Văn học - nghệ thuật trước hết là chuyện đời sống, chuyện tâm hồn. Rất dễ hiểu là ít nhiều đều tiềm tàng trong mỗi người khả năng rung cảm, xúc động trước cái đẹp thiên nhiên cũng như nghệ thuật, nếu không thì đã không có văn nghệ dân gian và nhất là cũng sẽ không thể có thông cảm và tiếp thu của đông đảo quần chúng đối với tác phẩm nghệ thuật. Chỗ khác nhau giữa nghệ sĩ và quần chúng chủ yếu là do nghệ sĩ không chỉ cảm thụ, thu nhận, mà còn nói ra được, nói nên lời, bằng các ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau, những điều vốn ấp ủ hay mường tượng trong lòng nhiều người. Các văn nghệ sĩ lớn nhất xưa nay vẫn không thoả mãn, vẫn thấy sự nghiệp sáng tác của mình chưa thấm vào đâu so với thiên tài vĩ đại là bản thân đời sống, bản thản nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu nói: “Có người làm thơ nào, nghệ sĩ lành mạnh nào, dám bảo mình lớn hơn nhân dân đã đẻ ra mình?”.
Trong xã hội có giai cấp, quần chúng bị áp bức bốc lột, tất cả tinh lực để dồn cho bát cơm manh áo, luôn luôn lo sợ cho ngày mai, năng khiếu, tài năng bị thui chột, không có điều kiện bộc lộ, nảy nở. Lênin, khi khẳng định nghệ thuật thuộc về nhân dân, phải được quần chúng hiểu và ưa thích, đồng thời đặt ra cho văn nghệ trong xã hội xô-viết nhiệm vụ “đánh thức những nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”. Giữa quần chúng làm nên cuộc sống và nghệ sĩ, không phải có bức tường ngăn cách, mà những mầm mống nghệ sĩ, khả năng cảm thông với nghệ sĩ, khả năng thưởng thức hoạt động văn nghệ là có ở nhiều người, ở những mức độ khác nhau M.Gor-ki đã nói : “Tôi tin chắc rằng mỗi người đều mang trong mình những năng khiếu của người nghệ sĩ, và nếu có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của mình, những năng khiếu ấy có thể phát triển lên”.
Thế nhưng nói cuộc sống, nói nhân dân thì hình như hãy còn trừu tượng, chưa vượt ra ngoài vòng lý thuyết, trong lúc đó thì nghệ sĩ đích thực là những con người bằng xương bằng thịt, với những sáng tác phẩm được mọi người yêu thích, say mê lâu dài, mãi mãi. Rõ ràng không phải tất cả mọi người sinh ra đã là nghệ sĩ hay sẽ trở thành nghệ sĩ, mà số nghệ sĩ ở mỗi thời đại, ở mỗi xã hội thường là rất ít. Các thuyết duy tâm hay những người quen nhìn nhận vấn đề theo lối duy tâm thường đem thần bí hóa sáng tác văn nghệ, tuyệt đối hoá “phẩm chất nghệ sĩ, đem tách biệt, đối lập nghệ sĩ với đông đảo nhân loại bình thường”.
Đúng là phải có những năng khiếu đặc biệt mới trở thành nghệ sĩ. Không có gì lạ, sáng tác chẳng qua là lao động, là “hành nghề”. Mọi người ít nhiều đều có thiên hướng, có năng khiếu ở mặt này hay mặt khác, khiến người thì thích nghề này, người thì chọn ngành kia, người thì nổi lên ở lãnh vực này, người thì tỏ rõ sở trường ở lãnh vực khác. Lao động nghệ thuật cũng là như thế, có điều ở đây không phải là sản xuất hàng loạt, mà là hoạt động sáng tạo tinh vi, phức tạp. Nó đòi hỏi cao nhất ở trí tuệ, trái tim, bản lĩnh con người. Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Muốn có tác phẩm đẹp phải có khiếu, có tài năng, có thiên tài”, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng thấy cần phải lưu ý : “Văn học nghệ thuật là công trình khó lắm, công phu vô cùng, không giản đơn một chút nào… Làm văn nghệ phải có khiếu có tài”, cốt nhắc nhở anh chị em nên suy nghĩ kỹ khi chọn đi vào nghề văn. Nếu là hoạt động văn nghệ nghiệp dư thì không thành vấn đề lắm, nhưng chọn văn nghệ làm con đường phục vụ và dành tất cả đời mình vào đó, là một việc, hết sức nghiêm túc, cần phải cân nhắc, thận trọng.
