa quần chúng làm nên cuộc sống và nghệ sĩ, không phải có bức tường ngăn cách, mà những mầm mống nghệ sĩ, khả năng cảm thông với nghệ sĩ, khả năng thưởng thức hoạt động văn nghệ là có ở nhiều người, ở những mức độ khác nhau M.Gor-ki đã nói : “Tôi tin chắc rằng mỗi người đều mang trong mình những năng khiếu của người nghệ sĩ, và nếu có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của mình, những năng khiếu ấy có thể phát triển lên”.

Thế nhưng nói cuộc sống, nói nhân dân thì hình như hãy còn trừu tượng, chưa vượt ra ngoài vòng lý thuyết, trong lúc đó thì nghệ sĩ đích thực là những con người bằng xương bằng thịt, với những sáng tác phẩm được mọi người yêu thích, say mê lâu dài, mãi mãi. Rõ ràng không phải tất cả mọi người sinh ra đã là nghệ sĩ hay sẽ trở thành nghệ sĩ, mà số nghệ sĩ ở mỗi thời đại, ở mỗi xã hội thường là rất ít. Các thuyết duy tâm hay những người quen nhìn nhận vấn đề theo lối duy tâm thường đem thần bí hóa sáng tác văn nghệ, tuyệt đối hoá “phẩm chất nghệ sĩ, đem tách biệt, đối lập nghệ sĩ với đông đảo nhân loại bình thường”.

Đúng là phải có những năng khiếu đặc biệt mới trở thành nghệ sĩ. Không có gì lạ, sáng tác chẳng qua là lao động, là “hành nghề”. Mọi người ít nhiều đều có thiên hướng, có năng khiếu ở mặt này hay mặt khác, khiến người thì thích nghề này, người thì chọn ngành kia, người thì nổi lên ở lãnh vực này, người thì tỏ rõ sở trường ở lãnh vực khác. Lao động nghệ thuật cũng là như thế, có điều ở đây không phải là sản xuất hàng loạt, mà là hoạt động sáng tạo tinh vi, phức tạp. Nó đòi hỏi cao nhất ở trí tuệ, trái tim, bản lĩnh con người. Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Muốn có tác phẩm đẹp phải có khiếu, có tài năng, có thiên tài”, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng thấy cần phải lưu ý : “Văn học nghệ thuật là công trình khó lắm, công phu vô cùng, không giản đơn một chút nào… Làm văn nghệ phải có khiếu có tài”, cốt nhắc nhở anh chị em nên suy nghĩ kỹ khi chọn đi vào nghề văn. Nếu là hoạt động văn nghệ nghiệp dư thì không thành vấn đề lắm, nhưng chọn văn nghệ làm con đường phục vụ và dành tất cả đời mình vào đó, là một việc, hết sức nghiêm túc, cần phải cân nhắc, thận trọng.

Người ta chọn con đường sáng tác là vì yêu mến, ham thích, say mê văn nghệ. Bất kỳ ở đâu mà không nhiệt tình, không say mê thì cũng không đủ sức để đi xa được. Nhưng chỉ có say mê, chỉ có nhiệt tình thì vẫn chưa đủ, nhất là trong văn nghệ. Trong mọi ngành nghề, trong mọi hoạt động, nhiệt tình phải đi đôi với tri thức, đã có đức lại phải có tài, năng khiếu tài năng là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu được cho sáng tác văn nghệ. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng ta hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài, có khiếu thì khó khăn lắm. Làm cái nghề khác, không có tài cũng có thể làm việc được. Nhưng làm văn học nghệ thuật mà không có tài thì khó làm nên việc lắm... Những người không có tài thì nên đi làm nghề khác hơn là làm văn nghệ”. Làm văn nghệ hay làm nghề khác thì cũng là để phục vụ xã hội, mà phục vụ nhân dân được nhiều ít, hay dở như thế nào là do hiệu quả, chất lượng của công tác của mình. Một cái tủ đóng còn thô kệch, một chiếc sơ-mi cắt còn vụng về dùng tạm vẫn được, vẫn còn tác dụng, còn một cuốn tiểu thuyết dở, một bài thơ kém cỏi, một vở kịch tồi thà không có, không diễn còn hơn. Nghệ thuật không dung nạp được cái tầm thường.

Trong sự hình thành tư cách, phẩm chất nghệ sĩ có cả nhân tố xã hội lẫn cá nhân, có những xã hội đối nghịch với sự sáng tạo nghệ thuật và có xã hội thuận lợi cho sự phát triển của văn học nghệ thuật, thuận lợi cho sự tìm tòi sáng tạo thi thố tài năng, cũng như có một số ít người dồi dào những phẩm chất nghệ sĩ bẩm sinh giữa hàng muôn vạn người không có được bao nhiêu những phẩm chất ấy. Nghệ thuật nảy sinh và được nuôi dưỡng trên miếng đất của xã hội. Còn thành bại của từng văn nghệ sĩ là tùy thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan của mỗi người. Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác viết: “Chúng tôi không bảo rằng mỗi người phải thay thế cho Ra-pha-en, nhưng mỗi người mang trong mình một Ra-pha-en phải được tự do phát triển”.

Trước hết phải có “tâm hồn” mới làm nên nghệ thuật được. Nghệ sĩ chân chính là người có tâm hồn phong phú, say mê cái đẹp muôn hình muôn vẻ, mang nặng tình đời, tình người, sẵn sàng đón nhận, thông cảm với những vui buồn, yêu thương, căm giận ở đời, những vinh quang, khổ cực của kiếp người trong những xã hội khác nhau. Thuý Kiều có tài đàn, tài thơ cũng là Thúy Kiều đa tình đa cảm đầm đìa nước mắt trước một nấm mộ vắng tanh hương khói trong tiết thanh minh. Nhà phê bình Hoài Thanh “hình dung Nguyễn Du như là người lẳng lặng, ít nói ít cười, ít cởi mở với đời, nhưng tâm hồn thì lại lộng gió mười phương, không một chuyển động nào bên ngoài không vang sâu trong đó”.

Gạt đi cái quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong đó, ta có thể đồng ý với ý kiến của Thế Lữ, người mở đầu phong trào Thơ mới thời kỳ 1932 - 1945, khi ví tâm hồn nhà thơ với “cây đàn muôn điệu”. Xuân Diệu có lẽ đã chịu ảnh hưởng của V. Huy-gô khi coi thi sĩ là người:
Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn phương
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương...

Nhà thơ V.Huy-gô đã ví tâm hồn nghệ sĩ như một chất pha lê long lanh trong suốt đặt giữa lòng cuộc sống mà mỗi tia sáng, mỗi chuyển động đều phản chiếu, rung ngân, âm vang thành muôn ngàn thanh sắc, muôn ngàn âm điệu. Gô-gôn, người mở đầu vĩ đại cho nền tiểu thuyết hiện thực Nga, đã xác định tài năng của nhà thơ Nga vĩ đại Pu-skin như sau : “Ông có nhận xét trước tất thảy những gì có trong hiện thực thấy được, cũng như tất cả những gì có ở bên trong con người... Từ bất cứ một cái gì, dù vô cùng bé nhỏ, dù hết sức vĩ đại, ông đều lôi rút ra được tia lửa điện của các ngọn lửa thơ ca vốn có trong bất kỳ một công trình nào của Thượng đế”. Nhà thơ Pháp La-mar-tin đã tự nói về mình: “Tôi sinh ra đã là người nhạy bén và nhạy cảm. Hai đặc tính này là những yếu tố đầu tiên của bất kỳ một thứ thơ ca nào”. Chính Lê-nin cũng đã nhận thấy khả năng ấy ở M.Gor-xki : “Nói chuyện với anh luôn luôn thú vị khi ấn tượng của anh đa dạng và rộng rãi hơn” - nhà văn xô-viết vĩ đại đã nhắc lại lời của lãnh tụ trong hồi ký của mình về Người.

Không gì tai hại cho sáng tác văn nghệ hơn là sự nguội lạnh của tâm hồn, là sự tê cống của tình cảm. Nhờ lòng thiết tha với cuộc sống, với con người, nghệ sĩ là người có khả năng ôm trùm sự sống ở cả bề mặt và bề sâu, soi mói vào những ngỏ ngách của tâm hồn, vào những uẩn khúc của lòng người. Cuộc sống là vô cùng nên nghệ thuật cũng là vô cùng và đòi hỏi sự hiểu biết khám phá về đời sống, về con người ở nghệ sĩ cũng là vô cùng, có người đã gọi thiên tài nghệ thuật là “cái kính hiển vi sống thâu tóm nổi toàn bộ vũ trụ”.

Nói chuyện tại Đại hội lần thứ 2 các nhạc sĩ Việt Nam, đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh : “Người làm nhạc phải là người rất giàu tâm hồn, giàu tình cảm, sao cho cảnh vật, đời sống bên ngoài dội vào trong con người mình mà biến thành tác phẩm tốt”. Đối với văn nghệ sĩ trong xã hội chúng ta, đó đồng thời cũng là tâm hồn, tình cảm cách mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ. Bởi vì, như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “nghệ thuật là bông hoa của tâm hồn, tâm hồn của nghệ sĩ, và đó là kết tinh của tình cảm, tâm tư của quần chúng nhân dân của một thời, có thể là muôn thuở”.

Tâm hồn rộng mở, kho ấn tượng phong phú ở văn nghệ sĩ chính là gắn liền với sự nhạy cảm của giác quan, với khiếu quan sát sắc bén, tinh tế. Nhà văn thu nhận các quá trình, các chi tiết đặc sắc, các biểu hiện muôn màu muôn vẻ của đời sống bên ngoài, là bằng tâm hồn cũng như bằng tất cả các giác quan của mình. Tai mắt là các khí quan trực tiếp nối liền con người với thế giới khách quan. Con mắt họa sĩ, cái tai âm nhạc..., không có đôi mắt tinh tường, đôi tai nhạy thính thì không cách nào trở thành họa sĩ, nhạc sĩ được. Nhà văn cũng phải có tai mắt tương tự như thế mới dựng lên được bức tranh về đời sống, khắc họa được nhân vật thông qua ngoại hình, hành động, giọng nói, tác phong, dáng điệu và những chi tiết sinh hoạt khác nhau. Chỉ cần được Ban-dắc, Tsê-khốp hay M.Gor-ki nhìn vào là một con người tưởng như lẩn khuất bỗng nhiên được tách ra khỏi đám đông, trở thành có diện mạo, cốt cách riêng trở thành nhân vật. Nhà văn “lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ” (Tố Hữu), thu tóm, ghi nhận những sự, những tình, những cảnh, có được cái vốn sống cần thiết, từ đó mà xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật.

Đời sống diễn ra trước mắt mọi người, ý nghĩa của những sự việc lớn nhỏ đã phơi bày ra hay còn ẩn giấu, nhưng nói chung người ta dễ “cho qua” trong cuộc đời bận rộn này. Nghệ sĩ chính là người có khả năng phát hiện cái đặc sắc, cái ý nghĩa thẩm mỹ của sự vật tưởng là tầm thường, vô nghĩa, ức đoán ra được những mối tương giao giữa âm thanh, màu sắc, hương vị, những liên hệ giữa các sự vật tưởng như xa lạ vô can. Cái tính vô tư của nghệ sĩ không bị đắm đuối, thu hút bởi những lợi ích thực dụng trước mắt, lại thường soi mói, tư lự, cố tìm ra cái đẹp bị che lấp, những khía cạnh thầm kín của sự vật. Nhà viết tiểu thuyết bậc thầy Phờ-lô-be có lời khuyên nổi tiếng Mô-pat-xăng trẻ tuổi : “Khi anh đi qua trước mặt người bán hàng thực phẩm đang ngồi ở ngưỡng cửa, qua trước mặt người gác cổng đang ngậm tẩu thuốc hay qua một trạm cho thuê xe ngựa, anh hãy tả thế nào cho tôi không nhầm lẫn với bầt cứ một người bán thực phẩm hay một người gác cổng nào khác ; hãy cho tôi biết, chỉ bằng một lời nói thôi, con ngựa kéo xe không giống 50 con ngựa đang theo sau hoặc đi trước nó”. Đến lượt mình, nhà viết truyện ngắn Mô-pát-xăng lại căn dặn những nhà văn trẻ khác : “Muốn tả một ngọn lửa lập lòe, một gốc cây giữa cánh đồng, ta hãy đứng trước bấy nhiêu sự vật, hãy nhìn kỹ cho đến khi mà ta thấy ngọn lửa đó, gốc cây đó không giống với một ngọn lửa, một gốc cây nào khác. Do đó ta sẽ đi đến chỗ độc đáo”. Có thể nói vẻ đẹp, sức sống của thiên nhiên, cái “của trời trăng gió kho vô tận” được phát hiện, khai thác trong văn học nghệ thuật là do tài quan sát, phát hiện của văn nghệ sĩ. Một nhà nghiên cứu đã nói về Đăng-tơ : “Những phong cảnh hùng vĩ, những chân trời bao la để lại trên võng mạc của mắt ông cũng trong suốt như các đường nét nhỏ nhặt nhất của một sự vật nào đó vậy. Đường nét, màu sắc, sắc thái, độ chìm nổi, mức sáng tối, sự hài hòa và những chỗ không cân xứng - tất cả ông đều phân biệt được và ghi nhận với một tính chính xác phi thường”. Một hạt cát dưới mắt tinh tế và yêu đời của nhà văn không còn lạ hạt cát bình thường nữa. Nhà văn xô-viết Pau-tốp-xki quan niệm văn học có thể đem lại niềm vui cho người đọc qua những sự vật nhỏ nhặt nhất, như “cho thấy cái đẹp của một hạt cát tí xíu nào đó có thể khúc xạ ánh mặt trời, biến thành vô vàn cầu vồng và hào quang lấp lánh màu sắc”. Và dĩ nhiên, khả năng quan sát, khám phá của nhà văn trước hết là hướng vào thế giới bên trong của con người. Xtăng-đan có lần bị cảnh sát truy vấn về lý lịch và nghề nghiệp, đã trả lời: “Nghề ư? Nghề quan sát trái tim con người”. Trong cái công việc hết sức khó khăn là tìm hiểu cuộc sống và lòng người, hiểu người và hiểu mình, đóng góp của văn nghệ sĩ có thể nói là quyết định.

Nhà văn không chỉ chuyên tâm quan sát con người và đời sống bên ngoài, mà còn hướng sự quan sát vào chính bản thân mình. Sáng tác là phản ánh đời sống bên ngoài, nhưng bao giờ cũng là thông qua thế giới bên trong, bao giờ cũng có phần gửi gắm của nhà văn trong đó. Cho nên ở nhà văn, quan sát và tự quan sát xen lẫn vào nhau, nối tiếp và bổ sung cho nhau. “Trông người lại ngẫm đến ta” - nhà văn nhờ hiểu đời, hiểu người mà càng hiểu mình, và “suy bụng ta ra bụng người” – chính nhờ hiểu mình mà càng hiểu thêm người. Khả năng phân tích và tự phân tích được kết hợp chặt chẽ, thường xuyên trong suốt quá trình sáng tác.

Những điều quan sát, từng trải không phải được đem sử dụng ngay, mà thường về sau, có khi là hàng mấy chục năm. Nhà văn sáng tác, thường là lục tìm trong đáy sâu tâm hồn, trong cái kho dự trữ các hình ảnh, ấn tượng mình đã tích lũy được. Và điều này đòi hỏi nhà văn phải có một trí nhớ đáng kể, không chỉ nhớ trên đại thể mà trong chi tiết, sao cho có thể hình dung lại các sự việc, các tình tiết như khi chúng đã xảy ra và đập mạnh vào mình. Khi đã về già, Phờ-lô-be còn nhớ lại rất chi li quang cảnh các lâu đài mà mình đã sống qua mấy tháng khi còn là đưa bé mới hai tuổi rưỡi. Ban-dắc đã mượn lời của một nhân vật để nói về mình : “ông có được mọi loại trí nhớ : nhớ được cả địa danh, tên họ, cả đồ vật, vẻ mặt, ông không chỉ do ý muốn đã nhớ lại các sự vật đặc biệt, mà còn thấy rõ cả vị trí, ánh sáng, màu sắc đúng như trong khoảnh khắc ông đã nhìn thấy chúng”. Hầu hết các nhà văn đều có những mẩu hồi ký, qua đó những sự kiện lớn nhỏ trong thời thơ ấu được tái hiện, nhiều kỉ niệm được gợi lại với rất nhiều chi tiết và với vẻ trong sáng tươi mới, mà thời gian như bất lực không xói mòn hay làm lu mờ đi được.

Nhưng không chỉ trong hồi ký. Nhà văn thường bắt tay vào sáng tác sau một khoảng gián cách dài hay ngắn, và sử dụng tất cả những cái gì đã lắng đọng trong mình, đã biến thành kỉ niệm và sẽ được khơi dậy và huy động trong quá trình sáng tác. Trí nhớ lâu bền được sự bổ sung và viện trợ của các sổ tay ghi chép mà hầu hết các nhà văn đều sử dụng theo cách riêng của mình. Trong quá trình sáng tác, trí nhớ tốt sẽ giúp cho nhà văn huy động trong vốn sống tích lũy những gì là cần thiết cho việc thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình.

Sáng tác không đóng khung và dừng lại trong việc tái hiện các điều quan sát hay thể nghiệm, mà chỉ thực sự bắt đầu với hoạt động của tưởng tượng. Gôn-tsa-rốp nói: “Lối chụp trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đường của tưởng tượng sáng tạo, nó mới đến gần được với cuộc sống”. Trí tưởng tượng của nhà văn vốn vô tư, không chỉ quay quanh những việc thuộc lợi ích trực tiếp, mà có thể hướng vào những sự việc, những đối tượng khác nhau nhất. Khả năng tưởng tượng là khả năng vốn có của mọi người, nhưng ở đông đảo các trường hợp thì con người thường chỉ hình dung được những gì đang chờ đợi mình hoặc có thể xảy ra cho bản thân mình. Trí tưởng tượng giúp nhà văn xâm nhập vào cuộc sống xung quanh, vào tâm hồn của người khác, vẽ ra trong trí óc của mình những tình huống khác nhau, những khả năng diễn biến khác nhau của sự vật, dựa vào kinh nghiệm sống trực tiếp hoặc gián tiếp mà hình dung, mà ức đoán và tự giải đáp về cuộc sống hay gửi gắm vào đó những ước mơ khát vọng của mình.

Những quan sát từng nơi từng lúc, những cảm thụ thu nhận trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau và tích lũy chồng chất trong ký ức chính nhờ tưởng tượng mà được sắp xếp, phân bố đưa vào những liên kết, những tổ hợp mới tùy theo ý đồ tư tưởng và nghệ thuật của tác giả, tùy theo cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Tưởng tượng đẩy gần lại nhau những cái rời rạc, đoán định ra mối thống nhất bên trong của các sự kiện, nắm bắt thần thái của mỗi nhân vật từ trong những dữ kiện riêng lẻ, bồi đắp da thịt cho nhân vật sống lấy đời sống tự nhiên của nó.

Ở nghệ sĩ, sức mạnh của tưởng tượng không tách rời với khả năng tư duy hình tượng. Bi-ê-lin-xki coi đặc trưng của văn học nghệ thuật là ở tư duy hình tượng. Đô-brô-liu-bốp so sánh tư duy của nhà khoa học và tư duy của nghệ sĩ : “Một người thì suy nghĩ bằng hình tượng cụ thể, không bao giờ bỏ sót những hiện tượng và những hình tượng cục bộ, còn người kia thì tìm mọi cách khái quát tất cả lại, đúc kết những dấu hiệu cục bộ thành công thức chung”. Theo nhà sinh lý học Nga nổi tiếng Páp-lốp thì đặc điểm của tư duy hình tượng là tái hiện toàn bộ giới hiện thực”. Nhà nghệ thuật “nắm lấy giới hiện thực một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn, đầy đủ... không có bất cứ một sự phân chia nào, bất cứ một sự tách rời nào”. Ở nghệ sĩ, hệ thống tín hiệu thứ nhất đặc biệt phát triển. Tư duy hình tượng có khả năng nắm bắt hiện thực một cách trực tiếp, nhưng vẫn không dừng lại ở cảm tính mà đồng thời bao hàm tư duy, đánh giá, kết luận. Vấn đề không phải ở sự đối lập, mà là ở mức độ, ở ưu thế của loại tư duy này hay tư duy kia ở nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ. Không có một bức tường kín mít giữa hai loại tư duy, mà có sự bổ sung cho nhau, mỗi loại đều có chỗ mạnh và lý do tồn tại của nó.

Trí tưởng tượng, tư duy hình tượng nhạy bén còn thể hiện ở khía cạnh này nữa: khả năng nhập thân của nhà văn. Nhà văn xây dựng nhân vật và câu chuyện không phải một cách lạnh lùng, vô can, mà hòa nhập vào những điều mình miêu tả như cùng sống với nhân vật và tham dự vào câu chuyện. Trong một bức thư, Phờ-lô-be tâm sự: “Thật là tuyệt khi được tiêu khiển thời gian bằng viết, không bị còn lại một mình với chính mình, mà được trú ngụ trong bất kỳ một nhân vật nào đang được mình viết. Hôm nay, chẳng hạn, tôi là một người đàn ông và một người đàn bà cùng một lúc, hai người đều đang yêu - tôi cưỡi ngựa đi dạo trong rừng, sau bữa ăn, mùa thu, và tôi là những cành đầy lá vàng, là những chiếc lá, là gió, là tiếng nói và ánh nắng mặt trời, ở đó mỗi tế bào của thân thể tôi đều chìm ngập trong hạnh phúc tình yêu”. Còn có thể dẫn thêm rất nhiều những thí dụ tương tự. Rõ ràng là có sống sâu sắc với những điều viết ra thì sự thể hiện mới sinh động và thuyết phục. Điều này, ngay từ thời mình, A-ri-xtốt cũng đã ít nhiều nhận ra được khi viết trong Thi pháp rằng nhà thơ phải “nhìn thấy tất cả một cách khá rõ ràng và dường như, phải có mặt trong bản thân diễn tiến của các sự kiện để tìm ra cái cần phải có... Trong chừng mực có thể, nhà thơ phải hình dung ra được tình thế của các nhân vật…”. Chính Lênin cũng đã thừa nhận sự cần thiết của nhập thân khi trao đổi với M. Gor-ki: “Tôi không có quyền tưởng tượng mình là thằng ngốc, nhưng anh anh phải tưởng tượng, nếu không anh sẽ không miêu tả được thằng ngốc”. Nhờ khả năng quên mình đồng nhất với nhân vật mà trong một chừng mực nhất định, các nhà văn hiện thực chủ nghĩa khắc phục được lối chủ quan độc đoán và để cho các nhân vật nói năng, hành động theo lô-gic của tính cách và của tình huống, nó cũng là lô-gic của đời sống và của nghệ thuật.