Người ta chọn con đường sáng tác là vì yêu mến, ham thích, say mê văn nghệ. Bất kỳ ở đâu mà không nhiệt tình, không say mê thì cũng không đủ sức để đi xa được. Nhưng chỉ có say mê, chỉ có nhiệt tình thì vẫn chưa đủ, nhất là trong văn nghệ. Trong mọi ngành nghề, trong mọi hoạt động, nhiệt tình phải đi đôi với tri thức, đã có đức lại phải có tài, năng khiếu tài năng là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu được cho sáng tác văn nghệ. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng ta hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài, có khiếu thì khó khăn lắm. Làm cái nghề khác, không có tài cũng có thể làm việc được. Nhưng làm văn học nghệ thuật mà không có tài thì khó làm nên việc lắm... Những người không có tài thì nên đi làm nghề khác hơn là làm văn nghệ”. Làm văn nghệ hay làm nghề khác thì cũng là để phục vụ xã hội, mà phục vụ nhân dân được nhiều ít, hay dở như thế nào là do hiệu quả, chất lượng của công tác của mình. Một cái tủ đóng còn thô kệch, một chiếc sơ-mi cắt còn vụng về dùng tạm vẫn được, vẫn còn tác dụng, còn một cuốn tiểu thuyết dở, một bài thơ kém cỏi, một vở kịch tồi thà không có, không diễn còn hơn. Nghệ thuật không dung nạp được cái tầm thường.
Trong sự hình thành tư cách, phẩm chất nghệ sĩ có cả nhân tố xã hội lẫn cá nhân, có những xã hội đối nghịch với sự sáng tạo nghệ thuật và có xã hội thuận lợi cho sự phát triển của văn học nghệ thuật, thuận lợi cho sự tìm tòi sáng tạo thi thố tài năng, cũng như có một số ít người dồi dào những phẩm chất nghệ sĩ bẩm sinh giữa hàng muôn vạn người không có được bao nhiêu những phẩm chất ấy. Nghệ thuật nảy sinh và được nuôi dưỡng trên miếng đất của xã hội. Còn thành bại của từng văn nghệ sĩ là tùy thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan của mỗi người. Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác viết: “Chúng tôi không bảo rằng mỗi người phải thay thế cho Ra-pha-en, nhưng mỗi người mang trong mình một Ra-pha-en phải được tự do phát triển”.
Trước hết phải có “tâm hồn” mới làm nên nghệ thuật được. Nghệ sĩ chân chính là người có tâm hồn phong phú, say mê cái đẹp muôn hình muôn vẻ, mang nặng tình đời, tình người, sẵn sàng đón nhận, thông cảm với những vui buồn, yêu thương, căm giận ở đời, những vinh quang, khổ cực của kiếp người trong những xã hội khác nhau. Thuý Kiều có tài đàn, tài thơ cũng là Thúy Kiều đa tình đa cảm đầm đìa nước mắt trước một nấm mộ vắng tanh hương khói trong tiết thanh minh. Nhà phê bình Hoài Thanh “hình dung Nguyễn Du như là người lẳng lặng, ít nói ít cười, ít cởi mở với đời, nhưng tâm hồn thì lại lộng gió mười phương, không một chuyển động nào bên ngoài không vang sâu trong đó”.
Gạt đi cái quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong đó, ta có thể đồng ý với ý kiến của Thế Lữ, người mở đầu phong trào Thơ mới thời kỳ 1932 - 1945, khi ví tâm hồn nhà thơ với “cây đàn muôn điệu”. Xuân Diệu có lẽ đã chịu ảnh hưởng của V. Huy-gô khi coi thi sĩ là người:
Trong xã hội có giai cấp, quần chúng bị áp bức bốc lột, tất cả tinh lực để dồn cho bát cơm manh áo, luôn luôn lo sợ cho ngày mai, năng khiếu, tài năng bị thui chột, không có điều kiện bộc lộ, nảy nở. Lênin, khi khẳng định nghệ thuật thuộc về nhân dân, phải được quần chúng hiểu và ưa thích, đồng thời đặt ra cho văn nghệ trong xã hội xô-viết nhiệm vụ “đánh thức những nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”. Giữa quần chúng làm nên cuộc sống và nghệ sĩ, không phải có bức tường ngăn cách, mà những mầm mống nghệ sĩ, khả năng cảm thông với nghệ sĩ, khả năng thưởng thức hoạt động văn nghệ là có ở nhiều người, ở những mức độ khác nhau M.Gor-ki đã nói : “Tôi tin chắc rằng mỗi người đều mang trong mình những năng khiếu của người nghệ sĩ, và nếu có thái độ quan tâm nhiều hơn đến những cảm giác và ý nghĩ của mình, những năng khiếu ấy có thể phát triển lên”.