Văn học đi giữa ước mơ và hiện thực, giữa lý tưởng bay bổng và đời sống hằng ngày. Sự kiện đời sống mà biến thành hình tượng văn học là nhờ có trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn. Không có hoạt động tổ chức, thanh lọc, bổ sung, cải biên lại những gì mà nhà văn đã thu thập được từ đời sống thì cũng không đạt tới sự thật nghệ thuật. Ngay trong cái kho dự trữ những sự việc, hình ảnh, ấn tượng của nhà văn cũng đã có sự điều chỉnh bước đầu của trí tưởng tượng và dĩ nhiên, từ cái vốn sống đã có, từ những yếu tố, những mầm mống đầu tiên của đề tài, cốt truyện, chủ đề đến sự thai nghén và thành hình của tác phẩm, trí tưởng tượng càng được huy động và phát huy tác dụng. Có thể nói trong suốt quá trình sáng tạo, tính năng động chủ quan đóng vai trò quyết định như thế nào, thì tưởng tượng sáng tạo của nhà văn cũng có tầm quan trọng như thế ấy. Ngay trong thơ trữ tình, không có nhân vật, không có cốt truyện, vai trò của tưởng tượng cũng không kém quan trọng. Ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, tứ thơ... tất cả đều bất đầu từ sự thật đời sống và được hoàn thành bởi tưởng tượng sáng tạo. Đúng như đồng chí Trường Chinh đã nói: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng”.

Văn học nghệ thuật đòi hỏi phải sáng tạo, nghĩa là phải độc đáo, không bắt chước, dù đó là bắt chước người khác hay bắt chước theo đuôi đời sống. Nếu cần bắt chước, như A-ri-xtôt đã chủ trương, thì cũng là bắt chước đời sống không phải trong những biểu hiện riêng lẻ, mà ngay trong tính sáng tạo của nó. Đời sống phong phú, phức tạp, biến hóa vô cùng; văn học nghệ thuật cũng phải phản ánh và thu tóm cái phong phú vô hạn vô hồi, cái sống động ấy của cuộc đời. Cả ba yêu cầu: sáng tạo, phong phú, sinh động, đều giả định rằng sáng tác không thể là một sự sao chép nô lệ nghèo nàn, mà là khái quát hoá là “điển hình hoá cao độ” (Trường Chinh). Bằng cách nào? bằng hư cấu, bằng tượng tượng. Tưởng tượng sáng tạo mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật, cho phép những phong cách phong phú, táo bạo, rực rỡ nhất. Hư cấu, tưởng tượng sáng tạo không phải là bịa đặt vô tội vạ, mà đòi hỏi nhà văn phải có sự hiểu biết sâu xa về đời sống. Tưởng tượng là bay bổng lên trên để bao quát hơn, để xâm nhập sâu vào đời sống, là nương theo đời sống mà sáng tạo, khai thác, thúc dục đời sống không ngừng, bộc lộ khả năng sáng tạo vô cùng tận của nó.

Trở lên là những nét chính về năng khiếu và phẩm chất nhà văn. Văn học nghệ thuật là một lãnh vực khó khăn phức tạp và tiêu biểu nhất cho khả năng sáng tạo kỳ diệu của con người. Thành tựu văn học nghệ thuật là tài sản quý báu chung và góp phần làm nên bộ mặt tinh thần của xã hội, của dân tộc. Lê-nin thường nhắc nhở: “Phải ủng hộ tài năng”. Đảng và nhân dân đánh giá cao các văn nghệ sĩ bằng sáng tác của mình, đã đưa lại cho xã hội những thức ăn tinh thần đáng quý, đóng góp tích cực vào công cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa.

Chính vì thiết tha trân trọng văn nghệ mà chúng ta chờ đợi nhiều và có đòi hỏi rất cao đối với văn nghệ sĩ. Đi vào sáng tác văn nghệ là phải có năng khiếu. Nhưng tự nó năng khiếu chưa đủ để trở thành nhà văn chân chính. Tác phẩm văn học có giá trị là kết quả của sáng tạo, nhưng đồng thời cũng là của lao động kiên trì. Đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Tài năng là công phu”. Và đồng chí đã nhắc nhở, nhấn mạnh các thứ vốn mà văn nghệ sĩ nhất thiết phải có: vốn chính trị, tư tưởng, vốn sống, vốn văn hóa, vốn nghề nghiệp.

Không thể chối cãi được vai trò của cảm hứng trong sự sáng tạo của nhà văn. Cảm hứng vụt đến hình ảnh, câu chữ cứ tuôn trào dưới ngòi bút hối hả của nhà văn như trong một cơn run giật, nhà văn làm xong một mạch nhưng cái mà trước đó phải loay hoay, lủng tủng, tưởng như không sao làm nổi. Không có chuyện thần nhập ma nhập như có người tưởng, mà đó là một trạng thái bột phát, là cái tia chớp bừng lên ở cuối chặng đường mò mẫm, cân nhắc, nghiền ngẫm, tập trung căng thẳng. Không phải lúc nào cảm hứng cũng tự đến theo ý muốn của nhà văn, cảm hứng thường đến những lúc bất ngờ nhất, nhưng chính là nhờ ở nhà văn đã có một quá trình tích lũy, chuẩn bị, suy tính, tìm tòi, trăn trở. Sao lại có thể làm theo kiểu “há miệng chờ sung” ở nơi đòi hỏi một công phu lao động suốt đời, không ngừng không nghỉ: lao động nội tâm, lao động nghệ thuật? Trong văn nghệ cũng như ở bất cứ lãnh vực nào, người ta chỉ hái gặt ở nơi nào đã ra công gieo trồng, chăm bón.

Nghệ sĩ vĩ đại đồng thời cũng là người lao động vĩ đại, là người dồn hết tâm hồn, sức lực vào công việc của mình. Lao động nghệ thuật là niềm say mê, là nguồn vui, nhưng cũng là nỗi đau khổ dày vò, bởi vì nghệ thuật là lãnh vực sáng tạo mà có gia công, có cố gắng bao nhiêu đi nữa cũng không bao giờ là thừa, là đủ. Ban-dắc làm việc 15 giờ, 18 giờ một ngày suốt hàng chục năm liền. Phờ-lô-be, tác giả Bà Bôvari khát khao đưa nghệ thuật của mình đến sự toàn bích, vật lộn với nghề nghiệp của mình, có lúc như rơi vào bi kịch. Thiên tài khổng lồ L.Tôn-xtôi cũng phải than thở vì cái khó khăn tuế toái của nghề văn, của công phu lao động mà nó đòi hỏi : “Tôi thấy buồn và chẳng viết gì cả, còn làm việc thì khổ sở quá. Anh không thể hình dung được tôi phải chật vật như thế nào với công việc chuẩn bị này : phải cày sâu cái cánh đồng mà trên đó tôi buộc phải gieo giống. Phải suy đi tính lại tất cả những gì có thể xảy ra với tất cả các nhân vật tương lai trong tác phẩm sắp viết, một tác phẩm rất lớn và phải nghĩ ra hàng triệu cách kết hợp có thế có được, để rồi trong số đó chỉ chọn một phần triệu thôi, thật là khó kinh khủng. Đấy, tôi đang bận việc ấy”. Đó là khi nhà văn Nga bắt tay vào viết Chiến tranh và hòa bình. Trước đó, ông đã thân hành đến tận chiến trường Bơ-rô-di-nô, gặp gỡ, nói chuyện, khai thác tài liệu với chính những người còn sống đã tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc 1812. Ngoài ra, nhà văn còn tìm đọc, ghi chép những hồi ký, nhật ký, thư từ có liên quan, vào các viện lưu trữ, thư viện tìm đọc những tài liệu gốc, đối chiếu các tài liệu lịch sử, và đọc các sách Nga viết mấy mươi năm đầu thế kỉ 19, nghiên cứu các sách về hội Tam điểm. Đó là chưa kể kinh nghiệm về chiến tranh mà ông đã có được nhờ đã trực tiếp tham gia cuộc bảo vệ Sê-va-xtô-pôn mấy mươi năm về trước.

Các nghề nghiệp khác nhau, sự tiếp xúc với nhiều cảnh sống, với đủ hạng người khác nhau đã giúp Ban-dắc phát triển khiếu quan sát của mình, như nhà văn đã tâm sự trong một bức thư : “Tôi khác người ở cái khả năng quan sát to lớn, do đã buộc phải trải qua đủ thứ nghề nghiệp”. Nghề thầy thuốc cũng tạo một điều kiện thuận lợi cho Tsê-khốp. Và chính Tsê-khốp cũng làm một chuyến đi xa vất vả để có sự hiểu biết hơn về đời sống Nga. M. Gor-ki đã lê gót giày (thậm chí có khi không có cả giày) trên khắp nước Nga và đã lặn lội với đủ các thứ nghề, với đủ các hạng người, từ người lang thang bụi đời tuổi thơ ấu đến công nhân, nông dân, các chiến sĩ đấu tranh cho tự dọ, cũng như các tầng lớp trí thức và thượng lưu trong xã hội và điều này đã đưa lại cho nhà văn vô sản vĩ đại đầu tiên trên thế giới một vốn sống to lớn, từ đó mà có được những tác phẩm đầy tài năng. Lê-nin đã có lần nói với M.Gor-ki : “Nghe chuyện của anh tôi đâm sợ, sợ anh không kịp viết”.

Ở Việt Nam, các nhà văn, nhà thơ đã tỏ rõ tài năng trước Cách mạng tháng Tám, sau này đi theo Cách mạng nhưng một thời gian dài hầu hết không ai viết được gì đáng kể. Trong lúc đó thì thơ Bác, thơ Tố Hữu ngày càng nổi bật lên. Phải trải qua một quá trình “lột xác”, cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt và sau nhiều đợt đi thực tế, xâm nhập vào đời sống lao động và đấu tranh của quần chúng, các nhà thơ Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu... mới trở lại có tiếng nói được lắng nghe nhiều trên thi đàn. Rất nhiều tài năng đã trưởng thành trong quá trình cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Và không phải ngẫu nhiên mà văn học Việt Nam đã giữ được vai trò tiên phong trong nền văn học chống đế quốc trong thời đại ngày nay như Đảng ta đã nhận định.

Năng khiếu mà không đi đôi với lao động, với công phu rèn luyện thì cũng chỉ là con số không. Các nhà văn chúng ta muốn có vốn để sáng tác thì phải lăn lộn trong đời sống, đến với những nơi tiên tiến, sống với những người tiên tiến. Đây cũng là điều mà năm 1918, sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, Lênin đã khuyên M. Gor-ki: “Anh đã tự đặt mình vào một vị trí mà từ đó anh không trực tiếp quan sát những cái mới trong đời sống của công nhân và nông dân. Nếu quan sát thì cần phải quan sát từ bên dưới, ở nơi có thể nhìn bao quát việc xây dựng cuộc sống theo kiểu mới, ở trong xóm thợ của tỉnh nhỏ hoặc ở nông thôn...”.

Tài năng chỉ nảy nở phát triển trên miếng đất của xã hội, của truyền thống dân tộc, của sinh hoạt nhân dân. Cái chỉ mới phân tán ở nhiều người, chỉ mới là khả năng tiềm tàng, thì ở thiên tài là hiện thực. Hơn nữa, sức mạnh của thiên tài đi đôi với sức mạnh của tư tưởng. Thiên tài biểu lộ ở chỗ biết gắn chặt với thời đại, với nhân dân, ở chỗ diễn đạt được những nguyện vọng, những đòi hỏi sâu xa của thời đại, nhờ đó mà có tác dụng lớn đến sự phát triển của xã hội, của lịch sử.

Năng khiếu của nhà văn biểu lộ ở sự quan sát tinh vi, ở sự rung cảm nhạy bén, ở sự khám phá sắc sảo những quá trình của cuộc sống, ở sự nắm bắt những mối liên hệ ẩn kín của sự vật. Đặc trưng cao nhất của tài năng là tính sáng tạo. Nhưng sáng tạo không phải đi từ con số không mà chẳng qua chỉ làm “sáng” thêm cái gì đã được “tạo” ra ít nhiều rồi, tuy còn là mò mẫm, tản mạn hay bị che lấp. Mặt nổi bật của năng khiếu sáng tác là trí tưởng tượng phong phú. Nhưng tưởng tượng dù phóng khoáng đến đâu cũng đều bắt nguồn từ hiện thực, có vẽ rồng vẽ phượng cũng là dựa vào những sự vật vốn có trong cuộc sống thực. Tưởng tượng không phải xuất phát từ số không, có bay vút lên là cũng nhờ có điểm tựa từ kinh nghiệm, từ những điều thu thập trong thực tế đời sống. Hơn nữa, tưởng tượng dù sao cũng không phải là hoàn toàn vô tư, mà ít nhiều đều có định hướng, tâm trí hướng về đâu thì tưởng tượng thường là hoạt động, phát huy tác dụng theo chiều hướng đó. Nếu nhà văn cần có sự nhạy cảm của tâm hồn và của giác quan, thì tình cảm cách mạng chính là giúp nhà văn biết yêu biết ghét, thu nhận được nhiều ấn tượng, quan sát được nhiều, mở rộng tầm nhìn. Sáng mắt là nhờ sáng lòng cũng như sáng lòng là bởi sáng mắt. Có tâm hồn cách mạng mới nhập vào đời sống cách mạng, mới lắng nghe được, mới nhìn ra được những cái gì là đẹp, là hay, là mới trong đời sống Cách mạng. Trí nhớ cũng thế, nhớ nhiều, nhớ lâu là những cái gì đã làm mình xúc động sâu xa, là những gì thiết thân gần gũi với mình. Như thế, nghe thấy, ghi nhớ, tưởng tượng, nhập thân gắn liền với tâm hồn rộng mở, cảm thông, thiết tha với cuộc sống, với thế giới quan của nhà văn. Tính chất của thế giới quan tác dụng to lớn đối với tài năng nghệ sĩ.

Tóm lại, “Tôi không tin có cái “thiên tài” nào ở ngoài cái ổ của cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và đấu tranh đau khổ và vô cùng dũng cảm của muôn triệu con người làm nên lịch sử... Thiên tài là gì, nếu không phải là hương của hoa, núi của đất, là sự kết tụ ở mức độ nào đó trí tuệ của loài người ? Nghệ sĩ là con đẻ toàn diện của hoàn cảnh nó đã sống, như đứa con mang máu thịt và cả cái mùi riêng của mẹ. Con nào thì mùi của mẹ ấy, không lộn được. Con càng giống mẹ bao nhiêu thì mẹ càng yêu quý bấy nhiêu. Thiên tài đáng quý chính ở chỗ đó, ở chỗ nó tiêu biểu cho cái đẹp, cái hay của muôn triệu con người đã nuôi dưỡng nó”.
(Sưu tầm tổng hợp)​
Thêm
583
5
5

But Nghien

Thành Viên
19/8/19
23
33
27,984
Xu
156,332
văn học không trực tiếp đóng góp vào phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, nhưng nó có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển văn hóa, giáo dục và tinh thần của một quốc gia. Nó...
 
Đối tượng của văn học nghệ thuật là toàn bộ đời sống. Văn học nghệ thuật nhằm tái hiện đời sống mọi mặt, trong mọi mối quan hệ, bao trùm đủ mọi hạng người, đủ mọi sự việc trên đời. Phạm vi thể hiện của văn học nghệ thuật là không giới hạn, cũng như đời sống là không giới hạn. Từ xa xưa, A-ri-xtốt đã khẳng định văn học nghệ thuật chính là bắt chước đời sống ngay trong cái bao la muôn màu muôn vẻ, trong sự sinh sôi nảy nở và biến hoá vô cùng tận của đời sống.

Đọc các tác phẩm văn học, dù là sử thi, truyện kí, tiểu thuyết hay thơ trữ tình, dễ dàng nhận ra điều này: không có cái gì diễn ra trong đời sống mà không đáng để cho văn học nghệ thuật quan tâm thể hiện; từ con người cho đến cỏ cây, hoa trái, cầm thú, chim muông, ngày và đêm, xã hội và thiên nhiên, mặt đất và bầu trời, quá khứ và tương lai, chính nghĩa và gian tà, tội ác và trừng phạt, thiên đàng và địa ngục, chiến tranh và hoà bình; hài kịch thần thánh và hài kịch nhân gian... Ánh đuốc của văn học nghệ thuật soi rọi vào tất cả, len lỏi vào mọi biểu hiện của đời sống, mọi ngóc ngách của lòng người.

Trong một tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Tổ quốc và gia đình, tiền tuyến và hậu phương, khách thính và mặt trận, kẻ chạy theo danh lợi và người đi tìm chân lí, kẻ chinh phục và người anh hùng dân tộc, quý tộc và nông dân, cảnh hấp hối và sinh nở, những dạ hội và cuộc săn bắn... hơn 600 nhân vật trong Chiến tranh và hòa bình là bấy nhiêu mẫu người, cảnh đời, sự việc khác nhau. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có tài tử giai nhân và quan lại sai nha, có anh hùng hiệp khách và lũ bán thịt buôn người, có tự tình và báo oán, có nhà chứa và nhà tu, có xuân hạ thu đông, cầm kỳ thi tửu; phong hoa tuyết nguyệt, có hội ngộ, lưu lạc, đoàn viên...

Phan Kế Bính đã có nhận xét một cách khá văn chương: “Kìa như những cảnh tượng của tạo hoá, ảo ảo, huyền huyền, kỳ kỳ, quái quái, nghìn hình muôn trạng, biến hóa vô cùng, ai trông cho hết, ai biết cho đủ, như có văn chương mà biết được hầu như không sót điều gì. Kìa như nhân tình thế thái, nào thiện, nào ác, nào nịnh, nào trung, nào những dạ ngoắt ngoéo khắt khe, nào những thói thâm trầm nham hiểm, ai nói cho xuể, ai kể cho xiết, nhờ có văn chương mà vẽ ra không thiếu một nét nào. Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm hết nơi danh thắng ở thiên hạ, xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay dở của thế gian, sinh ra ở dưới mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh ra trước mấy nghìn năm, cũng đều là nhờ có văn chương cả”. Cảnh sắc tạo hóa, chuyện thế thái nhân tình, những danh lam thắng cảnh, chuyện xưa và nay, tất cả đều được phản ánh vào văn học.

Đời sống muôn màu muôn vẻ, cái mà nhà văn hướng vào trước hết chính là con người, là tính cách là tâm hồn của con người, là những cái gì quy tụ vào con người và làm nên số phận, làm nên ý nghĩa cuộc sống của con người. Nói đối tượng của văn học nghệ thuật là toàn bộ đời sống, rồi lại nói con người mới là đối tượng chủ yếu, đối tượng trung tâm, vẫn không mâu thuẫn, mà chính là phù hợp với thực tiễn văn học từ xưa đến nay. Đọc văn tự sự, sử thi, tiểu thuyết, kịch, cái người ta theo dõi, ghi nhớ là những nhân vật với những hành động, tâm lý, số phận khác nhau. Đọc thơ trữ tình, cái thu hút người đọc là những tâm trạng, những khoảnh khắc tâm hồn, những tình cảm của nhà thơ và cũng là của đông đảo con người nói chung. Trong văn tự sự hay trữ tình, thiên nhiên cũng là đối tượng thể hiện, là nguồn cảm xúc thẩm mĩ quan trọng, nhưng thiên nhiên đi vào văn học là gắn liền với tâm tư tình cảm của con người, con người được soi chiếu vào thiên nhiên, và thiên nhiên âm vang những nỗi niềm của con người.

Phạm vi và trung tâm chú ý của văn học là con người với tư cách là một đơn vị sống cá thể, một cá tính cụ thể, sinh động, không trùng lặp. Khái niệm cá nhân, cá tính là hình thành trong triết học, trong tâm lý học hiện đại cũng có hẳn một ngành là tâm lý học về cá tính. Vấn đề cá tính cũng được đề cập đến trong đạo đức học. Nhưng đối tượng của hình thái ý thức này vẫn không phải là cá tính mà là những quy luật cơ bản của tồn tại hay của tư duy, những quan hệ xã hội giữa người và người, hay là từng kiểu người đại biểu cho những nhóm người về mặt xã hội, kinh tế, chính trị, tâm lý học, đạo đức học. Không có một lãnh vực khoa học nào mà lại chú ý đến cá tính con người chỉ vì đó là những cá tính duy nhất, không lặp lại.

Trong một số khoa học như sử học, có thể có đối tượng là những con người riêng lẻ. Nhưng nhà viết sử có chú trọng đến những đối tượng này cũng chỉ là trên những khía cạnh nhất định: nhân vật lịch sử hiện ra không phải là một cá tính hoàn chỉnh, mà chỉ như một nhà hoạt động xã hội, được miêu tả, xác định và quan tâm trước hết không phải về mặt cá tính, mà về mặt những đóng góp của người ấy vào lịch sử.

Nhà khoa học cốt tìm ra cái chung, trên cơ sở đó tiến hành sự phân loại, xác định các loại hình trong động vật, thực vật, trong xã hội loài người, v.v... Tất nhiên, khoa học cũng tìm hiểu mọi mặt về đời sống con người, nhưng chỉ có thể hướng vào con người toàn diện bằng cách nhận thức từng khía cạnh, từng mặt một. Chẳng hạn, sinh lý học quan tâm đến con người như một cơ thể sinh vật học; tâm lý học quan sát con người như một thực thể tinh thần, cảm xúc ; lô-gíc học thì lấy tư duy làm đối tượng nghiên cứu ; điều khiển học coi con người là một tổ chức tín hiệu sống ; đạo đức học coi con người như một thực thể xã hội, nghiên cứu và đề ra những quy tắc ứng xử giữa người và người; luật học nghiên cứu quyền lợi, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Cộng tất cả các tri thức này lại, cũng chỉ đưa đến một sự hiểu biết trừu tượng về con người, chứ không trực tiếp nắm bắt được những con người như đang sống thực, như là cá tính đang hoạt động, cảm nghĩ nói năng, đi đứng trước mắt ta.