Thế nhưng nói cuộc sống, nói nhân dân thì hình như hãy còn trừu tượng, chưa vượt ra ngoài vòng lý thuyết, trong lúc đó thì nghệ sĩ đích thực là những con người bằng xương bằng thịt, với những sáng tác phẩm được mọi người yêu thích, say mê lâu dài, mãi mãi. Rõ ràng không phải tất cả mọi người sinh ra đã là nghệ sĩ hay sẽ trở thành nghệ sĩ, mà số nghệ sĩ ở mỗi thời đại, ở mỗi xã hội thường là rất ít. Các thuyết duy tâm hay những người quen nhìn nhận vấn đề theo lối duy tâm thường đem thần bí hóa sáng tác văn nghệ, tuyệt đối hoá “phẩm chất nghệ sĩ, đem tách biệt, đối lập nghệ sĩ với đông đảo nhân loại bình thường”.
Đúng là phải có những năng khiếu đặc biệt mới trở thành nghệ sĩ. Không có gì lạ, sáng tác chẳng qua là lao động, là “hành nghề”. Mọi người ít nhiều đều có thiên hướng, có năng khiếu ở mặt này hay mặt khác, khiến người thì thích nghề này, người thì chọn ngành kia, người thì nổi lên ở lãnh vực này, người thì tỏ rõ sở trường ở lãnh vực khác. Lao động nghệ thuật cũng là như thế, có điều ở đây không phải là sản xuất hàng loạt, mà là hoạt động sáng tạo tinh vi, phức tạp. Nó đòi hỏi cao nhất ở trí tuệ, trái tim, bản lĩnh con người. Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Muốn có tác phẩm đẹp phải có khiếu, có tài năng, có thiên tài”, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng thấy cần phải lưu ý : “Văn học nghệ thuật là công trình khó lắm, công phu vô cùng, không giản đơn một chút nào… Làm văn nghệ phải có khiếu có tài”, cốt nhắc nhở anh chị em nên suy nghĩ kỹ khi chọn đi vào nghề văn. Nếu là hoạt động văn nghệ nghiệp dư thì không thành vấn đề lắm, nhưng chọn văn nghệ làm con đường phục vụ và dành tất cả đời mình vào đó, là một việc, hết sức nghiêm túc, cần phải cân nhắc, thận trọng.
Người ta chọn con đường sáng tác là vì yêu mến, ham thích, say mê văn nghệ. Bất kỳ ở đâu mà không nhiệt tình, không say mê thì cũng không đủ sức để đi xa được. Nhưng chỉ có say mê, chỉ có nhiệt tình thì vẫn chưa đủ, nhất là trong văn nghệ. Trong mọi ngành nghề, trong mọi hoạt động, nhiệt tình phải đi đôi với tri thức, đã có đức lại phải có tài, năng khiếu tài năng là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu được cho sáng tác văn nghệ. Đồng chí Phạm Văn Đồng nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng ta hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài, có khiếu thì khó khăn lắm. Làm cái nghề khác, không có tài cũng có thể làm việc được. Nhưng làm văn học nghệ thuật mà không có tài thì khó làm nên việc lắm... Những người không có tài thì nên đi làm nghề khác hơn là làm văn nghệ”. Làm văn nghệ hay làm nghề khác thì cũng là để phục vụ xã hội, mà phục vụ nhân dân được nhiều ít, hay dở như thế nào là do hiệu quả, chất lượng của công tác của mình. Một cái tủ đóng còn thô kệch, một chiếc sơ-mi cắt còn vụng về dùng tạm vẫn được, vẫn còn tác dụng, còn một cuốn tiểu thuyết dở, một bài thơ kém cỏi, một vở kịch tồi thà không có, không diễn còn hơn. Nghệ thuật không dung nạp được cái tầm thường.