Con người - đối tượng của văn học - được phản ảnh một cách tổng hợp, toàn diện, trong quan hệ mọi mặt, nhưng được tập trung soi rọi trước hết là từ bên trong, không phải về mặt sinh vật học, hay về mặt sinh hoạt chuyên môn. Chính vì đối tượng của văn học không phải con người “chuyên môn” mà con người trong đời sống hằng ngày, trong những mối quan tâm thích thú chung nhất, nên tác phẩm văn học được sự đồng cảm tự nhiên của đông đảo người đọc, không cần phải có kiến thức chuyên sâu mới nhập vào đời sống tinh thần, tình cảm của nhân vật, mới dễ dàng nhận ra và tỏ thái độ trước những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Nếu văn học lấy các nhân vật thầy thuốc, quan tòa, nhà báo, nhà bác học... làm đối tượng thể hiện, thì cũng không cốt đi sâu truyền đạt những kiến thức chuyên môn theo ngành nghề của nhân vật: thể hiện người công nhân, người nông dân trong xưởng máy hay trên cánh đồng hợp tác, nhà văn nếu chìm ngập vào các quá trình sản xuất, sa vào các chi tiết kỹ thuật, thì sẽ không tránh khỏi xa rời chân lý nghệ thuật, rơi vào chủ nghĩa tự nhiên. Dù đi vào đề tài gì, mối quan tâm chính của nhà văn vẫn là xoay quanh vấn đề con người, là số phận, là đường đời của các nhân vật trong những hoàn cảnh, những tình huống khác nhau.

Con người là tổng hòa của những quan hệ xã hội. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật không thể không soi rọi vào các điều kiện xã hội bao bọc và chi phối đời sống của những hạng người khác nhau. Miêu tả con người, văn học nghệ thuật đồng thời phản ánh xã hội. Như thế, vấn đề con người vốn là vấn đề cốt lõi của văn học, đồng thời cũng là vấn đề xã hội.

Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức của văn học cũng là ở đó. Con người làm ăn sinh sống, vui buồn, hy vọng, lo toan là từ trong một xã hội nhất định, từ sự chung đụng giữa người và người, từ những quan hệ mọi mặt gắn liền và ràng buộc những con người với nhau. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở từ những tình cảm tự nhiên nhất như khát vọng hạnh phúc, tình yêu, tình cảm gia đình, tình bè bạn, tình đồng loại, tất cả đều chịu sự chi phối của xã hội. Trong xã hội cũ, quyền lợi và nguyện vọng của các giai cấp va chạm nhau, giàu sang của người này xây dựng trên những nỗi bất hạnh của kẻ khác... Văn học nghệ thuật quá khứ qua thân phận của một Thúy Kiều, một chị Dậu, một Chí Phèo mà nói lên muôn ngàn kiếp sống trong xã hội có áp bức bóc lột. Tình cảm gia đình, khát vọng hạnh phúc nằm trong phần sâu của tâm hồn con người, từ lâu đã là đối tượng tìm tòi, thể hiện của văn học. Nhưng những chủ đề như là “muôn thuở” ấy sẽ mất đi ý nghĩa sâu xa nếu tách khỏi thân phận của con người, nếu tách khỏi những điều kiện xã hội cụ thể bao quanh con người. Mối tình của Rô-mê-ô và Juy-li-ét, của Trương Chi, của Thuý Kiều sở dĩ day dứt ám ảnh, là vì số phận của tình yêu không tách rời với cuộc đời chung, với số phận của nhân dân trong xã hội cũ. Mối tình của anh Trỗi càng đẹp khi đi đôi với hành động anh hùng và trong những ngày cuối cùng oanh liệt của anh.

Đọc tục ngữ, ca dao, các truyện dân gian là đến với đời sống và tâm hồn nhân dân, hiểu rõ thêm nhân dân ta đã lao động, chiến đấu, sống cuộc sống tinh thần và tình cảm của mình như thế nào. Đọc Truyện Kiều, ta hình dung được bộ mặt của chế độ phong kiến với tất cả bọn sai nha quan lại, bọn đầu trâu mặt ngựa đã chà đạp lên nhân phẩm, tài tình của con người. Đọc Nhật ký trong tù, phơi trần sự thật về các lao tù mà Bác đã trải qua, ta hình dung được bộ mặt xấu xa tham tàn của bọn thống trị Trung Quốc, qua đó càng thấm thía với tấm lòng yêu nước thương dân bao la và những phẩm chất cao đẹp của Bác.

Những sáng tác ấy có giá trị lớn vì chứa đựng sự thực sâu xa của đời sống. Nhân vật Sơn Tinh, Thủy Tinh là những vị thần, nhưng truyện thần thoại chính là được xây dựng từ thực tế lịch sử, khi những công trình đê điều bắt đầu được xây dựng để chống bão lụt từ bao đời đè nặng lên cuộc sống và trí tưởng tượng của nhân dân. Thánh Gióng không phải là thánh, cũng không phải là tên của một người nào đã từng sống thực, mà là biểu tượng của dũng khí đánh đuổi xâm lược của người anh hùng tập thể là dân tộc Việt Nam. Con người có thể có chí đội đá vá trời, đào núi và lấp biển, nhưng không ai có tài hoá đá được, nhưng truyện Vọng Phu vẫn mang được sự thực của cuộc đời, của những đau khổ, của lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.

Trong văn nghệ, sáng tạo là bằng tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng dù có bay bổng tinh vi đến đâu cũng là bắt nguồn từ thực tế, từ những yếu tố làm nên cuộc sống hằng ngày, “có bột mới gột nên hồ”. Không có chất bột này, không có chất liệu lấy trong hiện thực đời sống, thì cũng không có chất “hồ” của nghệ thuật, nó kết hợp lại với nhau những cái hình như rời rạc tạm bợ, ngẫu nhiên, nó nối liền keo sơn những cái tưởng vô can, xa lạ thành những người, những cảnh, những tình huống sống động. Tưởng tượng, sáng tạo là bay bổng trên cuộc sống hằng ngày để mà bao quát hết thảy, thu tóm hết thảy và tạo nên một bức tranh đậm đà, mới lạ, hợp với mơ ước của con người hơn.

Văn học là tấm gương của đời sống. Nhưng đời sống bao la, muôn màu muôn vẻ, biến đổi phát triển không ngừng, không có tấm gương nào mà soi cho khắp. Một cuốn phim quay lại tất cả những gì xảy ra trong một đời người là không thể quan niệm được hay nếu có thì cũng không ai có thể bỏ cả cuộc đời mình để xem cái cuốn phim lê thê ấy. Người ta đã tính là muốn ghi lại tất cả những gì đã xảy ra đối với một người, tất cả những cảm giác, ấn tượng, tất cả cái gì đã thoảng qua đầu óc con người, chỉ trong một ngày thôi, thì hàng trăm trang giấy cũng chưa đủ mà làm thế cũng chỉ đẻ ra những cái hết sức rời rạc, chắp vá, luẩn quẩn, vô nghĩa.

Những việc gì đã được ghi lại trong Truyện Kiều? Gia đình Vương viên ngoại đang sống yên vui bỗng xảy ra cơn gia biến. Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, lỗi thề với Kim Trọng, rơi vào lầu xanh của bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, vừa gặp Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư đánh ghen lại rơi vào lầu xanh, được Từ Hải cứu thoát và báo ân báo oán, tưởng kết thúc đời mình ở sông Tiền Đường, cuối cùng gặp lại Kim Trọng trong cuộc đoàn viên, Truyện Kiều là truyện của một cuộc đời. Thế nhưng, cũng như đối với màn ảnh hay sân khấu, những sự việc quan trọng trong mười lăm năm ấy được soi rọi, miêu tả cũng chỉ tính theo số giờ. Nhưng những giờ phút ngắn ngủi này chính là ngưng đọng những vui buồn không thể quên được của cuộc đời “Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm”.

Sáng tác là do một sự thôi thúc từ bên trong. Có thúc đẩy bên trong là do những kích thích từ bên ngoài, từ một vừng trăng, một hạt sương mai, một cảnh chiều tà, cho đến cảnh đất nước tươi đẹp, hùng vĩ, từ bóng dáng yêu kiều của người thương cho đến những hành động cao cả, những con người, những sự đời làm cho ta tin yêu cảm phục hay khinh ghẻ, bất bình... Đó là những cái gắn bó trực tiếp với mình mà mình là người trong cuộc hay chỉ là người chứng kiến, gần gũi hoặc ngẫu nhiên, có những cái đập mạnh ngay từ đầu, có những cái gặp đi gặp lại rồi gây ấn tượng. Sự đời giống như những con sóng lớn nhỏ đến vỗ vào lòng không để ta yên, hay như những hạt phù sa cứ tích tụ dần lâu ngày thành dải đất màu mỡ, chờ đợi, đòi hỏi được gieo trồng. Cứ thế cuộc sống kết tinh và cựa quậy trong ta, với tất cả hương sắc, với tất cả ngọt bùi cay đắng, với tất cả những cái đáng yêu, đáng giận của nó... Ta gọi đó là vốn sống.

Ở văn nghệ sĩ, cái vốn những người và việc, những ấn tượng, tình cảm, tư tưởng có sức ám ảnh day dứt lớn, đòi hỏi được thể hiện, được thoát khỏi trí tưởng tượng mà hiện hình ra ngoài, sống đời sống thực với âm thanh, màu sắc, hình tượng riêng của nó.

Trong bài báo Những nhận xét về chỉ thị kiểm duyệt mới nhất của Phổ, Mác viết: “Chân lý là phổ biến, nó không phải chỉ thuộc riêng tôi, nó thuộc mọi người, nó làm chủ tôi, chứ không phải tôi làm chủ nó”. Điều đó có nghĩa: chân lý là cái mà văn nghệ sĩ phải truy tìm và phục tùng, chứ không tự ý xuyên tạc được. Nghệ sĩ phải “nói bằng ngôn ngữ của bản thân đối tượng” chứ không được vo tròn hay bóp méo đối tượng theo sự tùy tiện chủ quan hay do một sự sắp đặt bên ngoài nào. Học thuyết kinh tế chính trị học cũng như triết học duy vật biện chứng của Mác đã chứng minh một cách không thể chối cãi rằng lịch sử là do con người tạo ra, nhưng lại tuân theo những quy luật tác động một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Cũng như thế, thước đo giá trị của một tác phẩm văn học là mức độ chân lý đời sống được phản ánh và tái tạo trong đó.
(Sưu tầm tổng hợp)​
Thêm
578
4
2
CON NGƯỜI NAM BỘ TRÊN HÀNH TRÌNH
MỞ ĐẤT VÀ GIỮ ĐẤT TRONG SÁNG TÁC CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC VÀ SƠN NAM

Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam là hai cây đại thụ của văn học Nam Bộ. Bằng tài năng và tâm huyết, các ông đã khắc họa thành công vẻ đẹp của con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất, giúp độc giả có được cái nhìn đầy đủ, đa chiều về chân dung con người phương Nam. Đó là những con người quả cảm, sáng tạo, giàu hi sinh, có lòng lạc quan, yêu đời, không nguôi khắc khoải về cội nguồn khi chinh phục và gắn bó với miền đất tân lập.

1. MỞ ĐẦU

Bình Nguyên Lộc (BNL) và Sơn Nam (SN) là những cây đại thụ của văn học Nam Bộ. Hai ông đều có bút lực dồi dào; giàu tình yêu với quê hương, xứ sở; cùng trải qua những thăng trầm của thời cuộc; đặc biệt là sống - viết chủ yếu vào giai đoạn vận mệnh dân tộc luôn đặt trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc: giai đoạn miền Nam bị tạm chiếm.

Trong hoàn cảnh sinh hoạt văn nghệ tiến bộ bị đế quốc Mĩ và chính quyền ngụy vừa kìm kẹp, khủng bố, vừa “mê hoặc bởi các tiện nghi sinh hoạt hiện đại và lối ăn chơi hưởng thụ, trác táng, sa đọa” [11, tr. 21], BNL và SN đã lựa chọn được hướng đi đúng: đứng về phía nhân dân, đứng về phía dân tộc. Hai ông khẳng định cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm văn học là ca ngợi vẻ đẹp con người Nam Bộ. Quan niệm Phù sa (Tác phẩm của BNL, có ý tưởng làm sống lại cuộc Nam tiến vĩ đại của đồng bào Nam - Ngãi trong hành trình mở mang bờ cõi, dựng nên miền Lục tỉnh - P.T.T.T) “là một món nợ tinh thần mà mình cần phải trả... Khó mà nói trước được tháng nào năm nào mới trả hết nhưng không trả không xong” [Dẫn theo 1, tr. 21] và “Muốn hiểu “hồn dân tộc” thì nên xem việc khẩn hoang với những trung tâm văn hóa dân gian” [7, tr. 317], mặt khác để tránh sự kiểm duyệt gắt gao của Mĩ ngụy nhưng vẫn giúp “người Sài Gòn, người miền Nam hiểu thêm về vùng đất mình đang sống, góp phần tạo sự gắn bó máu thịt giữa đất và người, nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và hướng về cách mạng của không ít thanh niên trong lòng đô thị miền Nam trước giải phóng” [7, tr. 337], BNL và SN đã viết về con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất gian truân, khổ ải nhưng vinh quang và tươi đẹp. Đó là những con người quả cảm, sáng tạo, giàu hi sinh, có lòng lạc quan, yêu đời, không nguôi khắc khoải về cội nguồn khi chinh phục và gắn bó với miền đất tân lập.

2. NỘI DUNG

2.1. Con người Nam Bộ hành động quả cảm, sáng tạo để chinh phục miền đất mới


Nam Bộ là một vùng đất mới được khai phá từ thế kỉ XVII, có điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức đặc biệt. Thiên nhiên Nam Bộ vừa hoang sơ, khắc nghiệt vừa màu mỡ, phì nhiêu. Ở đây, có hòn Cổ Tron nằm giữa vịnh Xiêm La với xung quanh là hòn Mẫu, hòn Dài, hòn Cổ Sơn, hòn Móng Tay mà khoảng cách với đất liền lên tới ba bốn trăm cây số tính bằng cách chạy ghe theo đường gãy nhưng khi “hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới biển ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm muôn vì sao trên dải Ngân Hà sa xuống đậu lấm tấm khắp nhánh san hô trắng bạc” [9, tr. 228]. Ở đây, có rừng U Minh Hạ, cá sấu đậm đặc hơn trái mù u chín rụng, “con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác” [8, tr. 86] mà hương rừng thì ngào ngạt, cây rừng được rắc hằng hà sa số đợt bông gòn, “bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt” [9, tr. 275]. Con người Nam Bộ cũng đến từ nhiều miền đất khác nhau. Họ từ Trung Hoa sang tị nạn, từ Ngũ Quảng đến lập nghiệp, từ phía trên châu thổ sông Mekong mở rộng địa bàn cư trú xuống vùng hạ lưu châu thổ, từ Campuchia trở về định cư ở vùng ven biên giới... Họ thuộc các tộc người Việt, Hoa, Khmer, Chăm, sống xen kẽ với nhau, đoàn kết và gắn bó. Để có thể đồng cam cộng khổ chinh phục được sự dữ dội, bí ẩn và tận hưởng sự trù phú, bất tận của thiên nhiên, con người Nam Bộ đã có những hành động vô cùng quả cảm, can trường với tinh thần sáng tạo mềm dẻo, linh hoạt...

Trước hết, điều đáng trân trọng, nể phục ở các tiền nhân khi bắt đầu hành trình mở cõi về phương Nam là quyết tâm ra đi, là sự dũng cảm dám đương đầu với thử thách. Người Việt vốn có xu hướng sống liên kết chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống và quan hệ làng xã, dẫn đến hậu quả tiêu cực là tâm lí an phận thủ thường, ngại thay đổi; thói dựa dẫm, ỷ lại; việc phân biệt giữa dân chính cư và ngụ cư... Những người đầu tiên đặt chân đến miền đất mới đã khắc phục được mặc cảm lưu lạc, tha hương, đã vượt qua được sự lo lắng, bất an về một tương lai mơ hồ, dấn thân đến những nơi chưa có dấu chân người. Gia đình thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) đang sống ở nơi có hàng trăm ngôi nhà, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, “nhưng không hiểu sao một hôm, tía má nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con, rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng này đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người này mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô Heo” [13, tr. 644]. Những người đi tiên phong ý thức được vai trò, sứ mệnh của mình, như lời Tư Lập nói với thằng Kìm (Hương rừng - SN) : “Con nhà tướng đi mở đường máu mà” [9, tr. 273].

Tiếp đến, công cuộc khẩn hoang đòi hỏi người dân Nam Bộ phải ứng phó quyết liệt và linh hoạt trước sự đe dọa tính mạng của thú dữ, các trở ngại của thiên nhiên, những hoài nghi trong lòng người nhằm duy trì sự sống, ổn định nơi ăn, chốn ở, xây dựng, phát triển một vùng đất trẻ, qua đó khẳng định sức mạnh vô song, sự mưu trí của những người đi đầu trong hành trình mở đất.

Chinh phục vùng đất mới, các nhân vật của BNL và SN luôn phải đối mặt với vấn đề thú dữ, muỗi mòng, đỉa… Chúng làm ảnh hưởng đến đời sống sản xuất và sinh hoạt, sự an toàn và hạnh phúc của người dân. Vùng Gò Quao, cọp bỏ rừng sâu, đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, thò cả đuôi vô kẽ hàng rào quanh nhà. Con sông Ngã Ba Đình có nhiều sấu hung ác, ngày cưới vợ cho con trai út của ông cai tổng Hy, đoàn ghe rước dâu bị sấu cản mũi, cô dâu mất dạng sau khi “quơ đôi chân ngược lên trời, lần cuối cùng, đầu và mình đều khuất dưới mặt nước xao động, trong miệng sấu” [9, tr. 11]. Ở Ô Heo, “muỗi mòng quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy” [13, tr. 645]... Người dân Nam Bộ đánh sấu, đánh cọp, lúc thì đánh bằng sức: “Công việc đầu tiên là đốn tre tầm vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến” [9, tr. 219] hoặc “cưỡi lên lưng con sấu, lật hai chân trước của nó cho trở ngược lên lưng” [9, tr. 21] rồi tiếp tục điều khiển như người cầm cương ngựa, buộc sấu phải khuất phục; lúc lại bằng mưu như việc ông Năm Hên (Bắt sấu rừng U Minh Hạ - SN) châm lửa đám sậy đế trong ao để sấu phải bỏ ao bò lên rừng theo con đường đào sẵn, dùng khúc mốp khóa miệng sấu, xách cái mác cắt gân đuôi sấu, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của sấu lại, chừa hai chân trước để sấu bơi tiếp với mình. Những người ở nơi rừng sâu nước thẳm còn biết tránh muỗi theo cách riêng, hồn nhiên mà độc đáo. Cô con gái Út của ông bà Cả (Cô Út về rừng - SN) sinh tất thảy sáu đứa con theo kiểu năm một vì “ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rúc vô mùng nói chuyện. Ít ai đi đâu” [9, tr. 46]. Nơi “muỗi kêu như sáo thổi” có những bí mật riêng, đúng như Sơn Nam đã viết “Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi” [9, tr. 47]. Không lên gân, không quá ồn ào, hai nhà văn đã tái hiện cuộc chiến đấu hào hùng của con người Nam Bộ với côn trùng, thú dữ bằng giọng kể giản dị, tự nhiên, nhưng vẫn giúp độc giả cảm nhận được sự phi thường, dũng cảm của những tiền nhân.

Thiên nhiên Nam Bộ khắc nghiệt song đa dạng. Những người đi khẩn hoang sẵn sàng đối mặt với sự thất thường, đỏng đảnh của thiên nhiên và biết cách tận hưởng những gì tươi đẹp mà thiên nhiên hào phóng ban tặng. Đó là cách ứng xử thích hợp của con người Nam Bộ để sinh tồn, phát triển. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm đã khẳng định: “Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra hai khả năng: những gì có lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng, còn những gì có hại thì con người phải ra sức ứng phó” [14, tr. 186]. Một năm, Nam Bộ có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa lớn chiếm hơn 80 % lượng mưa của cả năm dẫn đến khoảng 1 triệu ha ngập trong nước lũ. Khi lênh đênh trên một chiếc xuồng nhỏ, cha lại đang hấp hối, thằng Kìm (Một cuộc bể dâu - SN) mới cảm nhận hết sự đáng sợ của sông nước miền Tây: “Qua lượn sóng to này nó hồi hộp, chưa kịp nghỉ tay mà lượn sóng khác tràn tới... Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy mãi về hướng Tây. Nó thắc mắc: nước ở đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai thước, mênh mông không bờ bến như biển khơi” [10, tr. 13]. Những người chết vào thời điểm này như cha nó, người dân Nam Bộ có hai cách: “một là xóc cây tréo ở giữa đồng rồi treo lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất” hoặc “bỏ xác lại rồi dằn cây dằn đá mà neo dưới đáy ruộng” [10, tr. 17]. Mùa nước lũ, để đảm bảo sản xuất, người dân Nam Bộ đưa cả đàn trâu lên núi Ba Thê, qua miệt Bảy Núi, trâu được ăn thứ cỏ phảng phất mùi giống như vị thuốc bắc; họ chọn cách làm ruộng Lò Bom, gieo loại lúa Xom Ma Cà, tổng cộng làm ruộng tốn có một ngày rưỡi mà có lúa ăn... Mùa khô, nước rút, Nam Bộ ở trong trạng thái khô kiệt, nhiều diện tích đất nhiễm phèn, mặn chát. Cả nhà thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) uống nước đọng trên lung, trên rừng, “đóng mười hai cây cộc, làm thành bốn cái giá ba chơn... Trên mỗi giá đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về... Hành, ớt, rau răm, rau mồ om được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó. Đó là bốn thứ tối cần, đất mặn bao nhiêu cũng lập thế mà trồng không thôi không có món gia vị nào để ăn cá nữa” [13, tr. 652 - 653]. Hành trình mở đất được bắt đầu từ những việc đơn giản như thế, cho thấy sự năng động và đời sống sinh hoạt thể hiện bản sắc văn hóa của người Nam Bộ khi chinh phục miền sơn cùng thủy tận.

Địa hình của vùng đất tân lập cũng khá đa dạng, có sự đan xen của đất đỏ bazan, đất phù sa cổ và phù sa mới; bên cạnh những cù lao, dải bờ biển là những vạt đất ven sông, giồng cát ven biển; sông ngòi, kênh rạch dày đặc... Tiền nhân đã kiên trì, nhẫn nại, bền bỉ làm tất cả những gì có thể để lấn biển, hạn chế xói lở, chống gió bão, chống nạn cát bay; canh tác và khai thác các nguồn lợi thực vật, động vật; thông thương, đi lại giữa các xóm các ấp... Năm xưa, ông nội với tía thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch, lấy đất trồng lúa, nhưng chưa đủ sức đánh bật những gốc tràm tươi rói đành cấy lúa giữa những gốc ấy, chờ đợi mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi cây tràm cứng đầu, rồi trở thành chủ nhân xứng đáng của những mảnh đất mà họ đã đổ mồ hôi, nước mắt để khai phá. Năm tới, khi rừng mắm mọc trên đất phù sa ngã rạp, giống tràm nối ngôi, và sau mấy đời tràm, đất thuần, “ta làm ba mươi công, và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới để phụ lực... vùng Ô Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu” [13, tr. 660]. Sự phong phú của hệ sinh thái còn dẫn đến Nam Bộ là nơi cư trú của các quần thể thực vật, động vật với các rừng mắm, rừng đước, rừng tràm...; có cá, tôm, rùa, rắn...; nhiều sân chim khoảng chục loài và số lượng ước đến hàng mấy vạn con. Nơi gia đình thằng Cộc sống, “rừng tràm dày mịt, chằng chịt những dây bòng bong, dây choại bò từ thân cây này sang thân cây khác” [13, tr. 647], “rùa nhiều như kiến. Đốt rừng rồi đón trên đầu gió một cái là chúng nó lạch cạch chạy trốn, bắt không kịp lận” [13, tr. 650], “chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ” [13, tr. 658]... Từ những nguồn lợi kể trên, những người dân đến khẩn hoang đã làm rất nhiều nghề để sinh nhai và trụ lại vùng đất phương Nam. Ăn ong và đốn củi là hai nghề thường đi liền với nhau, thích hợp với những vùng xung quanh đều là rừng tràm. Những người thợ ăn ong và đốn củi là những thanh niên trai tráng khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Họ biết mẹo ăn ong được nhiều, biết che mắt lính kiểm lâm việc đốn củi bằng hình thức giăng câu bắt rắn. Cứ hừng sáng, họ đi vào rừng. “Gặp cây nào to lớn, ngay thẳng họ hạ xuống lột vỏ, ngâm bùn chôn giấu để làm cột nhà, bán với giá đắt hơn. Cứ mười bữa họ cho người chở củi ra chợ Thới Bình giao cho nhà vựa củi” [8, tr. 226 - 227]. Không chỉ vậy, người Nam Bộ còn làm nghề bắt cá tôm (được nhắc đến trong truyện Cao khỉ U Minh, Bác vật xà bông, Đảng xăm mình, Người mù giăng câu... của SN); nghề bắt rắn, nghề bắt rùa (SN miêu tả cụ thể kinh nghiệm làm nghề trong truyện Cây huê xà, Con rắn ri voi, Kéo trúm, Con bà Tám, Cấm bắt rùa...); nghề bắt chim (được đề cập trong truyện Bốn cái ngu, Con trích ré, Tháng chạp chim về... của SN)... Sự đa dạng nghề nghiệp tạo nên nét thú vị cho cuộc sống của người dân ở vùng đất mới. Ông Tư Huỳnh (Cao khỉ U Minh) tin rằng phải ăn nhiều cá mới khỏi chết vì bệnh rét rừng, đặc biệt là ăn nhiều cá sẽ bù được lượng máu bị mất do muỗi rừng U Minh đốt. Theo ông, rừng U Minh không thiếu cá, cho nên trong bữa nhậu, ông và mọi người đã ăn từ cá lóc nái đến cá sọc rằn, đến nỗi đống xương cá vun lên khá cao và nếu rỉa cho kĩ thì “trong đống xương đó còn dính chừng một kí lô cá” [8, tr. 159]. Người dân vùng Rạch Giá, Hà Tiên thì kéo đến các sân chim để bắt chim, lông chim kết thành quạt, mỡ chim nấu thành dầu để thắp đèn còn thịt chim đem xào sả nghệ và trộn nước cốt dừa ăn rất ngon. Nhưng người Nam Bộ “sinh nghề tử nghiệp”. Thất bại của Hai Nhiệm (Con bà Tám) khi xây nò bắt cá hay cái chết của cha con Năm Điền (Cây huê xà) vì muốn có toa thuốc trị rắn càng cho thấy những khó khăn, gian khổ của những người đi tiên phong trong hành trình mở rộng bờ cõi về phương Nam. Sông nước mênh mang cũng là thử thách đối với cuộc sống của người dân nơi đây. Tuy nhiên, con người Nam Bộ biết cách vượt qua được trở ngại này. Họ cất nhà dọc mé sông để ở, sắm ghe, xuồng làm phương tiện đi lại, kiếm sống. Không chỉ vậy, ghe, xuồng còn là nơi để họ nương thân, kiếm tìm hạnh phúc. Vợ chồng anh Nhánh (Không một tiếng vang - BNL) ở trên một cái ghe nhỏ, khi thì lặn mò cây dưới đáy sông, lúc thì xúc cá cho một tiệm cháo, cuối cùng chết vì nghề xúc cát ở một cồn ngầm sâu. Mẹ con cô Hồng (Con cá chết dại - SN) từ Long Xuyên đi xuồng xuống Rạch Giá làm mướn, “hy vọng đem về vài giạ lúa sớm và một hũ mắm” [4, tr. 39]. Cô Bảy (Con Bảy đưa đò - SN) sống một thân một mình, lúc đầu chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhật, sau lái đò qua sông, về già thì ngồi lì ở một bến sông bán món thịt heo luộc ngon ngọt không đâu sánh kịp. Hai Cần (Vẹt lục bình - SN) dùng chiếc xuồng cũ vượt qua lúc nước xuôi gió ngược, vẹt lục bình, ném từng giề quăng lên cao và thật xa để đến hỏi cô Hiếm ở nơi “gạo trắng nước trong” làm vợ.

Nam Bộ là nơi cộng cư của nhiều tộc người với những bản sắc văn hóa khác nhau: Việt, Hoa, Khmer, Chăm... Vì nhiều lí do họ đến mảnh đất này. Có thể bởi khát vọng đổi thay cuộc đời ở một vùng đất đai màu mỡ, có lẽ do mong muốn được sống ở một nơi tự do, ít phải chịu sự bó buộc của chính quyền, không ai rành tung tích... Thời gian đầu mới tiếp xúc với nhau, người dân thuộc các tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm không tránh khỏi sự dò xét, ngờ vực, nghi ngại. Nhưng thực tế công cuộc khẩn hoang giúp họ hiểu ra sự cần thiết và tất yếu của tinh thần hợp tác, sự dung hòa của những sức mạnh nội lực và ngoại sinh. Sự xuất hiện của một người Trung Hoa tại xóm Sóc Xoài (Hồn con mèo - SN): “già trên bảy mươi, tay chống cây gậy trúc, mặc áo ngắn, có râu năm chòm bạc phếu” [3, tr. 179] đã khiến chủ ấp nghi ngờ ông lão này làm tay sai cho kiểm lâm hay đi tìm kho báu đang được chôn giấu. Những người dân làng Long Phú (Ngó lên sở thượng - SN) khi chạy Tây đã ngần ngại không dám vào làng Liên Tú, làng toàn người Miên - tên gọi khác của người Khmer, vì không biết tiếng, bởi chưa làm quen với bà con, đến đột ngột sợ họ nghi ngờ. Nếu anh Pô (Lò chén chòm sao - BNL) xác định mình là người Minh Hương cũng giống người An Nam nên thích nói tiếng An Nam thì chú Yều vẫn khăng khăng phân biệt: “Như sao được, Triều Châu khác, An Nam khác chớ” [12, tr. 274]. Song đúng Con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam 42 như BNL từng kết luận, người Chăm, người Khmer có điểm chung với người Hoa lập nghiệp tại miền đất tận cùng hình chữ S là “không nguy hại cho an ninh và nền kinh tế của ta chút nào cả... chỉ mong được chén cơm hàng ngày” [13, tr. 871] bằng một tinh thần nhẫn nại đến bền bỉ. Họ đã sống cùng nhau mấy trăm năm, chia sẻ những khó khăn, hoạn nạn. Vợ chồng ông Bang, người Hoa (Ông Bang cà ròn - SN), mua cà ròn của người Miên trong sóc đan thật kĩ và thật khéo, ứng trước tiền cho các gia đình, gây được cảm tình với tất cả dân chúng trong sóc. Thầy Hai (Một người hàng xóm - SN) sẵn lòng giúp đỡ gia đình người Hoa ở kề vách bất cứ công to việc lớn nào vì quý sự chí thú làm ăn, không hề gây gổ với ai của họ. Những người Hời - tên gọi khác của người Chăm (Cô Hời bán thuốc - BNL), mỗi năm đến Sài Gòn độ ba bốn kì để bán thuốc và bán những món nữ trang bằng mây đan nhuộm màu, họ “biết nói đùa có duyên như là “giá chồng, giống chà”, biết so sánh lạ lùng như là “khó hơn qua khe núi”, biết nói bập bẹ tiếng Việt” [12, tr. 586]. Trong công cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam, các tộc người hòa nhập với nhau, đến mức chú Yều có lúc không còn biết mẹ chú là người Việt hay người Hoa nữa, còn Sanh thấy cô Hời bán thuốc biết dùng những từ người Việt thường nói tuy ngạc nhiên mà chẳng hề tìm hiểu. Hệ quả là trên miền đất tân lập, người ta dễ dàng tìm được những xóm làng giống như địa danh Cù Là, “nơi gặp gỡ tự nhiên của hai con rạch cong queo và dùng đến ba thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Miên, tiếng Triều Châu” [10, tr. 271] với những con người “ai nấy làm ăn vui vẻ” [4, tr. 193].

Tóm lại, bằng sức mạnh được cộng gộp, chung đúc bởi biết bao hành động dũng cảm, can trường, thể hiện sự mưu trí, năng động, những người “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng” biến vùng đất hoang vu, “rừng thiêng, nước độc” trở thành nơi trù phú, đáng tự hào, và mời gọi các thế hệ tiếp bước thành quả của ông cha.

2.2. Con người Nam Bộ giàu lòng hi sinh, có tinh thần lạc quan, yêu đời, không nguôi khắc khoải cội nguồn khi gắn bó với miền đất mới

Mở mang bờ cõi không phải là công việc chỉ có sự vinh quang, oai hùng. Mở mang bờ cõi đã lấy đi bao máu, mồ hôi, nước mắt của những người khẩn hoang. Để có lúc họ thấy nhụt chí, nản lòng, muốn dừng lại phía sau. Ở xóm Ô Heo hiu quạnh, thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) “thèm người vô cùng, thèm còn hơn thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm” [13, tr. 644] và hơn một lần nó muốn bỏ đất mà đi, “đi đâu cũng được, miễn ở đó có làng xóm, có người ta” [13, tr. 654]. Thấy bàn tay của người mình trộm nhớ thầm thương bị rụng hết ngón vì chứng bệnh cùi, Tư Lập (Hương rừng - SN) “viện cớ ra đi... không thèm làm nghề ăn ong nữa... về Long Xuyên” [9, tr. 270]. Nhưng rốt cục, thằng Cộc và Tư Lập đều ở lại, gắn bó với nơi mà bao lớp người, trong đó có cả bản thân mình đã bỏ công sức, trí tuệ tạo dựng, vun xới. Căn nguyên, cội rễ của việc giữ đất, bám rừng chính là người Nam Bộ ý thức được sứ mạng của người đi tiên phong; trân trọng sự hi sinh thầm lặng của tiền nhân; tìm được niềm vui sống từ bùn lầy, mưa nắng; mặc dù vẫn không thôi khắc khoải về cội nguồn, đau đáu bởi niềm thương nhớ dĩ vãng.

Phát cỏ trồng lúa, đốn cây lấy củi hay đơm cá, bắt chim ban đầu chỉ là những việc cần thiết nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của những người đi tha hương. Nhưng khi miền đất mới được hình thành và trở nên giàu đẹp, lại chứng kiến các thế hệ khẩn hoang ngã xuống lót đường cho con cháu đi tới, người Nam Bộ không khỏi chiêm nghiệm, nghĩ suy về quyển sử trường cửu của đất nước, mà mình là “một tờ giấy bao la”, “một nét chữ không nhòa”. Ông nội thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) nói cho nó hiểu đức hi sinh cao cả của những người đã bỏ mồ mả tổ tiên để lăn lộn chốn “sơn lam chướng khí” bằng những lời lẽ giản dị, nhẹ nhàng mà minh triết: “Ông với lại tía con đây là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau” [13, tr. 660]. Ông cũng gửi gắm kì vọng thằng Cộc sẽ viết tiếp lịch sử mở đất: “Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi. Vả lại con không thích hi sinh chút ít cho con cháu của con hưởng sao” [13, tr. 660]. Vì ông hiểu rằng lịch sử bao giờ cũng cần những người như đàn kiến xung phong đi tốp đầu liều chết lội qua chỗ nước rộng để làm cầu cho bạn đi sau vào đến nơi có chất ngọt, và lịch sử là gì “nếu không phải là sự truyền lửa từ lớp người vô danh này đến lớp người vô danh khác cho cây đời mãi xanh tươi” [1, tr. 69].

Nhiều khi người già còn lo giữ gìn, bảo mật nghề mang đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp cho đời sau với mong muốn những cánh đồng lúa mình bỏ công cày cấy ngày càng mênh mông, bát ngát, những miệt vườn mình từng góp sức trồng trọt thêm phần sum xuê, trĩu quả. Ông Sáu (Nỗi buồn của người sắp chết - BNL) nhắm mắt không yên vì chưa dạy được nghề đóng cối xay cho thằng con Út. Thầy Quýt (Đóng ông thầy Quýt - SN) chỉ day dứt một điều: “Khi xưa người dân phá rừng mở nước, họ làm lụng suốt ngày quên ăn cơm, cứ mỗi cây phảng nặng một yến. Bây giờ chỉ phát một buổi mà cây phảng sụt xuống còn năm cân mà lắm người than mệt... Liệu à, mày đừng bắt chước tao! Tao là đứa làm biếng sau chót hết, mày phải ráng sức giữ lấy nghề nông” [9, tr. 98]. Người Nam Bộ biết ơn, xúc động bởi những giá trị vật chất và tinh thần mà lớp người đi trước dành cho hậu thế. Thơ núi Tà Lơn (SN) do một nông dân ở vùng Cà Mau soạn ra được phổ biến khá sâu rộng trong các xóm nhỏ không ngờ lại có sức quyến rũ, ám ảnh đối với ông Tư. Ông tâm sự: “Khi quá vui thì mình đọc nó cho tâm hồn bình tĩnh trở lại! Nhớ tới công lao cực nhọc của ông bà khi xưa. Khi nào túng tiền, mình nhớ xứ Cà Mau, bài vè này sẽ gợi chút ấm áp. Cũng như trời lập đông, mua chút rượu để mà uống” [10, tr. 239]. BNL ngắm nhìn Sông Ông Lãnh giữa lòng Sài Gòn thấy màu vàng sậm vẩn phù sa của nước sông mà “nhớ Thủy Chân Lạp hoang vu, nê địa”, nhớ “cuộc đổ xô vào Nam”, nhớ “hình ảnh đẹp đẽ của đoàn người chiến đấu với thiên nhiên để khai thác đất mới” [13, tr. 819 - 820]; thưởng thức món quà đêm trên Sông Ông Lãnh mà lòng rưng rưng như ngửi đâu đây mùi thơm của chè cúng đưa ông Táo ngày hăm ba Tết ở làng xa, mùi ngọt của lò đường tiểu công nghệ với những đêm dài nổi lửa đốt lò, mùi ngái của đồng đất quê hương. Người Nam Bộ đã tri ân tiền nhân bằng cách tiếp bước công cuộc mở cõi, bằng việc lựa chọn lối sống thủy chung, nghĩa tình. Nhân vật Năm Hên của SN (Bắt sấu rừng U Minh Hạ) dùng mưu cao, tài đảm để bắt sấu cứu dân làng Khánh Lâm, nhằm trả thù cho anh trai và bao nhiêu kẻ mất mạng vì cá sấu, muốn những con rạch, ngã ba mang tên Đầm Sấu, Lung Sấu, Bàu Sấu không còn là nỗi khiếp sợ của con người. Tiếng hát của ông sau mỗi lần bắt sấu là niềm chạnh nhớ tới tổ tiên, bạn bè, những người đã bỏ thây vì đàn cá sấu trên bước đường sanh nhai, chinh phục miền đất mới. Hoàng (Đất không chết - BNL) chỉ yêu được nếp nhà “chứng kiến bao nước mắt, bao nụ cười của bao thế hệ trong dòng họ”, chỉ gắn bó với chốn “có những vuông ruộng sau nhà mà nơi đó lưỡi cày của tổ tiên ta đã lặn hụp từ mấy ngàn năm” [12, tr. 296] nên quyết từ bỏ đô thành ồn ào, xa lạ, trở về giữ đất, làm đất không còn mặc cảm bị lãng quên, hoang hoải, được nhuộm xanh và nồng nàn sinh khí.

Một trong những lí do người dân Nam Bộ trụ lại được ở môi trường: “Rừng thiêng nước độc thú bầy. Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội đầy như bánh canh” (Ca dao Nam Bộ) với nỗ lực phi thường và sự bền gan, quyết chí còn là tinh thần lạc quan, yêu đời, niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Trong cuộc khẩn hoang, con người Nam Bộ không chỉ biết tới nước mặn, đồng chua, nắng cháy và nước xiết mà họ còn cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình của thiên nhiên hay sự hào hiệp, “điệu nghệ” của con người miền đất tân lập. Dù vật lộn mưu sinh, chú Tư Đinh (Mùa “len” trâu - SN) rất hứng thú với cảnh núi Ba Thê đẹp như chốn bồng lai: “Cảnh núi non thanh lịch, trâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chúa mà gãi sồn sột” [10, tr. 41]. Chú nhìn thấy hình ảnh những thân lúa đang cố vượt lên bùn đen để khẳng định sức sống: “Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình dậy men thành bùn non, mớm hơi sức cho rễ lúa trắng phau. Cứ qua ngày đêm, nước ngập lên một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống” [10, tr. 38]. Dân xóm Rộc Lá (Ông mù giăng câu - SN) gọi ông lão mù là Vân Tiên và tôn ông là sư tổ giăng câu. Ông câu cá không bằng mắt như người bình thường khác. Ông câu bằng óc xét đoán để hiểu được tâm lí, quy luật của loài cá; câu bằng nghị lực của một người sống cô đơn, không ai thân thích và niềm vui thú với nghề nghiệp của mình. BNL lại tha thiết cùng chiếc ghe lênh đênh, dòng kênh xanh thẳm, những món quà quê dân dã và đặc biệt là hàng me cổ sơ trồng trên đường phố Sài Gòn: “thân cây đều đặn, không cao lỏng khỏng như dầu, không lùn tịt như sanh, đẹp với vỏ cây cằn cỗi gợi nhớ những cội tùng già bên chùa cổ trên một sườn non, với rêu xanh mơn mởn bám trên vỏ sạm đen, đẹp như non bộ dày sương dạn gió, với tàn không thưa, không sơ rơ như tàn sầu riêng, không dày mịt như măng cụt, vốn nó đã đẹp ở ngoài thiên nhiên rồi, mà trồng trên vỉa hè đa, bên cạnh những ngôi nhà xi măng cốt sắt, khô, nóng và buồn thì nó còn đẹp hơn biết bao” [13, tr. 817]. Ông cũng dành nhiều trang văn ca ngợi vẻ đẹp của những mảnh đời nhỏ bé, bình dị, không phải là miêu tả ngoại hình quyến rũ mà chú ý tới một đôi tay chèo thuần thục của cô gái bán canh “sử dụng hai cây chèo bằng một tay thầy” [13, tr. 826] hoặc tiếng rao quà thiết tha, trầm bổng “nghe yêu đời lắm, vì do miệng một kẻ yêu đời hát lên” [13, tr. 828]. Người Nam Bộ rất quan tâm đến lạc thú tinh thần. Họ coi việc cất lên lời ca, tiếng hát giữa cảnh rừng âm u, sâu thẳm hoặc trên những dòng sông nước chảy xiết là phương cách xua đi sự choáng ngợp trước vẻ dữ dội, kì bí của thiên nhiên, tạo cơ hội cởi mở tấm lòng với người bạn đường, vơi nhẹ nỗi khắc khoải về nơi chôn nhau cắt rốn... Nếu trong sáng tác của BNL, những câu ca xuất hiện giản dị, tự nhiên như hơi thở đời sống thì ở tác phẩm của mình, Sơn Nam đã say sưa viết về nguồn gốc, đặc điểm các hình thức hát đặc trưng Nam Bộ, thể hiện sự am hiểu sâu rộng của ông về bản sắc văn hóa của miền đất mới. Má thằng Cộc (Rừng mắm - BNL) lội sình tới đầu gối và lội nước gần tới háng nhưng vẫn vui vẻ cất tiếng hò:

Hò ơ... Tiếng anh ăn học lảu thông

Lại đây em hỏi ăn lông mấy đường


làm thằng Cộc thấy xôn xao trong lòng, muốn được má dạy cho đôi câu. Câu hò bâng quơ nhưng chất chứa bao nỗi ngậm ngùi của má nó nhớ lại thời con gái khi còn sống ở làng. Ông nội thằng Cộc trong niềm hứng khởi về vùng Ô Heo nay mai: nhà cửa đông đúc, nhiều cau, dừa, xoài, quýt, nước ngọt tràn trề “bỗng sực nhớ lại câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam:

Hò... ơ Rồng chầu ngoài Huế,

Ngựa tế Đồng Nai,

Nước sông sao cứ chảy hoài,

Thương người xa xứ lạc loài đến đây”
[13, tr. 661]

như để bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích về sự hi sinh của rừng mắm, sẵn sàng sống trong bùn và sau này khi ngã rạp xuống, bùn đó sẽ thành đất, cho đời tràm, đời cây tiếp nối, tỏa hương thơm, kết trái ngọt. Theo SN, ở Nam Bộ phổ biến một số loại hình ca hát như hát bội, hát huê tình, nói thơ Lục Vân Tiên hay thai đố. Hát bội là hình thức tiêu khiển của người dân khẩn hoang khi điều kiện sống còn khó khăn, chưa phát triển được lối hát đối đáp. Người Việt xóm Khoen Tà Tưng và người Miên xóm Tà Lốc (Hát bội giữa rừng) góp gạo nuôi gánh hát. Họ làm rạp bằng củi tràm, quanh sân khấu là các gốc cừ đan khít vào nhau vừa tránh cọp, vừa né sấu. Sau này kênh rạch thông thương, nhiều xóm nhỏ mọc lên, trai gái hẹn ước, hát huê tình được người dân Nam Bộ rất ưa chuộng. Ông Ba Hò (Ngày xưa tháng Chạp) dạy bảo thằng Tịnh, đứa học trò mến nhất của ông, rằng hát huê tình phải có lớp lang, đầu tiên là câu mừng nhau, tiếp đến là chương tâm tình: “bên trai như cầm giây tơ buộc vào, bên gái phải khéo léo gỡ ra” [4, tr. 173], lớp cuối người con gái than nghèo để chàng trai chứng tỏ bản lĩnh. Người ta thường hát huê tình giữa khung cảnh thiên nhiên nhằm bộc lộ hồn nhiên, chân thực mọi cung bậc cảm xúc của mình. Tiếng hát huê tình của con Bảy đưa đò và chàng trai xứ Bình Thủy (Con Bảy đưa đò) cất lên trong đêm khuya nơi khúc sông thanh vắng thể hiện tài ăn nói thông minh, lanh lẹ, tâm hồn trọng nghĩa tình của con người miền đất phương Nam. Bên cạnh đó, ông Tư Đạt sống ở Gò Mả Lạn (Miễu bà Chúa Xứ) hay những người làm nghề đốn củi như ông Tư Châu Xương, anh Tư Bình Thủy (Nhứt phá sơn lâm) đều có thói quen nói thơ Vân Tiên để giải khuây mỗi khi chiều về và coi đó như một cách răn mình. Bởi truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu phù hợp với đạo lí của người dân Nam Bộ, lại được khẳng định qua những trải nghiệm sống của từng nhân vật SN yêu mến. Nhà văn cũng bàn ít nhiều về thai đố, cách hát mượn ca dao, hò, vè làm câu hát đố, tập cho mọi người suy nghĩ nhanh và biết nhìn tổng quát sự vật. Cậu Cấn (Câu thai đố) hiếu thắng xin giải hết câu đố này đến câu đố khác nhằm tạo ấn tượng với cô Lài, con gái ông hương giáo. Cô Lài (Ngôi mộ chôn đứng) muốn Hưng tự hào mình là người thông minh, sáng suốt, không bỏ qua dịp trổ tài giải câu thai đố vì “một miếng thịt làng bằng một sàng thịt chợ”. Có thể nói, điệu hò, câu hát đã làm cuộc sống của những người dân trên hành trình mở đất vơi bớt nhọc nhằn, ưu phiền và họ càng thấy gắn bó máu thịt với quê hương thứ hai của mình hơn bao giờ hết.