Trong sự hình thành tư cách, phẩm chất nghệ sĩ có cả nhân tố xã hội lẫn cá nhân, có những xã hội đối nghịch với sự sáng tạo nghệ thuật và có xã hội thuận lợi cho sự phát triển của văn học nghệ thuật, thuận lợi cho sự tìm tòi sáng tạo thi thố tài năng, cũng như có một số ít người dồi dào những phẩm chất nghệ sĩ bẩm sinh giữa hàng muôn vạn người không có được bao nhiêu những phẩm chất ấy. Nghệ thuật nảy sinh và được nuôi dưỡng trên miếng đất của xã hội. Còn thành bại của từng văn nghệ sĩ là tùy thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan của mỗi người. Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác viết: “Chúng tôi không bảo rằng mỗi người phải thay thế cho Ra-pha-en, nhưng mỗi người mang trong mình một Ra-pha-en phải được tự do phát triển”.
Trước hết phải có “tâm hồn” mới làm nên nghệ thuật được. Nghệ sĩ chân chính là người có tâm hồn phong phú, say mê cái đẹp muôn hình muôn vẻ, mang nặng tình đời, tình người, sẵn sàng đón nhận, thông cảm với những vui buồn, yêu thương, căm giận ở đời, những vinh quang, khổ cực của kiếp người trong những xã hội khác nhau. Thuý Kiều có tài đàn, tài thơ cũng là Thúy Kiều đa tình đa cảm đầm đìa nước mắt trước một nấm mộ vắng tanh hương khói trong tiết thanh minh. Nhà phê bình Hoài Thanh “hình dung Nguyễn Du như là người lẳng lặng, ít nói ít cười, ít cởi mở với đời, nhưng tâm hồn thì lại lộng gió mười phương, không một chuyển động nào bên ngoài không vang sâu trong đó”.
Gạt đi cái quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong đó, ta có thể đồng ý với ý kiến của Thế Lữ, người mở đầu phong trào Thơ mới thời kỳ 1932 - 1945, khi ví tâm hồn nhà thơ với “cây đàn muôn điệu”. Xuân Diệu có lẽ đã chịu ảnh hưởng của V. Huy-gô khi coi thi sĩ là người:
Để tâm hồn ràng buộc bởi muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn phương
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương...
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn phương
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương...
Nhà thơ V.Huy-gô đã ví tâm hồn nghệ sĩ như một chất pha lê long lanh trong suốt đặt giữa lòng cuộc sống mà mỗi tia sáng, mỗi chuyển động đều phản chiếu, rung ngân, âm vang thành muôn ngàn thanh sắc, muôn ngàn âm điệu. Gô-gôn, người mở đầu vĩ đại cho nền tiểu thuyết hiện thực Nga, đã xác định tài năng của nhà thơ Nga vĩ đại Pu-skin như sau : “Ông có nhận xét trước tất thảy những gì có trong hiện thực thấy được, cũng như tất cả những gì có ở bên trong con người... Từ bất cứ một cái gì, dù vô cùng bé nhỏ, dù hết sức vĩ đại, ông đều lôi rút ra được tia lửa điện của các ngọn lửa thơ ca vốn có trong bất kỳ một công trình nào của Thượng đế”. Nhà thơ Pháp La-mar-tin đã tự nói về mình: “Tôi sinh ra đã là người nhạy bén và nhạy cảm. Hai đặc tính này là những yếu tố đầu tiên của bất kỳ một thứ thơ ca nào”. Chính Lê-nin cũng đã nhận thấy khả năng ấy ở M.Gor-xki : “Nói chuyện với anh luôn luôn thú vị khi ấn tượng của anh đa dạng và rộng rãi hơn” - nhà văn xô-viết vĩ đại đã nhắc lại lời của lãnh tụ trong hồi ký của mình về Người.
Không gì tai hại cho sáng tác văn nghệ hơn là sự nguội lạnh của tâm hồn, là sự tê cống của tình cảm. Nhờ lòng thiết tha với cuộc sống, với con người, nghệ sĩ là người có khả năng ôm trùm sự sống ở cả bề mặt và bề sâu, soi mói vào những ngỏ ngách của tâm hồn, vào những uẩn khúc của lòng người. Cuộc sống là vô cùng nên nghệ thuật cũng là vô cùng và đòi hỏi sự hiểu biết khám phá về đời sống, về con người ở nghệ sĩ cũng là vô cùng, có người đã gọi thiên tài nghệ thuật là “cái kính hiển vi sống thâu tóm nổi toàn bộ vũ trụ”.