Điểm tựa tinh thần cho những lưu dân còn là nỗi nhớ về cội nguồn. Họ day dứt khôn nguôi vì phải xa cố quán. Nhiều khi họ “không rành căn cội tổ tiên mình từ đôi ba đời trước là ai, từ đâu xiêu lạc đến vùng đất mới” [6, tr. 13]. Nhưng họ vẫn “nhớ xưa” để tìm nguồn an ủi” [5, tr. 57], để kiên định với mục đích mở rộng bờ cõi, biến Đồng Nai và đồng bằng sông Cửu Long thành một phần đất của Tổ quốc và trân quý những thành quả mà bao lớp người khẩn hoang trong đó có thế hệ mình đã tạo nên ở vùng đất mới. Như những người Việt Nam sống trên mọi miền đất nước, người Nam Bộ có tục lệ thờ cúng. Đây là ứng xử văn hóa bền vững, tốt đẹp, kết nối các thế hệ, gắn bó, ràng buộc con người với nhau và con người với ruộng nương, vườn tược. Vào những dịp quan trọng, người Nam Bộ “thường bày ra mâm cơm nhỏ, đặt trước ngưỡng cửa” và khấn: “Đất đai viên trạch, tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ, ông bà đất nước” [6, tr. 26] nhằm tưởng niệm và tạ ơn những người đã khuất. Người Nam Bộ hiếu thảo với ông bà cha mẹ nên đám giỗ thường làm rất to. Gia đình Sáu Nhánh (Phân nửa con người - BNL) cúng vào sáu giờ sáng để “khách khứa ăn giỗ xong còn ra đồng làm lụng” [13, tr. 993] hoặc vào chính ngọ, lúc “thuyền nào cũng bị kẹt tại vàm này và như thế mới có khách” [13, tr. 996]. Họ nuôi heo, chăm gà chuẩn bị cho đám giỗ vì đó là cơ hội anh em, con cháu được gần gũi, là dịp mọi người chia sẻ những dự định nung nấu trong tâm can. Thiếu phụ (Chiêu hồn nước - BNL) tuy chỉ về thăm quê được vài ngày Tết nhưng đã kịp trang hoàng căn buồng thuê “nào tranh gà, tranh lợn, tranh Tàu trên vách, đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc bàn con với gần đủ đồ thờ, bình hương, độc bình, đèn, nhang” [13, tr. 942] để vơi bớt nỗi nhớ nguồn cội, dịu đi cảm giác đơn côi, lạc loài. Người Nam Bộ cũng không quên bao người vô danh đã ngã xuống cho sự bình yên và tươi đẹp của mảnh đất ở tận cùng đất nước: những người bỏ mình vì thú dữ hay chết oan bởi súng đạn của quân thù. Mỗi lần bắt sấu, ông Năm Hên (Bắt sấu rừng U Minh hạ, Con sấu cuối cùng - SN) đều làm nghi thức cúng vái dù “có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu” [8, tr. 87], hi vọng sẽ làm hồn những người chết oan được thanh thản. Bà con xứ Đìa Gừa bị bắn chết đêm mùng bảy tháng Chạp được ông Tư Đạt (Miễu Bà Chúa Xứ - SN) thờ cúng, nhang khói trong một cái miễu nhỏ. Xương thịt của họ lẫn vào đất quê hương, linh hồn họ có nơi nương tựa. Họ phù hộ cho đời sau, để “đất ruộng rung rinh, lúa mới cấy đều như sóng dậy ngoài biển... rễ lúa vươn lên mặt đất, đòi đơm bông kết trái” [9, tr. 311].

Theo SN, bên cạnh mục đích lập làng xã ở nơi khẩn hoang, con người Nam Bộ còn ấp ủ ước mơ dựng đình chùa, bởi “làng xã và đình chùa là cơ cấu của văn minh nông nghiệp, là vốn liếng tinh thần mạnh nhứt” [6, tr. 359], trong đó đình thờ thần - một thành tố làm nên sơn hà xã tắc, chùa thờ Phật - một lời “giải đáp về số phận con người với luật quả báo luân hồi và tình yêu nhân loại, vượt biên giới” [6, tr. 359]. Niềm khắc khoải về cội nguồn của con người Nam Bộ được soi chiếu thêm từ một góc nhìn khác: tín ngưỡng dân gian. SN đã miêu tả khá chi tiết bản sắc văn hóa độc đáo của miền đất mới qua một số tác phẩm của ông. Khi đình bị mất con hạc, cây kích, cây giáo và sắc thần vua ban cho ông Thần của làng làm tới chức Cai Đội trong cơ binh của vua Gia Long, ông từ giữ đình và ông Cả Dư (Con cháu Thần Nông) lo lắng không biết ăn nói như thế nào với dân làng và sợ rằng tai họa, hạn hán, ôn dịch sẽ xảy ra. Họ phải nhượng bộ trước thằng Nua, thằng Tám để tìm lại những vật quý giá về chưng trong đình. Đầu xuân, người Sài Gòn náo nức rủ nhau viếng Lăng Ông Bà Chiểu (Lá xâm số 58) - nơi thờ ngài Tả quân Lê Văn Duyệt, trấn giữ bờ cõi miền Nam kì lục tỉnh giúp dân yên ổn làm ăn - và xin lá xâm cầu sự may mắn. Người người “xin đội ơn mà ngài Tả Quân đã ban cho dân miền Nam, từ đời xưa đến đời nay và đời sau” [3, tr. 193]. BNL lại viết hai bài tạp văn để bàn về Thần thánh Sài Gòn và Chùa chiền, đền miếu. Tác giả cho rằng Sài Gòn dù đất chật người đông song vẫn cố gắng “giành cho thần thánh một cái bến nho nhỏ gọi là tỏ chút tâm thành” và người Sài Gòn tuy mải bon chen nhưng thần thánh “chắc chắn là còn nguyên vẹn trong lòng của những người này cho đến lúc họ xuống mồ” [13, tr. 883]. Nhà văn cũng nhận ra người Sài Gòn “thèm chùa” nên họ gọi nơi thờ bất cứ ông nào với các kiểu kiến trúc khác nhau đều là chùa. Chùa thờ Ngọc hoàng, chùa thờ thần Vichnoun. Chùa Kì Viên không khác nhà ở, chùa Xá Lợi trừ mái cong ra không thấy có điểm đượm mùi thiền, chùa ở đường Hồ Huấn Nghiệp lại gợi liên tưởng đến thế giới kì ảo của Nghìn lẻ một đêm ở vùng Cận Đông, Trung Đông. Điều quan trọng là đến chùa người ta được xoa dịu nỗi đau, có cơ hội mơ ước việc an lành; đến chùa người ta được khấn vái, thắp nhang - cử chỉ thể hiện niềm hoài vọng về đạo đức ông cha, sự khắc khoải về cội nguồn dân tộc.

Vậy là, can trường, nghị lực và năng động, người Nam Bộ đi tiên phong trong công cuộc mở đất, góp phần tạo nên lãnh thổ hình chữ S trên bản đồ thế giới; hồn hậu, vị tha, không quay lưng với quá khứ, người Nam Bộ đã gìn giữ và phát triển miền đất tân lập ngày một tươi đẹp, trù phú, xứng đáng với vinh danh “hòn ngọc Viễn Đông”, “vựa lúa lớn nhất của cả nước”.

3. KẾT LUẬN

Có thể nói rằng, cả cuộc đời đau đáu với đề tài “lịch sử khẩn hoang miền Nam” (SN), trăn trở với cảm hứng “nguồn cội” (BNL), hai nhà văn đã dành nhiều tài năng và tâm huyết khắc họa thành công vẻ đẹp con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất, giúp độc giả có cái nhìn đầy đủ, đa chiều về đất và người phương Nam, từ đó càng thêm tự hào, trân quý về truyền thống hào hùng của dân tộc, cảm phục, ngưỡng mộ ý chí, nghị lực của các thế hệ ông cha. Con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Vũ Thị Xuân Khang (2010). “Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc trong văn học đô thị miền Nam trước 1975”, Luận văn Thạc sĩ, Chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

[2]. Nguyễn Vy Khanh (ngày 6 -12 - 2007), Bình Nguyên Lộc và tình đất,

[3]. Sơn Nam (2006). Hương Quê, Tây đầu đỏ và một số truyện ngắn khác, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[4]. Sơn Nam (2009). Biển cỏ miền Tây, Hình bóng cũ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[5]. Sơn Nam (2009). Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, Thuần phong mĩ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[6]. Sơn Nam (2009). Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[7]. Sơn Nam (2009). Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9, 20 năm giữa lòng đô thị, Bình an, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[8]. Sơn Nam (2011). Hương rừng Cà Mau, tập 1, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[9]. Sơn Nam (2009). Hương rừng Cà Mau, tập 2, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[10]. Sơn Nam (2009). Hương rừng Cà Mau, tập 3, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[11]. Trần Hữu Tá (1994). “Khuynh hướng văn học yêu nước tiến bộ trong các thành thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 (đặc điểm và thành tựu)”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội

[12]. Nguyễn Q. Thắng (Tuyển chọn, giới thiệu) (2002), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

[13]. Nguyễn Q. Thắng (Tuyển chọn, giới thiệu) (2002), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

[14]. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

(Sưu tầm tổng hợp)​
Thêm
582
5
0
BẠN ĐỌC, CHỦ THỂ TIẾP NHẬN VĂN HỌC

Hoạt động văn học từ xưa đến nay đều vận hành qua các khâu hiện thực - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cho nên, cũng như các mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn... từ rất lâu, người ta ít hoặc nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp, toàn diện hoặc một vài khía cạnh, đã chú ý đến mối quan hệ giữa tác phẩm với bạn đọc, tức là sự tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn đọc rồi. Chỉ cần nhắc lại niềm ưu tư xa thẳm của đại thi hào Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”, hay nỗi mong ước của thi sĩ Nguyễn Hành: “Tiếng kêu não nùng của con cuốc, cuối cùng chỉ lơ lửng treo trên cành cây mà thôi. Ta kêu bằng văn chương chữ nghĩa, đến tập thơ này là tột cùng của sự đau khổ rồi... Ai là người nghe thấy được, để nối tiếp tiếng kêu của tập thơ này mà kêu thêm lên” (Minh quyên thi tập)... cũng đủ thấy vai trò của người đọc cùng sự tiếp nhận tác phẩm của họ là quan trọng biết nhường nào! Quá trình tiếp nhận của bạn đọc đối với một tác phẩm diễn biến cụ thể như thế nào, sẽ trình bày trong chương sau, ở đây chỉ tập trung xoay quanh về chủ thể bạn đọc với vai trò cũng như những loại hình của nó, song trước hết cũng phải bắt đầu triển khai vấn đề có tính chất chung bằng một số quan niệm về tiếp nhận của bạn đọc trong lí luận phê bình cổ điển phương Đông và hiện đại phương Tây.

I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ SỰ TIẾP NHẬN CỦA NGƯỜI ĐỌC

Tương truyền cách đây bốn ngàn năm, vua Đại Thuấn đã nêu ra quan niệm về thơ với tư cách là loại thể văn học chủ yếu thời cổ đại: “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ để tỏ chí), như thế, tiếp nhận thơ văn rất cần hiểu cái chí của tác giả. Quả vậy, Mạnh Tử nói: “Dĩ ý nghịch chí : Người giải thích thơ không vì văn mà hại lời không vì lời mà hại chí, lấy ý (của mình) mà truy ngược lại chí (của tác giả). Làm thế thì đạt được”. Cốt sao hiểu được chí của tác giả là khách quan về mục đích, nhưng lấy ý của mình lại là chủ quan về phương pháp, dẫn đến chỗ không tránh khỏi suy diễn, như có người đã tiếp nhận một số bài dân ca trong Kinh Thi như là tỏ cái chí ca ngợi “sức giáo hoá của Văn vương và đức hạnh của các hậu và phi”. Đến đời Hán, Đồng Trọng Thư nhìn vấn đề thực tế hơn, cho rằng “Thi vô đạt hỗ”, có nghĩa là thơ không thể giải thích thấu đạt được... Cách nhìn này có phần bắt nguồn từ quan niệm “Cái tinh tuý, chỉ có thể lĩnh ý theo mà thôi, nếu giải thích được thì thành cái thô thiển” của Trang Tử xưa kia, và còn phổ biến mãi về sau. Nghiêm Vũ đời Tống cũng nói: “Chỗ kì diệu của thơ trong suốt lung linh, không thể nắm bắt được, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà ý vô cùng” (Thương lương thi thoại)... Muốn giải thích được, muốn hiểu được cái chí của tác giả thì phải biến thành kẻ tri âm, tri kỉ. Câu chuyện Khương Bá Nha và Chung Tử Kì nói rõ lối tiếp nhận “tri âm” này. Một người chết đi, người kia đành phá vỡ cây đàn. Chả thế mà Lưu Hiệp, nhà lí luận phê bình nổi tiếng thời cổ đại của Trung Quốc, đã phải nói: “Tri âm khó vậy thay. Cái âm thực khó biết, người biết thực khó gặp. Gặp được người tri âm, nghìn năm mới có một lần” (Văn tâm điêu long). Cái khó gần như bế tắc của cách đọc “tri âm” này làm nảy sinh ra một đối trọng là cách đọc “kí thác” không quan tâm đến cái chí của tác giả thế nào, chỉ cốt bộc lộ cái thưởng thức chủ quan của người đọc mà thôi: “Dụng tâm của tác giả chưa chắc đã vậy, nhưng dụng tâm của người đọc tại sao lại không thể như vậy” (Đàm Hiến). Tiêu biểu cho cách đọc “kí thác” này là Kim Thánh Thán, nhà phê bình nổi tiếng thời Thanh, với tâm niệm khi đọc tác phẩm của Vương Thực Phủ như sau: “Tôi ngày nay sở dĩ phê bình vở Mái Tây thật chẳng qua vì người đời sau chắc sẽ nhớ tới tôi, mà tôi không có gì sẵn quà cho họ, cho nên bất đắc dĩ mà làm việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ người viết vở Mái Tây có quả như vậy không? Nếu quả đúng như thế, thì có thể nói rằng, đến nay mới bắt đầu thực thấy vở Mái Tây... Bằng không như vậy, thì lại có thể nói trước đây có vở Mái Tây rồi, nhưng nay lại thấy thêm vở Mái Tây của Thánh Thán cũng được”. Có thể thấy có chút gì giao thoa với lối phê bình ấn tượng của phương Tây: “Phê bình là kể lại cuộc phiêu lưu của tâm hồn mình qua tác phẩm” (A. Phơrăngxơ).

Thật ra ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại cũng đã chú ý vấn đề tiếp nhận của bạn đọc, như trong Thi học, Arixtốt cho rằng khi thưởng thức tác phẩm, người đọc cảm thấy thú vị, là vì vừa xem, họ vừa đoán định tác phẩm đang nói đến người và việc nào đó ở ngoài đời... Rải rác về sau vẫn thấy không ít những ý kiến nhấn mạnh vai trò của người đọc, ví dụ như: “Ý nghĩa trong thơ tôi là do bạn đọc cho nó” (P. Valéry)... Nhưng đúng như Tsécnưsépxki nói: “Thi học của Arixtốt đã ngự trị ở phương Tây suốt hai ngàn năm” mà quan niệm của nhà thi học này chủ yếu là thuyết mô phỏng, tái hiện, nghĩa là chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực mà thôi.

Đợi đến chủ nghĩa lãng mạn ra đời, với quan niệm biểu hiện là chủ yếu, thì trọng tâm chú ý đã di chuyển sang mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn. Nhưng để đối trọng trở lại với các thuyết tái hiện và biểu hiện đều chú ý những “quan hệ bên ngoài” này, bước sang thế kỉ XX, chủ nghĩa hình thức Nga, Phê bình mới, rồi chủ nghĩa cấu trúc... lại chỉ tập trung vào những mối quan hệ bên trong, nội tại của chính văn bản tác phẩm. Độc tôn văn bản tác phẩm, Phê bình mới còn phủ nhận luôn sự tiếp nhận của người đọc, cho đó đều là những “cảm thụ ngộ nhận”. Nhưng quy luật là bất cứ cực đoan nào, cũng tạo tiền đề cho sự đối trọng trở lại. Gần như đồng thời với Phê bình mới, ở Anh, Mĩ đã xuất hiện khuynh hướng Phê bình theo phản ứng của bạn đọc (reader - response criticism) cho rằng mặc dù ý nghĩa nằm trong hệ thống kí hiệu ngôn ngữ của văn bản, nhưng không tồn tại độc lập, mà phải dựa vào bạn đọc. Ý nghĩa, do đó là kết quả phản ứng của bạn đọc đối với tác phẩm. Đến chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) thì Giôn Điuây phân biệt sản phẩm nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra, chỉ khi nào được công chúng thưởng thức, tiếp nhận thì mới trở thành tác phẩm nghệ thuật. Ông lập luận rằng, nghệ thuật cũng là một loại ngôn ngữ, mà “ngôn ngữ thì người nói, phải có người nghe, nó mới tồn tại. Chỉ khi nào phát huy được tác dụng đối với những kinh nghiệm của người khác với tác giả, thì tác phẩm nghệ thuật mới hoàn thành” (Nghệ thuật tức kinh nghiệm). Đến Hiện tượng luận (Phenomenology), Roman Igácđên cũng coi trọng vai trò tiếp nhận của người đọc. Ông cho rằng tác phẩm văn học vốn hàm chứa những “điểm chưa xác định”, chờ đợi người đọc đến bổ sung theo ý hướng của mình. Đến Giải thích học (hermeneutics), thì H.G. Gađamơ cho rằng một tác phẩm văn học ra đời trong một bối cảnh văn hoá lịch sử nhất định, khi đặt trong một bối cảnh văn hoá lịch sử khác, sẽ nảy sinh những ý nghĩa mới, mà ngay tác giả cũng như bạn đọc trước đó không thể ngờ tới. Phân tích một tác phẩm bao giờ cũng diễn ra một cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại. Đọc tác phẩm, do đó, không thể vứt bỏ mà lại rất nên đem kiến giải riêng của mình vào, tạo ra cho được cuộc đối thoại giữa chủ thể và đối tượng lí giải, nghĩa là rất coi trọng việc tiếp nhận chủ động và sáng tạo của người đọc.

Trên đây chỉ nói đến sự đối trọng bên ngoài với các hệ thống lí thuyết khác, nhưng còn sự tự đối trọng bên trong giữa các khuynh hướng phê bình chỉ nhấn mạnh của tác phẩm. Nối tiếp Phê bình mới nói trên, chủ nghĩa cấu trúc quan niệm tác phẩm là một hệ thống khép kín, một “hộp đen”, không liên quan gì hiện thực khách quan lẫn tư tưởng, tình cảm chủ quan của nhà văn, và logic dẫn đến là tác phẩm cũng không có liên quan tất yếu nào với sự lí giải của bạn đọc cả, vô hình trung có nghĩa là bạn đọc muốn hiểu thế nào tuỳ thích. Sự cực đoan về tính độc lập của văn bản tác phẩm tất yếu sẽ dẫn đến sự cực đoan về tính độc lập của bạn đọc là như vậy. Đưa ra các khái niệm “cái biểu đạt” (significant) tương đương với hình thức, “cái được biểu đạt” (signifie) tương đương với nội dung, chủ nghĩa cấu trúc cho rằng “cái biểu đạt” mới là lĩnh vực đích thực cần nghiên cứu, còn “cái được biểu đạt” là lĩnh vực tuỳ hứng, tài tử, bao gồm nhiều chân lí khác nhau, muốn hiểu thế nào cũng được. Khi người đọc tiếp xúc với một tác phẩm, không phải là đang đối diện với một văn bản mang một hàm nghĩa nào đó, mà chỉ là một văn bản được đan dệt một cách có nghệ thuật bởi những lời văn. Và bạn đọc, do đó hoàn toàn có thể lí giải khác nhau. Tiến thêm một bước nữa, đến chủ nghĩa hậu cấu trúc (post - structuralism) lại cho rằng “cái được biểu đạt” có thể chuyển hoá thành “cái biểu đạt”, như thế vốn chỉ từ một “cái biểu đạt” trong văn bản tác phẩm có thể dẫn tới tầng tầng lớp lớp “cái được biểu đạt”. Như thế, nếu đúng tác phẩm là một kiểu tổ chức lời văn, một cấu trúc ngôn ngữ, thì cấu trúc đó không tự thân khép kín nữa, mà ý nghĩa của nó là nhiều tầng, nhiều lớp và luôn luôn mở rộng, phiếm chỉ, phiêu diêu. Nếu quả rằng cấu trúc nội tại của tác phẩm có toát lên một hệ thống ý nghĩa nào đó, thì đó chỉ là sơ khởi, bạn đọc và nhà phê bình vẫn có thể và cần thiết phát hiện ra ý nghĩa thứ hai, thứ ba và vô cùng. Điều mà bạn đọc đầu tiên lĩnh hội được qua tác phẩm dường như là vấn đề mà tác phẩm nêu ra cho người đọc, đòi hỏi được giải đáp. Rồi sự giải đáp của người đọc, đối chiếu trở lại với tác phẩm sẽ nảy thêm vấn đề mới, đòi hỏi người đọc lại tiếp tục giải đáp, và cứ như thế mãi. Có thể thấy trọng điểm đã di chuyển dần từ văn bản sang người đọc.

Trăm suối đổ thành sông - nửa sau thế kỉ XX vào những năm 60, đã hình thành nền mĩ học tiếp nhận (Receptive aesthetics) với trung tâm là Đại học Côngtanx ở Cộng hoà Liên bang Đức. Họ phê phán thuyết văn bản trung tâm của Phê bình mới và chủ nghĩa cấu trúc, khẳng định rằng ý nghĩa của tác phẩm được sản sinh qua sự tương tác giữa văn bản với người đọc. Tác phẩm không thể có ý nghĩa cố định, mà phụ thuộc vào sự giao thoa diễn biến giữa các điểm nhìn trong lịch sử. Trên cơ sở đó, mĩ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí trung tâm từ văn bản sang người đọc và lịch sử văn học, do đó, không phải là lịch sử của tác giả với những tác phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc.

Như thế, gạt bỏ những sai trái mang sắc thái riêng, có thể thấy từ lối đọc “kí thác” cổ điển phương Đông đến mĩ học tiếp nhận phương Tây đều nhấn mạnh ý nghĩa tiếp nhận của người đọc. Có thể khẳng định vai trò của người đọc không phải chỉ là một khâu tất yếu tiếp theo, mà còn là một phương diện hữu cơ trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật. Có nghĩa là không phải sau khi đã xuất hiện văn bản của tác phẩm, mà ngay trong quá trình sáng tác của nhà văn, từ khâu cấu tứ, viết, sửa chữa, nhà văn đều đối thoại với bạn đọc trong tưởng tượng. Trong tâm tưởng của nhà văn chủ ý hay vô tình, đều tồn tại một mô hình tiếp nhận và sáng tác của họ ít nhiều đều xuất phát từ mô hình này. Tuy nhiên, không thể cường điệu vai trò của người đọc lên địa vị trung tâm của hoạt động văn học, bởi vì một lẽ giản đơn nếu chưa có sáng tác thì dứt khoát không thể có tiếp nhận, còn nếu không hoặc chưa có tiếp nhận, vẫn có thể sáng tác cho dù chưa phát huy được tác dụng. Trong tiếp nhận, có sáng tạo của người đọc, nhưng không thể tuỳ tiện. Hình tượng cơ bản trong tác phẩm là một tồn tại khách quan, trong tiếp nhận, có thể có hiện tượng biến hình, nhưng là biến hình của chính hình tượng vốn có. Nói rộng ra, vận mệnh lịch sử của một tác phẩm có thể trải qua những bước thăng trầm, cố nhiên là do sự đánh giá khác nhau qua các thời đại, nhưng vẫn có nguồn gốc ngay trong tác phẩm, bởi vì sự khái quát nghệ thuật điêu luyện bao giờ cũng đa dạng và phức tạp. Đó là những ranh giới với sự cực đoan ít nhiều của các hệ thống lí thuyết trước, và sẽ được chứng giải tiếp theo sau.

II. VAI TRÒ CỦA NGƯỜI ĐỌC TRONG HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC

Muốn xác định vai trò quan trọng đích thực của người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận, thì cần phải có cách nhìn hệ thống theo quan điểm biện chứng. Trong một cơ chế hoạt động, mà cụ thể ở đây là văn học, mọi khâu đều cực kì quan trọng, nhưng là quan trọng đúng vị thế của nó, trong mối tương tác với các khâu khác trong một dây chuyền hoạt động chung. Nếu một khâu được cường điệu lên sẽ lập tức làm suy yếu các khâu khác, và sẽ phải tác động trở lại gây nguy cơ thủ tiêu chính mình. Nếu cho rằng chính người đọc mới tạo ra nghĩa cho tác phẩm thì rất dễ dẫn đến hệ luận là nhà văn chỉ viết ra một văn bản chết, vô nghĩa. Nhưng nếu thế thì người đọc không cần phải tiếp xúc vì không thể thu hoạch được gì từ số không. Đối tượng tiếp nhận đã thế, thì chủ thể tiếp nhận là người đọc cũng không có lí do tồn tại.

Tiếp nhận phải lấy sáng tác làm tiền đề, và mối quan hệ giữa hai bên hàm chứa phép biện chứng giữa sáng tác và tiêu thụ, như Mác đã vạch rõ: “Trực tiếp của sản xuất là tiêu thụ, mà trực tiếp của tiêu thụ lại là sản xuất, mỗi bên là trực tiếp của bên kia. Nhưng đồng thời giữa hai bên cũng tồn tại một tác động môi giới, sản xuất môi giới cho tiêu thụ, nó sáng tạo ra tư liệu cho tiêu thụ, không có sản xuất sẽ không có đối tượng tiêu thụ. Nhưng tiêu thụ cũng môi giới cho sản xuất, bởi vì chính tiêu thụ đã sáng tạo ra chủ thể cho sản phẩm; chỉ có đối diện với chủ thể này, sản phẩm mới thực sự là sản phẩm; qua tiêu thụ, sản phẩm cuối cùng mới hoàn thành” (Lời nói đầu Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học). Như thế, muốn xác định vai trò quan trọng đích thực của người đọc trong tiếp nhận phải lấy vai trò của sáng tác làm biên độ. Trước hết chính sáng tác đã cung cấp những văn bản tác phẩm làm đối tượng cho sự tiếp nhận của người đọc. Văn bản, nếu mới chỉ trực quan thì chỉ thấy đó là một cấu trúc những kí hiệu chặt chẽ, liên tục, nhưng đằng sau đó là một thế giới nghệ thuật chan chứa tư tưởng, tình cảm của tác giả. Văn bản tác phẩm là kết quả sự hình thức hoá, kí hiệu hoá, vật chất hoá những suy tư, chiêm nghiệm của nhà văn về nhân tâm thế sự... như thế nó vốn đã bao hàm một ý nghĩa nhất định nào đó. Ý nghĩa ấy đúng hay sai, hay hoặc dở là chuyện khác. Đó tất nhiên mới chỉ là quá trình tạo nghĩa từ phía nhà văn. Bây giờ cứ tạm giả định là phải có người đọc thì quá trình tạo nghĩa mới bắt đầu, thì không nên quên bất cứ tác phẩm nào chưa công bố, thậm chí chưa phát hành thì đã có không ít người đọc rồi, đó là những người biên tập của nhà xuất bản, thảng hoặc họ có thể duyệt in sai, nhưng dứt khoát không khi nào cho in một văn bản vô nghĩa. Thậm chí bản thảo tác phẩm chưa in cũng ít nhất có một người đọc, và rất có thể đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đó chính là tác giả không thể không xuất hiện với tư cách là người đọc đầu tiên tác phẩm của mình. Sự chuyển dịch từ tác giả sang người đọc đối với tác phẩm của chính mình tất yếu phải xảy ra. Nhà văn có thể mang thói “văn mình vợ người”, nhưng dứt khoát không thể truyền miệng hoặc đưa đi in ấn những tác phẩm mà họ đọc lại thấy vô nghĩa. Có thể có trường hợp cá biệt, viết xong không thèm hoặc chưa kịp đọc lại đã phải đưa đi in, thì họ vốn cũng từng đóng vai trò người đọc ngay trong quá trình sáng tác, và trong quá trình này cũng xen kẽ quá trình thưởng thức. B. Crôx viết: “A dự cảm hoặc cảm nhận được một ấn tượng, tìm cách biểu hiện nó... anh ta thử dùng văn tự tổ hợp thành M, nhưng cảm thấy nó chưa thoả đáng, không có sức biểu hiện, không hoàn thiện, xấu, liền vứt bỏ đi. Anh ta lại đi tìm cách dùng tổ hợp thành N, kết quả vẫn như thế. Anh ta quả thật không thấy hoặc chưa thấy rõ cái sản phẩm biểu hiện mà mình tìm tòi, vì nó còn trốn tránh bản thân mình. Trải qua nhiều lần thí nghiệm không thành công khác nữa, có lúc rất gần cái mục tiêu nhằm tới, có lúc rất xa, nhưng đột nhiên (gần như không mong mà đến), anh ta gặp được cái sản phẩm biểu hiện mà mình mong mỏi... Trong thoáng chốc, anh ta có được khoái cảm thẩm mĩ” (Nguyên lí mĩ học). Thưởng thức và đánh giá như vậy, nghĩa là đã có sự tiếp nhận, và khi văn bản đã hoàn thành là đã chan chứa ý nghĩa cho dù mới tạm theo đúng loại quan niệm cho rằng quá trình tạo nghĩa chỉ khởi đầu bằng sự tiếp nhận. Tất nhiên, đây chẳng qua là “lấy gậy ông đập lưng ông”, chứ chân lí giản dị hơn nhiều. Đã sáng tác là nhà văn muốn bộc lộ tâm huyết trước cộng đồng, làm sao mà vô nghĩa được. Cho nên nhà văn chỉ mới viết ra một văn bản, phải đợi người đọc biến nó thành một tác phẩm có ý nghĩa, cách nâng người đọc lên hạ nhà văn xuống này đã chuốc lấy một kết quả ngược lại là “cởi trói” hoàn toàn cho nhà văn, họ không chịu trách nhiệm gì về những điều viết ra và thắt vòng kim cô vào đầu người đọc - tác phẩm có ích hay có hại, hay hoặc dở, đều là tại người đọc cả đấy thôi. Khi Mác nói sản xuất cung cấp đối tượng cho tiêu thụ, thì đối tượng ấy vốn đã bao hàm một giá trị, nếu không thì tiêu thụ cái gì? Vinh dự và trách nhiệm của nhà văn, bao giờ cũng là sáng tác ra những văn bản tác phẩm vốn đã hàm chứa nội dung, ý nghĩa và giá trị để cho người đọc tiếp nhận.

Nhưng tác động của sáng tác đối với tiếp nhận không phải chỉ có thế. Sáng tác còn có thể tạo ra những nhu cầu mới cho bạn đọc, hoặc thậm chí cả bạn đọc mới, Mác nói: “Tác phẩm nghệ thuật mà mọi sản phẩm cũng thế, có thể tạo ra công chúng sính nghệ thuật, biết thưởng thức cái đẹp. Cho nên, sản xuất không những sản xuất ra đối tượng cho chủ thể, mà còn sản xuất ra chủ thể cho đối tượng” (Lời nói đầu Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học). Ví dụ, truyện trinh thám sẽ tạo ra một công chúng nghiện truyện trinh thám. Trong đám công chúng ấy, có thể có loại vốn chỉ biết say mê chuyện tình yêu, nhưng nay đã thêm một say mê mới, nghĩa là họ đã tự khác với mình trước đây; cũng có loại vốn trước đây không hề thích đọc bất cứ loại tác phẩm nào cả, nay lại rất thích đọc truyện trinh thám. Dù trong trường hợp nào thì cũng góp phần chứng minh rằng, sáng tác không những cung cấp những tác phẩm mới cho bạn đọc vốn có, mà còn tạo ra được những bạn đọc mới cho tác phẩm của mình. Mặt khác, sáng tác còn quy định phương thức tiếp nhận. Nếu đó là "văn bản nói” (văn học truyền miệng) thì người tiếp nhận có thể là một tập thể cùng nghe. Nếu đó là hình thức “văn bản viết” thì người tiêu thụ có thể đọc cá nhân. Nếu đó là kịch bản sân khấu, điện ảnh hoặc truyền hình, truyền thanh, thì tuỳ loại mà sự tiếp nhận thiên về tập thể hoặc cá nhân... Nói đến vai trò chi phối của sáng tác đối với sự tiếp nhận như trên, không hề hạ thấp vai trò tiếp nhận của người đọc mà hoàn toàn ngược lại là nhằm tạo tiền đề để chứng minh tầm quan trọng đích thực của vai trò đó. Đối ứng được với một cái rất quan trọng, mới thực sự bộc lộ được hết vai trò của mình.

Quả vậy, mặc dù không có sáng tác của nhà văn, thì lấy gì mà tiếp nhận, và người đọc, do đó cũng không tồn tại, nhưng nếu không có người đọc tiếp nhận, thì sáng tác để làm gì, và do đó nhà văn cũng mất lí do tồn tại. Xuất phát từ quan niệm cho rằng khi đã trực giác được một ý tưởng cá biệt, thì quá trình sáng tác đã hoàn thành trong lòng nghệ sĩ rồi, B. Crôx khẳng định “nhà thơ chỉ là người tự nói với mình”. Nhưng ngay danh hiệu nhà thơ, tự nó đã mang tính xã hội. Nhà thơ chỉ tồn tại và phân biệt qua sự đối sánh với những người không phải là nhà thơ trong cộng đồng. Nếu quả thật chỉ muốn tự nói với mình mà thôi, thì cần gì cái danh hiệu “nhà thơ” để phân biệt với những người xung quanh không phải nhà thơ. Đã không muốn nói chuyện với xã hội, với cộng đồng bằng thơ ca, thì ngay trong tâm tưởng, trong ý nghĩ cũng phải nhất quán, không nên sử dụng từ “nhà thơ” theo quy ước của cộng đồng nữa. Một khi đã sử dụng cái hàm nghĩa quy ước đó, thì về mặt logic buộc phải chấp nhận một chân lí giản dị là khi nào chí ít có người khác đọc được thơ anh, thì mới gọi anh là nhà thơ - nhà thơ hạng mấy là chuyện khác.

Sự phản tác động của người đọc đối với lẽ tồn tại của người sáng tác không phải chỉ diễn ra từ khi xuất hiện nhà in, nhà xuất bản, cơ quan phát hành... sản phẩm văn học đã biến thành hàng hoá đặc biệt lưu thông trên thị trường. Thời cổ Hi Lạp, những nhà thơ thường phải đi ngâm thơ của mình trên những sân khấu lộ thiên hình bán nguyệt cho công chúng nghe. Ở Nhật Bản thời “tiền báo chí”, các nhà thơ, nhà tiểu thuyết khi viết xong tác phẩm, in thủ công được một ít, thường phải đem rao bán trước công chúng bằng cách tóm tắt nội dung, nhấn mạnh những chi tiết hay... Qua đó đủ thấy, người sáng tác cần bạn đọc đến mức nào! Tất nhiên không phải lúc nào nhà văn cũng có thể và cần thiết tự truyền bá tác phẩm của mình, mà có khi thông qua “môi giới”. Thời trung đại, Âu cũng như Á, đều có những người hành nghề “thuyết thoại nhân” hoặc “người ngâm thơ lang thang”... qua họ tác phẩm dứt khoát đã tìm đến được với công chúng, dù là gián tiếp. Dù không trực tiếp kiếm tiền, nhưng tác giả vẫn thực hiện được thiên chức xã hội của mình với tư cách là những người sản xuất tinh thần. Chân lí: “Trong tiêu thụ, sản phẩm cuối cùng mới được hoàn thành” mà Mác nói cũng hoàn toàn đúng ở đây. Văn thơ tác động đến xã hội, đến cộng đồng gián tiếp qua việc bồi dưỡng và nâng cao tâm hồn con người. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi những điều tâm huyết mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm được người đọc tiếp nhận. Những hình tượng tinh thần trong tác phẩm khi tham gia vào thế giới tinh thần của công chúng bạn đọc, mới biến thành một yếu tố trong đời sống ý thức xã hội. Tác phẩm mà không đến với người đọc, thì chẳng khác nào một bức thư không có địa chỉ. Ngay tác phẩm lớn mà chưa đến được với người đọc, thì nhiều lắm cũng chỉ là những di vật quý báu, nhưng chưa được trưng bày. Truyện và kí, Nhật kí trong tù của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khi mới ra đời chưa thể nói là một hiện tượng đích thực của văn học Việt Nam vào những năm 20 và 40 của thế kỉ XX. Vinh dự được xác nhận như những kiệt tác là về sau, tất nhiên là có công lao của những người bảo quản, phát hiện, dịch thuật... nhưng chủ yếu là do sự tiếp nhận của đông đảo bạn đọc đã biến những tác phẩm ấy thành những nguồn tình cảm xã hội lớn lao.

Vai trò của người đọc không những chỉ thể hiện sau khi tác phẩm đã ra đời, mà thật ra đã bắt đầu ngay khi nhà văn thai nghén, và trong suốt quá trình hình thành tác phẩm. Quả vậy, tác phẩm mới thai nghén đã làm gì có người đọc thực tế, nhưng thật ra họ không hề vắng bóng trong tâm tưởng của nhà văn với những nhu cầu, thị hiếu, động cơ, tâm thế, tâm đón, điều kiện và hoàn cảnh thưởng thức của mình. Hồ Chủ tịch nêu vấn để một cách giản dị mà xác đáng là “Viết cho ai?” (đối tượng của sáng tác đồng thời là chủ thể của tiếp nhận), và từ đó nảy ra hàng loạt vấn đề “Viết để làm gì?” (mục đích), “Viết cái gì?”(nội dung). Và cả vấn đề “Viết như thế nào (hình thức) nữa; tất nhiên là hình thức trong mối quan hệ biện chứng với nội dung, nhưng tự nó cũng hàm chứa một nội dung phong phú và phức tạp. Ở đây chỉ muốn nói rằng, nếu quả sáng tác quy định phương thức tiếp nhận, thì tiếp nhận, cũng chi phối trở lại phương thức và hình thức sáng tác, Ví dụ, trong nhịp sống siêu tốc của xã hội hậu công nghiệp, công chúng không có thì giờ và hứng thú đọc những tiểu thuyết trường giang, thì không thể không suy nghĩ đến những dạng tác phẩm với quy mô vừa và ngắn, và chuyển dịch các tác phẩm dài hơi sang hình tượng của nghệ thuật nghe nhìn... Tóm lại về điểm này, đúng như Mác đã nói: “Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu, bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố nội tại của hoạt động sản xuất” (Lời nói đầu Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học).

Trên đây là bàn về vai trò của người đọc theo đúng quy luật phản tác động của tiêu thụ đối với sản xuất. Nhưng khác với người tiêu thụ sản phẩm thông thường, người đọc văn học đã làm phong phú thêm cho tác phẩm. Người tiêu thụ thông thường chỉ sử dụng sản phẩm với những giá trị vốn có của nó, và giá trị sử dụng, do đó nói chung là ngang nhau giữa tất cả mọi người. Nếu có sử dụng sáng tạo, thì ít nhiều cũng thay đổi phần nào cái chất liệu và cấu trúc của sản phẩm. Trái lại, người đọc văn học làm phong phú thêm cho tác phẩm bằng những cảm thụ và đánh giá riêng của mình. Truyện Người tỉnh nhỏ của Sêkhốp kể về một người đàn bà đã trải qua nhiều đời chồng, chồng nào cũng hết lòng chiều chuộng. L. Tônxtôi thấy đó là điển hình của những phụ nữ vị tha. Nhưng Lênin lại phát hiện cái bản tính hời hợt, dựa dẫm, thiếu bản lĩnh, thiếu chiều sâu tình cảm của người đàn bà này: “Người tỉnh nhỏ, ban đầu sống chung với một ông bầu hát, nàng nói: Chúng ta sẽ trình diễn với Vanisơca những vở kịch đúng đắn. Sau đó sống với anh lái gỗ, nàng nói: Chúng ta rất căm phẫn, cùng với Vátsisơca, về những khoản thuế gỗ đính cao quá. Sau rồt ở với ông thú y, nàng nói: Cùng với Côlítsơca, chúng ta chữa bệnh cho ngựa. Với đồng chí Xtruvê chúng ta cũng thế: Chúng tôi cùng với Lênin, chúng tôi phê bình Máctưnốp. Chúng tôi cùng Máctưnốp, chúng tôi phê bình Lênin” (Toàn tập, XI, 281). Một cách cảm nhận và đánh giá không những khác với L. Tônxtôi, mà có lẽ cũng bất ngờ ngay cả với Sêkhốp, nhưng không phải không có căn cứ trong tác phẩm, Sếchpia chỉ viết một Hămlét, nhưng có hàng triệu Hămlét trong lòng bạn đọc là vì thế.

Tất nhiên, nếu người đọc tiếp nhận, thưởng thức muôn màu, muôn vẻ như vậy, chắc gì không có sự phiến diện, thậm chí xuyên tạc, thế thì chân lí ở đâu? Muốn giải quyết vấn đề này, chúng ta phải thấy sự đồng dạng giữa sáng tác và thưởng thức. Quả vậy, nếu trong sáng tác có vấn đề phong cách, thì trong thưởng thức cũng không thể khác, nó sẽ phụ thuộc rất nhiều vào nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, và nhất là cá tính của từng chủ thể tiếp nhận. Nhưng nếu đã thừa nhận sự đồng dạng này, thì về logic buộc phải thừa nhận một sự đồng dạng khác. Trong phong cách muôn màu muôn vẻ của nghệ sĩ, vẫn toát lên lập trường và quan điểm, ý thức giai cấp, dân tộc và thời đại của họ. Thế thì trong thưởng thức cũng vậy. Những phương diện như giới tính, nghề nghiệp lứa tuổi, cá tính tuy có gây ra những ba động nhất định, nhưng nếu quá cách xa, thậm chí đối lập nhau, thì là vì quan điểm lập trường của chủ thể tiếp nhận. Cùng là Truyện Kiều, nhưng giai cấp phong kiến suy tàn thì cho đó là dâm thư, giai cấp tiểu tư sản thì chỉ thưởng thức khía cạnh tình yêu của nó. Chính vì thế, đứng về mặt nội dung tư tưởng mà nói, chỉ có những chủ thể người đọc thuộc vào lực lượng xã hội tiên tiến trong từng thời kì, mới phát hiện ra giá trị khách quan tối ưu (valeur optimale) về mặt lịch sử của tác phẩm văn học.