Nói chuyện tại Đại hội lần thứ 2 các nhạc sĩ Việt Nam, đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh : “Người làm nhạc phải là người rất giàu tâm hồn, giàu tình cảm, sao cho cảnh vật, đời sống bên ngoài dội vào trong con người mình mà biến thành tác phẩm tốt”. Đối với văn nghệ sĩ trong xã hội chúng ta, đó đồng thời cũng là tâm hồn, tình cảm cách mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ. Bởi vì, như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “nghệ thuật là bông hoa của tâm hồn, tâm hồn của nghệ sĩ, và đó là kết tinh của tình cảm, tâm tư của quần chúng nhân dân của một thời, có thể là muôn thuở”.
Tâm hồn rộng mở, kho ấn tượng phong phú ở văn nghệ sĩ chính là gắn liền với sự nhạy cảm của giác quan, với khiếu quan sát sắc bén, tinh tế. Nhà văn thu nhận các quá trình, các chi tiết đặc sắc, các biểu hiện muôn màu muôn vẻ của đời sống bên ngoài, là bằng tâm hồn cũng như bằng tất cả các giác quan của mình. Tai mắt là các khí quan trực tiếp nối liền con người với thế giới khách quan. Con mắt họa sĩ, cái tai âm nhạc..., không có đôi mắt tinh tường, đôi tai nhạy thính thì không cách nào trở thành họa sĩ, nhạc sĩ được. Nhà văn cũng phải có tai mắt tương tự như thế mới dựng lên được bức tranh về đời sống, khắc họa được nhân vật thông qua ngoại hình, hành động, giọng nói, tác phong, dáng điệu và những chi tiết sinh hoạt khác nhau. Chỉ cần được Ban-dắc, Tsê-khốp hay M.Gor-ki nhìn vào là một con người tưởng như lẩn khuất bỗng nhiên được tách ra khỏi đám đông, trở thành có diện mạo, cốt cách riêng trở thành nhân vật. Nhà văn “lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ” (Tố Hữu), thu tóm, ghi nhận những sự, những tình, những cảnh, có được cái vốn sống cần thiết, từ đó mà xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật.
Đời sống diễn ra trước mắt mọi người, ý nghĩa của những sự việc lớn nhỏ đã phơi bày ra hay còn ẩn giấu, nhưng nói chung người ta dễ “cho qua” trong cuộc đời bận rộn này. Nghệ sĩ chính là người có khả năng phát hiện cái đặc sắc, cái ý nghĩa thẩm mỹ của sự vật tưởng là tầm thường, vô nghĩa, ức đoán ra được những mối tương giao giữa âm thanh, màu sắc, hương vị, những liên hệ giữa các sự vật tưởng như xa lạ vô can. Cái tính vô tư của nghệ sĩ không bị đắm đuối, thu hút bởi những lợi ích thực dụng trước mắt, lại thường soi mói, tư lự, cố tìm ra cái đẹp bị che lấp, những khía cạnh thầm kín của sự vật. Nhà viết tiểu thuyết bậc thầy Phờ-lô-be có lời khuyên nổi tiếng Mô-pat-xăng trẻ tuổi : “Khi anh đi qua trước mặt người bán hàng thực phẩm đang ngồi ở ngưỡng cửa, qua trước mặt người gác cổng đang ngậm tẩu thuốc hay qua một trạm cho thuê xe ngựa, anh hãy tả thế nào cho tôi không nhầm lẫn với bầt cứ một người bán thực phẩm hay một người gác cổng nào khác ; hãy cho tôi biết, chỉ bằng một lời nói thôi, con ngựa kéo xe không giống 50 con ngựa đang theo sau hoặc đi trước nó”. Đến lượt mình, nhà viết truyện ngắn Mô-pát-xăng lại căn dặn những nhà văn trẻ khác : “Muốn tả một ngọn lửa lập lòe, một gốc cây giữa cánh đồng, ta hãy đứng trước bấy nhiêu sự vật, hãy nhìn kỹ cho đến khi mà ta thấy ngọn lửa đó, gốc cây đó không giống với một ngọn lửa, một gốc cây nào khác. Do đó ta sẽ đi đến chỗ độc đáo”. Có thể nói vẻ đẹp, sức sống của thiên nhiên, cái “của trời trăng gió kho vô tận” được phát hiện, khai thác trong văn học nghệ thuật là do tài quan sát, phát hiện của văn nghệ sĩ. Một nhà nghiên cứu đã nói về Đăng-tơ : “Những phong cảnh hùng vĩ, những chân trời bao la để lại trên võng mạc của mắt ông cũng trong suốt như các đường nét nhỏ nhặt nhất của một sự vật nào đó vậy. Đường nét, màu sắc, sắc thái, độ chìm nổi, mức sáng tối, sự hài hòa và những chỗ không cân xứng - tất cả ông đều phân biệt được và ghi nhận với một tính chính xác phi thường”. Một hạt cát dưới mắt tinh tế và yêu đời của nhà văn không còn lạ hạt cát bình thường nữa. Nhà văn xô-viết Pau-tốp-xki quan niệm văn học có thể đem lại niềm vui cho người đọc qua những sự vật nhỏ nhặt nhất, như “cho thấy cái đẹp của một hạt cát tí xíu nào đó có thể khúc xạ ánh mặt trời, biến thành vô vàn cầu vồng và hào quang lấp lánh màu sắc”. Và dĩ nhiên, khả năng quan sát, khám phá của nhà văn trước hết là hướng vào thế giới bên trong của con người. Xtăng-đan có lần bị cảnh sát truy vấn về lý lịch và nghề nghiệp, đã trả lời: “Nghề ư? Nghề quan sát trái tim con người”. Trong cái công việc hết sức khó khăn là tìm hiểu cuộc sống và lòng người, hiểu người và hiểu mình, đóng góp của văn nghệ sĩ có thể nói là quyết định.