Người đọc không những làm phong phú mà còn là người sàng lọc và bảo tồn tác phẩm văn học về mặt chất lượng. Người tiêu dùng các loại sản phẩm khác, cố nhiên là vẫn yêu cầu chất lượng tốt, nhưng không thể xem nhẹ số lượng. Có mẫu mã tốt là cần, nhưng việc sản xuất hàng loạt không phải dễ, cũng rất tốn công của. Trái lại, tác phẩm văn học ưu tú, thì việc nhân bản không khó khăn gì. Cho nên người đọc văn học chỉ yêu cầu về chất lượng, mà là yêu cầu cao. Nhưng để bù lại, tác phẩm văn học ưu tú khi nào cũng được bảo tồn vĩnh viễn qua người đọc, còn người tiêu dùng thông thường luôn luôn làm hao mòn hoặc hỏng hóc, thậm chí sản phẩm càng tốt càng “triệt tiêu” nhanh như một số cao lương mĩ vị chẳng hạn. Mặt khác, mặc dù là nhu cầu tinh thần, cho nên sự thiếu thốn, bất cập không bộc lộ rõ ràng và cấp bách như đối với nhu cầu vật chất, nhưng tình trạng cung không kịp cầu xảy ra thường xuyên trong tiếp nhận của người đọc. Nói đầy đủ hơn, xét về mặt số lượng thì khi nào cung cũng vượt cầu, nhưng nếu xét về mặt chất lượng, thì tình hình hoàn toàn ngược lại trong sự tiếp nhận văn học. Chính vì thế, vai trò sàng lọc của người đọc là vô cùng quan trọng và to lớn.

Người đọc tiếp nhận tác phẩm luôn luôn song hành với loại bỏ. Tất nhiên, tiếp nhận và loại bỏ của người đọc là thiên hình vạn trạng. Có tiếp nhận và loại bỏ đồng đại: có tác phẩm trong cùng một lúc được số người này tiếp nhận, số người khác hờ hững. Có tiếp nhận và loại bỏ lịch đại: có tác phẩm lúc này được tiếp nhận, lúc khác bị lãng quên. Có tiếp nhận và loại bỏ hoặc thiên về nội dung, hoặc thiên về hình thức... Nhìn tồng quát nhất, có những dạng thái chính như sau:

Bảo tồn và đào thải: Quả đúng theo quy luật chất lượng của sự sinh tồn văn học, bảo tồn chỉ là số ít, còn tuyệt đại đa số đều bị đào thải bởi người đọc. Theo Êxcácpi, nhà xã hội học văn học nổi tiếng người Pháp, thì những tác giả, tác phẩm được nhắc đến trong tài liệu giảng dạy, sách nghiên cứu, từ điển văn học... chỉ chiếm nhiều nhất là 1% những nhà văn và tác phẩm vốn có. Cũng theo báo cáo điều tra của Trung tâm Xã hội học văn học Boócđô ở Pháp, thì những tác phẩm xuất bản sau một năm, sẽ có 90% bị người đọc quên lãng, và sau hai mươi năm, tỉ lệ đó lên đến 99%.

Chọn lựa và cự tuyệt: Đây chủ yếu là nói về tác phẩm văn học nước ngoài. Hiển nhiên, trước hết phải thừa nhận rằng có nhiều tác phẩm ưu tú của nước ngoài chưa được dịch giới thiệu, vì trình độ ngoại ngữ, văn hoá và văn minh nước ngoài của các chuyên gia trong nước còn nhiều hạn chế. Nhưng đối với các nước có nhiều chuyên gia, thì việc dịch giới thiệu, đã là qua sự chọn lựa rồi. Rồi ngay những tác phẩm đã được dịch giới thiệu, nghĩa là đã “nội hoá”, thì tình hình cũng như trên, nghĩa là những tác phẩm vĩnh tồn, bao giờ cũng còn lại rất ít.

Hấp thụ có phê phán: Nghĩa là ngay trong tiếp nhận cũng có phán xét, kể cả với những tác phẩm ưu tú trong quá khứ hoặc của nước ngoài, bởi vì tác phẩm nào cũng không thoát khỏi giới hạn của thời đại, bao giờ cũng hàm chứa ít nhiều những yếu tố không phù hợp với yêu cầu của người đọc trong bối cảnh khác. Như chúng ta rất ca ngợi việc bênh vực quyền sống của con người trong Truyện Kiều, nhưng không chấp nhận thuyết “tài mệnh tương đố” của Nguyễn Du. Cũng vậy, người đọc ngày nay rất biểu dương tư tưởng phản nghịch, chống đối lễ giáo phong kiến, nhưng không thể tán thành quan niệm “sắc sắc không không” trong Hồng lâu mộng...

Qua những khâu sàng lọc nói trên của người đọc, những tác phẩm thật sự có chất lượng sẽ còn lại với thời gian. Tất nhiên, việc sàng lọc này không xuôi chiều, không thể không nói đến số phận thăng trầm của những kiệt tác. Có tác phẩm mới ra đời, bị lạnh nhạt, nhưng càng về sau lại càng được khẳng định là kiệt tác, hoặc vốn cũng được chào đón ngay từ đầu, nhưng được đánh giá rất khác nhau của người đọc qua các thời đại. Khi nhân vật Đôn Kihôtê mới xuất hiện, người Tây Ban Nha cho đó là một anh chàng điên. Người Pháp thế kỉ XVII cho đó là một con người trọng đạo đức, có lí tính. Thế kỉ XVIII, người Anh lại nhấn mạnh khía cạnh lí tính cực đoan, gạt bỏ mọi nhận thức cảm tính ở nhân vật này. Thế kỉ XIX ở Nga, như Bêlinxki cho nhân vật điển hình này như là sự hạ bệ các lí tưởng anh hùng xa thực tế. Và đến Mác, thì nhân vật này như muốn diễn lại vai trò của hiệp sĩ đã lỗi thời trong xã hội tư bản... Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì Đôn Kihôtê ra đời trong bối cảnh văn hoá lịch sử của thời Phục hưng ở Tây Ban Nha, những người tiếp nhận ở trong những bối cảnh văn hoá lịch sử khác, nghĩa là vô hình trung hình thành những mối quan hệ khác, cho nên có những cảm nhận khác là tất yếu. Nhưng là những mối quan hệ khác nhau với cùng chính tác phẩm ấy, cho nên những cảm nhận nói trên xét đến cùng vẫn có một điểm chung nào đó. Đó là căn bệnh ảo tưởng, duy ý chí, xa thực tế của Đôn Kihôtê. Tất nhiên cũng có trường hợp sự đánh giá khác nhau hoàn toàn, có tác phẩm bị phủ định triệt để, mãi về sau mới được khôi phục trở lại, tất nhiên có vai trò của các nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhưng chỉ được phục sinh thực sự trong lòng của bạn đọc. Tóm lại về điểm này là lẫy lừng ít hay nhiều, đứt quãng hay liên tục, nhưng những kiệt tác là vĩnh tồn với thời gian, cần là phải qua sự sàng lọc của người đọc. Chỉ có công chúng bạn đọc mới thực sự chuyển hoá những giá trị tinh thần trong những tác phẩm ấy, trở thành những động lực tình cảm trong tiến trình lịch sử.

III. CÁC LOẠI NGƯỜI ĐỌC

Khi đã quan niệm được vai trò to lớn của người đọc trong sinh hoạt văn học, thì người ta cũng bắt đầu có ý thức tiến hành phân loại nó. Ngay khoảng đầu thế kỉ XX, trường phái Phê bình theo phản ứng của bạn đọc (reader - response criticism) ở Hoa Kì đã phân ra ba loại: người đọc giả định (trong tâm tưởng nhà văn); người đọc thực tế (có đọc trực tiếp tác phẩm); người đọc lí tưởng (hiểu thấu đáo văn bản) gần như khái niệm “tri âm” ở phương Đông. Tất nhiên còn có nhiều cách phân loại khác, nhưng ở đây chúng ta bám sát vào mối quan hệ biện chứng giữa sản xuất và tiêu dùng để thấy vai trò của người đọc không những chỉ thực thi sau khi tác phẩm đã chào đời, mà còn thể hiện ngay trong quá trình thai nghén và hình thành tác phẩm. Như thế, trước hết có thể phân loại tổng quát người đọc ra làm hai loại chính là người đọc thực tế (ở ngoài đời) và người đọc tiềm ẩn (tồn tại trong kết cấu văn bản). Tất nhiên, mỗi loại tổng quát này còn có thể chia làm nhiều loại nhỏ nữa.

1. Người đọc tiềm ẩn (Implied reader)

Đây là khái niệm của mĩ học tiếp nhận, cụ thể là của W. Isơ, giáo sư Đại học Côngtanx nêu ra, có phần gần gũi với người đọc giả định nằm trong tâm tưởng nhà văn của khuynh hướng Phê bình theo phản ứng của bạn đọc, nhưng có phần xác định hơn, bởi vì hình ảnh người đọc tiềm ẩn đó đã ít nhiều chuyển hoá thành một yếu tố nằm ngay trong kết cấu của văn bản. Người đọc giả định nằm trong tâm tưởng nhà văn, hiển nhiên là có, bởi vì như trên đã nói là người tiêu dùng luôn luôn hiện diện trong động cơ của người sản xuất, hoặc nói cụ thể hơn, đã sáng tác là nhắn gửi, tâm tình, kêu gọi hoặc phán xét, lên án... những ai đó.

Nhưng nếu đã vậy, thì buộc phải thừa nhận thêm rằng những bóng dáng người đọc trong tâm tưởng nhà văn ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp đã chuyển hoá thành một yếu tố trong kết cấu của văn bản tác phẩm. Những gì vô hình trong tâm tưởng đã được hình thức hoá, “vật chất hoá”, văn bản hoá với một mức độ nào đó. Quan niệm như vậy có thể thấy thuật ngữ người đọc tiềm ẩn của mĩ học tiếp nhận giàu màu sắc thao tác hơn - nó giúp người nghiên cứu phê bình tác phẩm, muốn khảo sát bóng dáng người đọc trở nên khả thi trong việc tìm luận cứ.

Với tư cách là những bóng dáng của người đọc trong tâm tưởng của nhà văn, cố nhiên có thể tìm ở những lời nói đầu của tác phẩm. Ví dụ trong lời tựa tiểu thuyết trường giang Giăng Crixtôphơ, R. Rôlăng có tuyên bố thẳng rằng: “Tiểu thuyết Giăng Crixtôphơ của tôi không phải viết cho nhà văn xem... mà mong muốn nó được tiếp xúc với những tâm hồn cô độc và những trái tim chân thành sống bên ngoài văn giới”. Cũng có thể suy nghĩ đến những lời đề tặng của tác giả viết ở đầu tác phẩm, mà đối tượng có vận mệnh và tâm tư liên quan đến nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Nói như thế là phải loại trừ trường hợp những lời mà đối tượng đề tặng là thân nhân, hoặc người yêu dấu, không liên quan gì đến nội dung tác phẩm, tác giả đề tặng với ý nghĩa làm quà kỉ niệm hoặc tỏ lòng biết ơn mà thôi. Nhưng nếu đối tượng mà vận mệnh và tâm tư có liên quan đến nội dung và tư tưởng của tác phẩm, thì có thể được xem như là bóng dáng của người đọc mà rõ ràng tác giả muốn hướng đến. Dù sao đây cũng chỉ là những trường hợp thứ yếu, cá biệt. Người đọc tiềm ẩn phải được khảo sát chủ yếu trong phần chính văn của tác phẩm, tất nhiên là phải kể từ tiêu đề trở đi, ví dụ Hỏi thăm quan tuần mất cướp của Nguyễn Khuyến... Phạm vi thể hiện của “người đọc tiềm ẩn” phải được giới thuyết chặt chẽ như vậy, nhưng dạng thái tiềm ẩn, lại phải được quan niệm rộng rãi. Có dạng định danh trực tiếp, nhưng cũng có dạng vô định được hiểu gián tiếp qua những quan hệ:

Dạng định danh: Trong dạng này, tác giả nói rõ đối tượng mà mình muốn hướng đến. Ví dụ, Bạch Cư Dị viết: “Duy ca sinh dân bệnh. Nguyện đắc thiên hạ tri” (Kí Đường sinh) có nghĩa là: “Nguyện chỉ làm lời ca về nỗi thống khổ của nhân dân để cho thiên hạ được biết”. Cũng có khi tác giả chủ yếu muốn hướng về một người cụ thể. Trong bài Sở kiến hành, sau khi vẽ ra cái cảnh đối lập giữa một bên kia là cảnh mâm cao cỗ đầy, yến tiệc linh đình “nào gân hươu, vây cá, thịt lợn dê”, mà các quan lớn không thèm đụng đũa đến, Nguyễn Du đã viết:

“Hà nhân tả thử đồ

Trì dĩ phụng quân vương”

(Ai vẽ bức tranh này; Để dâng lên nhà vua).

Có thể thấy Tố Như trước hết, muốn đấng bề trên đọc đến bài thơ này.

Dạng vô định: Tác giả không nói rõ gửi cho ai, cũng không trực tiếp tỏ ý mong ai sẽ đọc tác phẩm của mình. Nhưng vốn trong tâm tưởng nhà văn bao giờ cũng muốn bày tỏ, tâm sự, do đó khi viết, thì “tác phẩm sẽ là một quá trình hình thành các hình tượng tình cảm và lí trí của người xem” (X. Aydanhxtanh).

Như thế có thể qua kết cấu (hình tượng, văn bản) của tác phẩm để gián tiếp cảm nhận được bóng dáng của người đọc, mà nhà văn muốn hướng đến. Để làm một ví dụ nhỏ, hãy đọc lại một đoạn thơ quen thuộc:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Ở đây dường như Tố Hữu chỉ nói với mình, nhưng đã xưng “tôi” ngôi thứ nhất, thì chắc chắn đang “đối diện đàm tâm” với ngôi thứ hai nào đó. Đó có thể là những bạn đọc cùng chí hướng, hay nói rộng ra là những bạn đời cùng lí tưởng. Dạng vô định này, tất nhiên là có phần mông lung mơ hồ, nhưng là có thực trong tâm tưởng nhà văn, và do đó có bộc lộ ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác phẩm.

Khác với người đọc thực tế ngoài đời mà trước hết là một phạm trù xã hội học, tâm lí học, người đọc tiềm ẩn trong tác phẩm chủ yếu là một phạm trù mĩ học. Cũng như người trần thuật có khi xưng danh, có khi là vô nhân xưng, thì người đọc tiêm ẩn, mặc dù có lúc định danh, có lúc vô định, nhưng vẫn thể hiện một quan hệ nhắn gửi, cho nên vẫn là một điểm tựa trong việc tổ chức văn bản tác phẩm, và qua đó, nói như W. Isơ, “gây tác dụng tạo nên dự kiến trước đối với ý nghĩa tiềm tại của văn bản” (Hành động đọc). Nhà văn hướng về người đọc không phải chỉ để xác định mục đích sáng tác, mà cuối cùng là để hình dung ra cách viết sao cho có ý nghĩa tối đa theo mục đích đó. Nhà nghiên cứu phê bình khảo sát người đọc tiềm ẩn không phải đi truy tìm người đọc và diện đọc cụ thể, mà chẳng qua cuối cùng cũng là để hiểu cách viết cùng ý nghĩa tiềm tại của nó. Mà cách thức viết nào, sáng tác nào, cũng được chi phối theo nguyên lí mĩ học là qua cái riêng để nói cái chung, thậm chí càng riêng thì lại càng có tác dụng chung. Nhà văn bao giờ cũng qua một người, hay một số người cụ thể để nói với càng nhiều người càng tốt. Nếu không hiểu vấn đề như vậy, thì chẳng hạn cái tiêu đề Kính gửi cụ Nguyễn Du trở nên buồn cười.

Như thế từ người đọc tiềm ẩn đến người đọc thực tế không cần thiết và nhất là không thể nào trùng khớp hoàn toàn.

2. Người đọc thực tế

Thời cổ đại, không phải mọi lúc, nhưng nói chung người sáng tác quen thuộc với những người tiếp nhận đầu tiên với sáng tác của mình. Các văn thi sĩ dân gian, hiển nhiên là rất quen thuộc bà con xóm làng, những công chúng đầu tiên của mình.

Những văn thi sĩ cung đình, lại càng hiểu rõ đấng bề trên mà mình phải ca tụng công đức bằng văn thơ. Những văn nhân nho sĩ tài tử lại càng hiểu rõ nhau trong khi ứng đối thù tạc. Đến thời cận đại về sau, những hiện tượng trên không mất hẳn đi, nhưng mối liên hệ giữa nhà văn với bạn đọc càng trở nên phức tạp, đa dạng, khi mà thị trường văn học đã hình thành dần, nhất là sau khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Người đọc bây giờ bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề, nhiều thế hệ, nhiều cá tính, và giữa họ với nhau, nói chung cũng không hề quen biết. Nhà văn càng không thể nào biết hết những bạn đọc thực tế của mình. Có khi gửi tặng hẳn hoi nhưng chưa chắc họ đã đọc, bạn vẫn còn, nhưng đọc thì không, cho nên chưa có thể gọi là bạn đọc thực tế.

Người đọc thực tế, do đó, tuy có vẻ giản đơn, nhưng cũng cần được giới thuyết rõ ràng. R. Excácpi phân biệt rất đúng giữa người tiêu thụ sách với người đọc, bởi vì mua sách có khi chỉ để tặng, hoặc để trang trí, ngược lại có người suốt đời chỉ đi thư viện, hoặc mượn sách bạn bè mà lại đọc nhiều. Hơn nữa đọc nhiều sách văn học, chưa chắc đã tiếp nhận văn học. R. Excácpi lại phân biệt có loại tiếp nhận văn học, có loại tiếp nhận phi văn học, mà ông gọi là “tiếp nhận chức năng” như đọc văn học để tiêu phí thời gian, để chữa bệnh, để tự ru ngủ, để tìm những kích thích... Có thể nói thêm rằng, ngay những nhà nghiên cứu, theo mục đích chuyên môn của mình, có thể phát hiện trong tác phẩm văn học những bằng chứng về ngôn ngữ, về lịch sử, xã hội, tâm lí, thậm chí cả kinh tế nữa... nhưng đó không phải là tiếp nhận văn học. Tác phẩm nghệ thuật là một sản phẩm tinh thần, cho dù là bằng những chất liệu mang tính vật chất như âm thanh, về tiết tấu, màu sắc và đường nét, hình thể và động tác, rồi nào là gỗ, đá, đồng, thạch cao... nhưng công chúng thưởng thức phải biết “khắc phục chất liệu” mà đi sâu vào chiêm nghiệm thế giới tinh thần bên trong tác phẩm. Nếu xem tượng Vệ nữ ở đảo Milô, mà lại chỉ khen chất thạch cao trắng mịn, thì cũng chẳng khác nào anh chàng trong truyện Chim hải âu của Sêkhốp đi xem ôpêra mà chỉ biết trầm trồ diễn viên có giọng hát vang. Văn học cũng không khác, mặc dù chất liệu không phải là vật chất, mà là ngôn từ, nhưng là ngôn từ được đan dệt thành những kí hiệu tình cảm. Người đọc văn học phải biết giải mã những hệ thống kí hiệu để thâm nhập được vào thế giới tình cảm xã hội thẩm mĩ sâu thẳm bên trong. Hơn nữa phải biết liên tưởng, kết hợp thế giới tình cảm ấy với những trải nghiệm trong đời sống cá nhân, để đồng cảm hoặc thanh lọc... Xem ra không phải chỉ nghề viết, mà đọc văn cũng lắm công phu.

Mác có lần nói đại ý rằng, một bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa gì đối với mỗi lỗ tai không thính nhạc. Do văn học là gương mặt tiêu biểu của văn hoá, nên năng lực cảm thụ văn học còn phải kết hợp với yêu cầu cao về năng lực phân tích đánh giá. Ăngghen có lần cảm thấy ngượng ngùng vì sự xúc động hời hợt của mình đối với loại tác phẩm văn học xoàng: “Trong cái thời buổi thảm hại này, cái khả năng thưởng thức của tôi đã cùn đi (tôi xấu hổ phải thừa nhận như thế), đến nổi là ngay những cuốn kém giá trị cũng gây cho tôi, khi đọc lần đầu, một sự xúc động nào đó” (Thư gửi Látxan). Tất nhiên đây là sự tự đòi hỏi nghiêm ngặt, còn thông thường, thì như Lỗ Tấn đã nói: “Đại khái cần có hiểu biết phổ thông, và về tư tưởng tình cảm thì cũng phải ở mức tương đối. Nếu không thì không thể có quan hệ gì với văn học” (Toàn tập, VI, 34). Dù sao, đã nói đến người đọc thực tế, thì cũng nên phân loại thực tế theo năng lực cảm thụ của người đọc trong xã hội hiện nay.

Một là, những người mà trình độ văn hoá quá thấp, có thể hiểu biết và thích thú văn học dân gian, nhưng đối với sáng tác chuyên nghiệp, tỏ ra ít có quan hệ.

Hai là, những người có trình độ văn hoá phổ thông, chủ yếu đọc văn học để giải trí, chưa có đầu óc nhận xét, phân tích đáng kể.

Ba là, những người tốt nghiệp trung học, hoặc sinh viên đại học, thích đọc văn học với những nhận xét riêng, có thể tranh luận với nhau, và cũng có thể trao đổi với tác giả hoặc biên tập viên của các cơ quan báo chí và xuất bản. Trong diện này, cũng xuất hiện dần người viết nghiệp dư.

Bốn là, những người tốt nghiệp đại học văn khoa hoặc các ngành khác, nhưng ưa thích văn học, trong đó có bác sĩ, kĩ sư, nghệ sĩ, nhà giáo... Do trình độ văn hoá chung, cộng với sự từng trải, họ thường tạo nên được dư luận tiêu biểu về văn học.

Cuối cùng chính là giới văn học, bao gồm các nhà sáng tác, lí luận phê bình, các biên tập viên văn học... Hiển nhiên đây là lớp bạn đọc tiêu biểu nhất về chất lượng cũng như số lượng đối với loại sáng tác văn học đích thực, về mặt nào đó mà nói, ở loại này, sáng tác và tiếp nhận gắn rất chặt nhau. Riêng về phê bình, vốn là một loại tiếp nhận đặc biệt, sẽ còn bàn kĩ ở sau.

Cũng như bất cứ sự phân loại nào khác, sự phân biệt giữa năm loại trên, ranh giới hiển nhiên là tương đối. Dù sao vẫn có thể đưa ra nhận xét sơ bộ là từ loại đầu đến loại cuối, số lượng càng ít dần, nhưng chất lượng phân tích và cảm thụ văn học lại càng tăng. Tất nhiên, những khả năng này có trở thành sức mạnh tiếp nhận thực tế hay không còn tuỳ thuộc vào điều kiện thời gian và kinh tế của mỗi người.
(Sưu tầm tổng hợp)
Thêm
2K
4
2

Văn học Việt Nam có cả một kho tàng văn học trào phúng. Nhiều tác phẩm trào phúng đặc sắc ra đời ở cả trong văn học dân gian và văn học viết, trong thơ và văn xuôi. Để hiểu hơn về trào phúng và thơ trào phúng, Triều Anh mời các bạn đọc chia sẻ sau.

1F0DFABE-422F-46DC-B47A-1837B8ACD522.jpeg


Ảnh: sưu tầm

Xem thêm
Sự hình thành và phát triển của thơ trào phúng Việt Nam thời trung đại
Thực dân Pháp - đối tượng phản ánh chủ yếu của thơ ca trào phúng nửa cuối thế kỉ XIX
Các công trình nghiên cứu văn học trào phúng cuối thế kỉ XIX

“Trào phúng” (satire) theo Từ điển Anh - Việt là một danh từ chỉ sự châm biếm, mỉa mai một đối tượng nào đó. Trong tiếng Việt, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, “trào” có nghĩa là cười, giễu cợt. “Trào phúng” nghĩa là có ý giễu cợt để răn đời. Trào phúng có nét nghĩa tương đồng với trào tiếu (cười giễu). Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, “trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác”. Định nghĩa “trào phúng” trong Từ điển Thuật ngữ văn học có phần giống với Từ điển văn học bộ mới. Theo đó, “trào phúng” là một loại hình đặc biệt của sáng tác văn học, gắn liền với phạm trù mỹ học cái hài với các cung bậc tiếng cười: hài hước, châm biếm, đả kích. Tiếng cười hài hước (còn gọi là umua) với mức độ phê phán những thói hư, tật xấu, những con người và sự việc tiêu cực một cách nhẹ nhàng pha chút dí dỏm, hóm hỉnh vui tươi, chủ đích để gây cười. Cơ sở để bật lên tiếng cười hài hước đó là sự mất cân đối, mất hài hòa giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất bên trong và cái biểu hiện bên ngoài. Cùng có chung đối tượng gây cười nhưng tiếng cười châm biếm lại dùng lời lẽ sắc sảo, thâm thúy để vạch trần thực chất xấu xa của đối tượng cần phê phán. Châm biếm khác với hài hước ở mức độ gay gắt trong phê phán và hình tượng nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc hơn. Tiếng cười đả kích có phần quyết liệt hơn cung bậc châm biếm. Đả kích là tiếng cười phủ định triệt để. Tiếng cười bộc lộ thái độ đối lập của nhà văn chống lại những tư tưởng bảo thủ, phản động trong xã hội. Thế nhưng trong thực tế sáng tác, các biểu hiện của tiếng cười hóm hỉnh, châm biếm, đả kích không phải lúc nào cũng rạch ròi mà có sự ảnh hưởng hoặc chuyển hóa linh hoạt cho nhau.

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, “thơ trào phúng” là “thể thơ thuộc loại trào phúng, dùng tiếng cười để xây dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa lạc hậu, thoái hóa rởm đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người”.

Tổng hợp các định nghĩa của từ điển và tài liệu chuyên ngành, luận văn xác định khái niệm “trào phúng” là chỉ tiếng cười hài hước, mỉa mai, châm biếm một đối tượng nào đó. Theo đó, “thơ trào phúng” là một thuật ngữ chỉ khuynh hướng sáng tác thơ dùng tiếng cười nhẹ nhàng, kín đáo nhưng sâu sắc để mỉa mai, châm biếm, phê phán cái xấu, cái ác, cái đê hèn trong cuộc sống. Từ đó hướng đến việc lưu giữ và làm sống dậy bản chất tốt đẹp bên trong tâm hồn con người.​
Thêm
Hiểu về thơ trào phúng
841
3
2
Quá trình tiếp nhận của bạn đọc đối với một tác phẩm diễn biến cụ thể như thế nào? Cùng Triều Anh tham khảo bài viết sau.
tiếp nhận văn học.jpg

Ảnh: sưu tầm​

Tương truyền cách đây bốn ngàn năm, vua Đại Thuấn đã nêu ra quan niệm về thơ với tư cách là loại thể văn học chủ yếu thời cổ đại: “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ để tỏ chí), như thế, tiếp nhận thơ văn rất cần hiểu cái chí của tác giả. Quả vậy, Mạnh Tử nói: “Dĩ ý nghịch chí : Người giải thích thơ không vì văn mà hại lời không vì lời mà hại chí, lấy ý (của mình) mà truy ngược lại chí (của tác giả). Làm thế thì đạt được”. Cốt sao hiểu được chí của tác giả là khách quan về mục đích, nhưng lấy ý của mình lại là chủ quan về phương pháp, dẫn đến chỗ không tránh khỏi suy diễn, như có người đã tiếp nhận một số bài dân ca trong Kinh Thi như là tỏ cái chí ca ngợi “sức giáo hoá của Văn vương và đức hạnh của các hậu và phi”. Đến đời Hán, Đồng Trọng Thư nhìn vấn đề thực tế hơn, cho rằng “Thi vô đạt hỗ”, có nghĩa là thơ không thể giải thích thấu đạt được... Cách nhìn này có phần bắt nguồn từ quan niệm “Cái tinh tuý, chỉ có thể lĩnh ý theo mà thôi, nếu giải thích được thì thành cái thô thiển” của Trang Tử xưa kia, và còn phổ biến mãi về sau. Nghiêm Vũ đời Tống cũng nói: “Chỗ kì diệu của thơ trong suốt lung linh, không thể nắm bắt được, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà ý vô cùng” (Thương lương thi thoại)... Muốn giải thích được, muốn hiểu được cái chí của tác giả thì phải biến thành kẻ tri âm, tri kỉ. Câu chuyện Khương Bá Nha và Chung Tử Kì nói rõ lối tiếp nhận “tri âm” này. Một người chết đi, người kia đành phá vỡ cây đàn. Chả thế mà Lưu Hiệp, nhà lí luận phê bình nổi tiếng thời cổ đại của Trung Quốc, đã phải nói: “Tri âm khó vậy thay. Cái âm thực khó biết, người biết thực khó gặp. Gặp được người tri âm, nghìn năm mới có một lần” (Văn tâm điêu long). Cái khó gần như bế tắc của cách đọc “tri âm” này làm nảy sinh ra một đối trọng là cách đọc “kí thác” không quan tâm đến cái chí của tác giả thế nào, chỉ cốt bộc lộ cái thưởng thức chủ quan của người đọc mà thôi: “Dụng tâm của tác giả chưa chắc đã vậy, nhưng dụng tâm của người đọc tại sao lại không thể như vậy” (Đàm Hiến). Tiêu biểu cho cách đọc “kí thác” này là Kim Thánh Thán, nhà phê bình nổi tiếng thời Thanh, với tâm niệm khi đọc tác phẩm của Vương Thực Phủ như sau: “Tôi ngày nay sở dĩ phê bình vở Mái Tây thật chẳng qua vì người đời sau chắc sẽ nhớ tới tôi, mà tôi không có gì sẵn quà cho họ, cho nên bất đắc dĩ mà làm việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ người viết vở Mái Tây có quả như vậy không? Nếu quả đúng như thế, thì có thể nói rằng, đến nay mới bắt đầu thực thấy vở Mái Tây... Bằng không như vậy, thì lại có thể nói trước đây có vở Mái Tây rồi, nhưng nay lại thấy thêm vở Mái Tây của Thánh Thán cũng được”. Có thể thấy có chút gì giao thoa với lối phê bình ấn tượng của phương Tây: “Phê bình là kể lại cuộc phiêu lưu của tâm hồn mình qua tác phẩm” (A. Phơrăngxơ).

Thật ra ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại cũng đã chú ý vấn đề tiếp nhận của bạn đọc, như trong Thi học, Arixtốt cho rằng khi thưởng thức tác phẩm, người đọc cảm thấy thú vị, là vì vừa xem, họ vừa đoán định tác phẩm đang nói đến người và việc nào đó ở ngoài đời... Rải rác về sau vẫn thấy không ít những ý kiến nhấn mạnh vai trò của người đọc, ví dụ như: “Ý nghĩa trong thơ tôi là do bạn đọc cho nó” (P. Valéry)... Nhưng đúng như Tsécnưsépxki nói: “Thi học của Arixtốt đã ngự trị ở phương Tây suốt hai ngàn năm” mà quan niệm của nhà thi học này chủ yếu là thuyết mô phỏng, tái hiện, nghĩa là chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực mà thôi.

Đợi đến chủ nghĩa lãng mạn ra đời, với quan niệm biểu hiện là chủ yếu, thì trọng tâm chú ý đã di chuyển sang mối quan hệ giữa tác phẩm với nhà văn. Nhưng để đối trọng trở lại với các thuyết tái hiện và biểu hiện đều chú ý những “quan hệ bên ngoài” này, bước sang thế kỉ XX, chủ nghĩa hình thức Nga, Phê bình mới, rồi chủ nghĩa cấu trúc... lại chỉ tập trung vào những mối quan hệ bên trong, nội tại của chính văn bản tác phẩm. Độc tôn văn bản tác phẩm, Phê bình mới còn phủ nhận luôn sự tiếp nhận của người đọc, cho đó đều là những “cảm thụ ngộ nhận”. Nhưng quy luật là bất cứ cực đoan nào, cũng tạo tiền đề cho sự đối trọng trở lại. Gần như đồng thời với Phê bình mới, ở Anh, Mĩ đã xuất hiện khuynh hướng Phê bình theo phản ứng của bạn đọc (reader - response criticism) cho rằng mặc dù ý nghĩa nằm trong hệ thống kí hiệu ngôn ngữ của văn bản, nhưng không tồn tại độc lập, mà phải dựa vào bạn đọc. Ý nghĩa, do đó là kết quả phản ứng của bạn đọc đối với tác phẩm. Đến chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) thì Giôn Điuây phân biệt sản phẩm nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra, chỉ khi nào được công chúng thưởng thức, tiếp nhận thì mới trở thành tác phẩm nghệ thuật. Ông lập luận rằng, nghệ thuật cũng là một loại ngôn ngữ, mà “ngôn ngữ thì người nói, phải có người nghe, nó mới tồn tại. Chỉ khi nào phát huy được tác dụng đối với những kinh nghiệm của người khác với tác giả, thì tác phẩm nghệ thuật mới hoàn thành” (Nghệ thuật tức kinh nghiệm). Đến Hiện tượng luận (Phenomenology), Roman Igácđên cũng coi trọng vai trò tiếp nhận của người đọc. Ông cho rằng tác phẩm văn học vốn hàm chứa những “điểm chưa xác định”, chờ đợi người đọc đến bổ sung theo ý hướng của mình. Đến Giải thích học (hermeneutics), thì H.G. Gađamơ cho rằng một tác phẩm văn học ra đời trong một bối cảnh văn hoá lịch sử nhất định, khi đặt trong một bối cảnh văn hoá lịch sử khác, sẽ nảy sinh những ý nghĩa mới, mà ngay tác giả cũng như bạn đọc trước đó không thể ngờ tới. Phân tích một tác phẩm bao giờ cũng diễn ra một cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại. Đọc tác phẩm, do đó, không thể vứt bỏ mà lại rất nên đem kiến giải riêng của mình vào, tạo ra cho được cuộc đối thoại giữa chủ thể và đối tượng lí giải, nghĩa là rất coi trọng việc tiếp nhận chủ động và sáng tạo của người đọc.

Trên đây chỉ nói đến sự đối trọng bên ngoài với các hệ thống lí thuyết khác, nhưng còn sự tự đối trọng bên trong giữa các khuynh hướng phê bình chỉ nhấn mạnh của tác phẩm. Nối tiếp Phê bình mới nói trên, chủ nghĩa cấu trúc quan niệm tác phẩm là một hệ thống khép kín, một “hộp đen”, không liên quan gì hiện thực khách quan lẫn tư tưởng, tình cảm chủ quan của nhà văn, và logic dẫn đến là tác phẩm cũng không có liên quan tất yếu nào với sự lí giải của bạn đọc cả, vô hình trung có nghĩa là bạn đọc muốn hiểu thế nào tuỳ thích. Sự cực đoan về tính độc lập của văn bản tác phẩm tất yếu sẽ dẫn đến sự cực đoan về tính độc lập của bạn đọc là như vậy. Đưa ra các khái niệm “cái biểu đạt” (significant) tương đương với hình thức, “cái được biểu đạt” (signifie) tương đương với nội dung, chủ nghĩa cấu trúc cho rằng “cái biểu đạt” mới là lĩnh vực đích thực cần nghiên cứu, còn “cái được biểu đạt” là lĩnh vực tuỳ hứng, tài tử, bao gồm nhiều chân lí khác nhau, muốn hiểu thế nào cũng được. Khi người đọc tiếp xúc với một tác phẩm, không phải là đang đối diện với một văn bản mang một hàm nghĩa nào đó, mà chỉ là một văn bản được đan dệt một cách có nghệ thuật bởi những lời văn. Và bạn đọc, do đó hoàn toàn có thể lí giải khác nhau. Tiến thêm một bước nữa, đến chủ nghĩa hậu cấu trúc (post - structuralism) lại cho rằng “cái được biểu đạt” có thể chuyển hoá thành “cái biểu đạt”, như thế vốn chỉ từ một “cái biểu đạt” trong văn bản tác phẩm có thể dẫn tới tầng tầng lớp lớp “cái được biểu đạt”. Như thế, nếu đúng tác phẩm là một kiểu tổ chức lời văn, một cấu trúc ngôn ngữ, thì cấu trúc đó không tự thân khép kín nữa, mà ý nghĩa của nó là nhiều tầng, nhiều lớp và luôn luôn mở rộng, phiếm chỉ, phiêu diêu. Nếu quả rằng cấu trúc nội tại của tác phẩm có toát lên một hệ thống ý nghĩa nào đó, thì đó chỉ là sơ khởi, bạn đọc và nhà phê bình vẫn có thể và cần thiết phát hiện ra ý nghĩa thứ hai, thứ ba và vô cùng. Điều mà bạn đọc đầu tiên lĩnh hội được qua tác phẩm dường như là vấn đề mà tác phẩm nêu ra cho người đọc, đòi hỏi được giải đáp. Rồi sự giải đáp của người đọc, đối chiếu trở lại với tác phẩm sẽ nảy thêm vấn đề mới, đòi hỏi người đọc lại tiếp tục giải đáp, và cứ như thế mãi. Có thể thấy trọng điểm đã di chuyển dần từ văn bản sang người đọc.

Trăm suối đổ thành sông - nửa sau thế kỉ XX vào những năm 60, đã hình thành nền mĩ học tiếp nhận (Receptive aesthetics) với trung tâm là Đại học Côngtanx ở Cộng hoà Liên bang Đức. Họ phê phán thuyết văn bản trung tâm của Phê bình mới và chủ nghĩa cấu trúc, khẳng định rằng ý nghĩa của tác phẩm được sản sinh qua sự tương tác giữa văn bản với người đọc. Tác phẩm không thể có ý nghĩa cố định, mà phụ thuộc vào sự giao thoa diễn biến giữa các điểm nhìn trong lịch sử. Trên cơ sở đó, mĩ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí trung tâm từ văn bản sang người đọc và lịch sử văn học, do đó, không phải là lịch sử của tác giả với những tác phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc.

Như thế, gạt bỏ những sai trái mang sắc thái riêng, có thể thấy từ lối đọc “kí thác” cổ điển phương Đông đến mĩ học tiếp nhận phương Tây đều nhấn mạnh ý nghĩa tiếp nhận của người đọc. Có thể khẳng định vai trò của người đọc không phải chỉ là một khâu tất yếu tiếp theo, mà còn là một phương diện hữu cơ trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật. Có nghĩa là không phải sau khi đã xuất hiện văn bản của tác phẩm, mà ngay trong quá trình sáng tác của nhà văn, từ khâu cấu tứ, viết, sửa chữa, nhà văn đều đối thoại với bạn đọc trong tưởng tượng. Trong tâm tưởng của nhà văn chủ ý hay vô tình, đều tồn tại một mô hình tiếp nhận và sáng tác của họ ít nhiều đều xuất phát từ mô hình này. Tuy nhiên, không thể cường điệu vai trò của người đọc lên địa vị trung tâm của hoạt động văn học, bởi vì một lẽ giản đơn nếu chưa có sáng tác thì dứt khoát không thể có tiếp nhận, còn nếu không hoặc chưa có tiếp nhận, vẫn có thể sáng tác cho dù chưa phát huy được tác dụng. Trong tiếp nhận, có sáng tạo của người đọc, nhưng không thể tuỳ tiện. Hình tượng cơ bản trong tác phẩm là một tồn tại khách quan, trong tiếp nhận, có thể có hiện tượng biến hình, nhưng là biến hình của chính hình tượng vốn có. Nói rộng ra, vận mệnh lịch sử của một tác phẩm có thể trải qua những bước thăng trầm, cố nhiên là do sự đánh giá khác nhau qua các thời đại, nhưng vẫn có nguồn gốc ngay trong tác phẩm, bởi vì sự khái quát nghệ thuật điêu luyện bao giờ cũng đa dạng và phức tạp.
......................
Sưu tầm​
Thêm
Những quan niệm về sự tiếp nhận của người đọc
512
2
0

Nội dung và hình thức tác phẩm văn học là hai phương diện cơ bản thống nhất không thể tách rời của các tác phẩm văn học. Nắm vững thế nào là nội dung và hình thức của tác phẩm văn học là người đọc, người học bước đầu lĩnh hội được vẻ đẹp văn chương của các tác phẩm văn học nói chung.
nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.png

Ảnh: sưu tầm

Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thông gồm nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xuyên thấm vào nhau.

Trước hết, tác phẩm văn học cung cấp cho người đọc những biểu hiện phong phú, nhiều vẻ và độc đáo của đời sống mà tính loại hình của chúng tạo thành đề tài của tác phẩm. Vấn đề quan trọng nhất nổi lên từ đề tài, buộc tác giả phải bày tỏ thái độ, có ý kiến đánh giá là chủ đề. Ý kiến của tác giả trước vấn đề được nêu ra trong tác phẩm là tư tưởng. Thái độ đánh giá, nhiệt tình bảo vệ tư tưởng tạo nên cảm hứng chủ đạo hay cảm hứng tư tưởng. Quan niệm về thế giới và con người được dùng làm hệ quy chiếu để tác giả xác định đề tài, chủ đề, lí giải thế giới của tác phẩm có cội nguồn sâu xa trong thế giới quan. Cuối cùng, tương quan giữa sự biểu hiện của đời sống và sự cảm thụ chủ quan tạo nên nội dung thẩm mĩ của hình tượng. Nội dung tác phẩm là kết quả khám phá, phát hiện khái quát của nhà văn. Sự lược quy nội dung này vào các phạm trù xã hội học sẽ làm nghèo nàn nội dung tác phẩm.

Nội dung tác phẩm văn học chỉ tồn tại bằng hình thức và qua hình thức tác phẩm. Đó là cấu tạo gồm nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm. Văn bản ngôn từ là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm có hai chức năng : vẽ ra bức tranh đời sống và biểu hiện thái độ, cái nhìn của chủ thể lời nói bằng phương tiện ngôn ngữ. Đến lượt mình, “bức tranh đời sống” của tác phẩm lại trở thành văn bản hình tượng mà ý nghĩa của các thành tố của nó như chi tiết, tình tiết, nhân vật, cốt truyện, nhịp điệu trong toàn bộ thể hiện các yếu tố nội dung kể trên. Kết cấu có thể ví như ngữ pháp, có vai trò tổ chức các đơn vị có ý nghĩa của văn bản hình tượng thành những lời phát biểu. Thể loại văn học là những quy tắc tổ chức hình thức tác phẩm ứng với những loại hình nội dung nghệ thuật của nó. Hình thức nghệ thuật của tác phẩm là hiện tượng độc dáo, ứng với nội dung độc đáo, hoàn toàn không phải là số cộng giản đơn của các thủ pháp và phương tiện nghệ thuật. Trong tính chỉnh thể, hình thức nghệ thuật có nghĩa là hình thức cảm nhận đời sống, là cách tự bộc lộ của nội dung tác phẩm.

Trong tác phẩm văn học hình thức nghệ thuật là kênh duy nhất truyền đạt nội dung của nó, là phương tiện cấu tạo nội dung và làm cho nó có bộ mặt độc đáo. Do đó, tìm hiểu hình thức là điều kiện không thể thiếu để hiểu đúng nội dung. Bỏ qua hình thức hoặc bỏ qua tính chỉnh thể của nó sẽ có nguy cơ hiểu lệch nội dung tác phẩm, biến nó thành những cái “tương đương xã hội học”. Về mặt triết học, nội dung luôn luôn quyết định hình thức, hình thức phù hợp nội dung.

Trong văn học, hình thức văn bản và hình tượng là một tổ chức mang tính kí hiệu, là cái biểu đạt, còn nội dung là cái được biểu đạt, tức là ý nghĩa. Do đó các yếu tố nội dung của tác phẩm, như đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng, tính cách,... về thực chất đều là các lớp ý nghĩa của cái biểu đạt, do người đọc cảm nhận và khái quát nên. Do vậy nội dung của tác phẩm không đứng yên, bất biến, mà được mở rộng, đào sâu trong quá trình tiếp nhận, làm cho tác phẩm văn học tồn tại như một quá trình.

Chỉ những ai sống sâu sắc với cuộc đời, có ý thức trách nhiệm với nhân sinh, thời cuộc mới phát hiện được nội dung nghệ thuật có tầm cỡ. Và đồng thời phải có tài nâng nghệ thuật, tu dưỡng văn hoá, mới sáng tạo ra được những tác phẩm có nội dung và hình thức nghệ thuật hoàn mĩ.​
Thêm
Nội dung và hình thức tác phẩm văn học - Thuật ngữ văn học
411
3
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top