Nhà văn không chỉ chuyên tâm quan sát con người và đời sống bên ngoài, mà còn hướng sự quan sát vào chính bản thân mình. Sáng tác là phản ánh đời sống bên ngoài, nhưng bao giờ cũng là thông qua thế giới bên trong, bao giờ cũng có phần gửi gắm của nhà văn trong đó. Cho nên ở nhà văn, quan sát và tự quan sát xen lẫn vào nhau, nối tiếp và bổ sung cho nhau. “Trông người lại ngẫm đến ta” - nhà văn nhờ hiểu đời, hiểu người mà càng hiểu mình, và “suy bụng ta ra bụng người” – chính nhờ hiểu mình mà càng hiểu thêm người. Khả năng phân tích và tự phân tích được kết hợp chặt chẽ, thường xuyên trong suốt quá trình sáng tác.
Những điều quan sát, từng trải không phải được đem sử dụng ngay, mà thường về sau, có khi là hàng mấy chục năm. Nhà văn sáng tác, thường là lục tìm trong đáy sâu tâm hồn, trong cái kho dự trữ các hình ảnh, ấn tượng mình đã tích lũy được. Và điều này đòi hỏi nhà văn phải có một trí nhớ đáng kể, không chỉ nhớ trên đại thể mà trong chi tiết, sao cho có thể hình dung lại các sự việc, các tình tiết như khi chúng đã xảy ra và đập mạnh vào mình. Khi đã về già, Phờ-lô-be còn nhớ lại rất chi li quang cảnh các lâu đài mà mình đã sống qua mấy tháng khi còn là đưa bé mới hai tuổi rưỡi. Ban-dắc đã mượn lời của một nhân vật để nói về mình : “ông có được mọi loại trí nhớ : nhớ được cả địa danh, tên họ, cả đồ vật, vẻ mặt, ông không chỉ do ý muốn đã nhớ lại các sự vật đặc biệt, mà còn thấy rõ cả vị trí, ánh sáng, màu sắc đúng như trong khoảnh khắc ông đã nhìn thấy chúng”. Hầu hết các nhà văn đều có những mẩu hồi ký, qua đó những sự kiện lớn nhỏ trong thời thơ ấu được tái hiện, nhiều kỉ niệm được gợi lại với rất nhiều chi tiết và với vẻ trong sáng tươi mới, mà thời gian như bất lực không xói mòn hay làm lu mờ đi được.
Nhưng không chỉ trong hồi ký. Nhà văn thường bắt tay vào sáng tác sau một khoảng gián cách dài hay ngắn, và sử dụng tất cả những cái gì đã lắng đọng trong mình, đã biến thành kỉ niệm và sẽ được khơi dậy và huy động trong quá trình sáng tác. Trí nhớ lâu bền được sự bổ sung và viện trợ của các sổ tay ghi chép mà hầu hết các nhà văn đều sử dụng theo cách riêng của mình. Trong quá trình sáng tác, trí nhớ tốt sẽ giúp cho nhà văn huy động trong vốn sống tích lũy những gì là cần thiết cho việc thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
Sáng tác không đóng khung và dừng lại trong việc tái hiện các điều quan sát hay thể nghiệm, mà chỉ thực sự bắt đầu với hoạt động của tưởng tượng. Gôn-tsa-rốp nói: “Lối chụp trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đường của tưởng tượng sáng tạo, nó mới đến gần được với cuộc sống”. Trí tưởng tượng của nhà văn vốn vô tư, không chỉ quay quanh những việc thuộc lợi ích trực tiếp, mà có thể hướng vào những sự việc, những đối tượng khác nhau nhất. Khả năng tưởng tượng là khả năng vốn có của mọi người, nhưng ở đông đảo các trường hợp thì con người thường chỉ hình dung được những gì đang chờ đợi mình hoặc có thể xảy ra cho bản thân mình. Trí tưởng tượng giúp nhà văn xâm nhập vào cuộc sống xung quanh, vào tâm hồn của người khác, vẽ ra trong trí óc của mình những tình huống khác nhau, những khả năng diễn biến khác nhau của sự vật, dựa vào kinh nghiệm sống trực tiếp hoặc gián tiếp mà hình dung, mà ức đoán và tự giải đáp về cuộc sống hay gửi gắm vào đó những ước mơ khát vọng của mình.
Những quan sát từng nơi từng lúc, những cảm thụ thu nhận trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau và tích lũy chồng chất trong ký ức chính nhờ tưởng tượng mà được sắp xếp, phân bố đưa vào những liên kết, những tổ hợp mới tùy theo ý đồ tư tưởng và nghệ thuật của tác giả, tùy theo cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Tưởng tượng đẩy gần lại nhau những cái rời rạc, đoán định ra mối thống nhất bên trong của các sự kiện, nắm bắt thần thái của mỗi nhân vật từ trong những dữ kiện riêng lẻ, bồi đắp da thịt cho nhân vật sống lấy đời sống tự nhiên của nó.
Ở nghệ sĩ, sức mạnh của tưởng tượng không tách rời với khả năng tư duy hình tượng. Bi-ê-lin-xki coi đặc trưng của văn học nghệ thuật là ở tư duy hình tượng. Đô-brô-liu-bốp so sánh tư duy của nhà khoa học và tư duy của nghệ sĩ : “Một người thì suy nghĩ bằng hình tượng cụ thể, không bao giờ bỏ sót những hiện tượng và những hình tượng cục bộ, còn người kia thì tìm mọi cách khái quát tất cả lại, đúc kết những dấu hiệu cục bộ thành công thức chung”. Theo nhà sinh lý học Nga nổi tiếng Páp-lốp thì đặc điểm của tư duy hình tượng là tái hiện toàn bộ giới hiện thực”. Nhà nghệ thuật “nắm lấy giới hiện thực một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn, đầy đủ... không có bất cứ một sự phân chia nào, bất cứ một sự tách rời nào”. Ở nghệ sĩ, hệ thống tín hiệu thứ nhất đặc biệt phát triển. Tư duy hình tượng có khả năng nắm bắt hiện thực một cách trực tiếp, nhưng vẫn không dừng lại ở cảm tính mà đồng thời bao hàm tư duy, đánh giá, kết luận. Vấn đề không phải ở sự đối lập, mà là ở mức độ, ở ưu thế của loại tư duy này hay tư duy kia ở nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ. Không có một bức tường kín mít giữa hai loại tư duy, mà có sự bổ sung cho nhau, mỗi loại đều có chỗ mạnh và lý do tồn tại của nó.
Trí tưởng tượng, tư duy hình tượng nhạy bén còn thể hiện ở khía cạnh này nữa: khả năng nhập thân của nhà văn. Nhà văn xây dựng nhân vật và câu chuyện không phải một cách lạnh lùng, vô can, mà hòa nhập vào những điều mình miêu tả như cùng sống với nhân vật và tham dự vào câu chuyện. Trong một bức thư, Phờ-lô-be tâm sự: “Thật là tuyệt khi được tiêu khiển thời gian bằng viết, không bị còn lại một mình với chính mình, mà được trú ngụ trong bất kỳ một nhân vật nào đang được mình viết. Hôm nay, chẳng hạn, tôi là một người đàn ông và một người đàn bà cùng một lúc, hai người đều đang yêu - tôi cưỡi ngựa đi dạo trong rừng, sau bữa ăn, mùa thu, và tôi là những cành đầy lá vàng, là những chiếc lá, là gió, là tiếng nói và ánh nắng mặt trời, ở đó mỗi tế bào của thân thể tôi đều chìm ngập trong hạnh phúc tình yêu”. Còn có thể dẫn thêm rất nhiều những thí dụ tương tự. Rõ ràng là có sống sâu sắc với những điều viết ra thì sự thể hiện mới sinh động và thuyết phục. Điều này, ngay từ thời mình, A-ri-xtốt cũng đã ít nhiều nhận ra được khi viết trong Thi pháp rằng nhà thơ phải “nhìn thấy tất cả một cách khá rõ ràng và dường như, phải có mặt trong bản thân diễn tiến của các sự kiện để tìm ra cái cần phải có... Trong chừng mực có thể, nhà thơ phải hình dung ra được tình thế của các nhân vật…”. Chính Lênin cũng đã thừa nhận sự cần thiết của nhập thân khi trao đổi với M. Gor-ki: “Tôi không có quyền tưởng tượng mình là thằng ngốc, nhưng anh anh phải tưởng tượng, nếu không anh sẽ không miêu tả được thằng ngốc”. Nhờ khả năng quên mình đồng nhất với nhân vật mà trong một chừng mực nhất định, các nhà văn hiện thực chủ nghĩa khắc phục được lối chủ quan độc đoán và để cho các nhân vật nói năng, hành động theo lô-gic của tính cách và của tình huống, nó cũng là lô-gic của đời sống và của nghệ thuật.
Văn học đi giữa ước mơ và hiện thực, giữa lý tưởng bay bổng và đời sống hằng ngày. Sự kiện đời sống mà biến thành hình tượng văn học là nhờ có trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn. Không có hoạt động tổ chức, thanh lọc, bổ sung, cải biên lại những gì mà nhà văn đã thu thập được từ đời sống thì cũng không đạt tới sự thật nghệ thuật. Ngay trong cái kho dự trữ những sự việc, hình ảnh, ấn tượng của nhà văn cũng đã có sự điều chỉnh bước đầu của trí tưởng tượng và dĩ nhiên, từ cái vốn sống đã có, từ những yếu tố, những mầm mống đầu tiên của đề tài, cốt truyện, chủ đề đến sự thai nghén và thành hình của tác phẩm, trí tưởng tượng càng được huy động và phát huy tác dụng. Có thể nói trong suốt quá trình sáng tạo, tính năng động chủ quan đóng vai trò quyết định như thế nào, thì tưởng tượng sáng tạo của nhà văn cũng có tầm quan trọng như thế ấy. Ngay trong thơ trữ tình, không có nhân vật, không có cốt truyện, vai trò của tưởng tượng cũng không kém quan trọng. Ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, tứ thơ... tất cả đều bất đầu từ sự thật đời sống và được hoàn thành bởi tưởng tượng sáng tạo. Đúng như đồng chí Trường Chinh đã nói: “Thơ là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng”.
Văn học nghệ thuật đòi hỏi phải sáng tạo, nghĩa là phải độc đáo, không bắt chước, dù đó là bắt chước người khác hay bắt chước theo đuôi đời sống. Nếu cần bắt chước, như A-ri-xtôt đã chủ trương, thì cũng là bắt chước đời sống không phải trong những biểu hiện riêng lẻ, mà ngay trong tính sáng tạo của nó. Đời sống phong phú, phức tạp, biến hóa vô cùng; văn học nghệ thuật cũng phải phản ánh và thu tóm cái phong phú vô hạn vô hồi, cái sống động ấy của cuộc đời. Cả ba yêu cầu: sáng tạo, phong phú, sinh động, đều giả định rằng sáng tác không thể là một sự sao chép nô lệ nghèo nàn, mà là khái quát hoá là “điển hình hoá cao độ” (Trường Chinh). Bằng cách nào? bằng hư cấu, bằng tượng tượng. Tưởng tượng sáng tạo mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật, cho phép những phong cách phong phú, táo bạo, rực rỡ nhất. Hư cấu, tưởng tượng sáng tạo không phải là bịa đặt vô tội vạ, mà đòi hỏi nhà văn phải có sự hiểu biết sâu xa về đời sống. Tưởng tượng là bay bổng lên trên để bao quát hơn, để xâm nhập sâu vào đời sống, là nương theo đời sống mà sáng tạo, khai thác, thúc dục đời sống không ngừng, bộc lộ khả năng sáng tạo vô cùng tận của nó.
Trở lên là những nét chính về năng khiếu và phẩm chất nhà văn. Văn học nghệ thuật là một lãnh vực khó khăn phức tạp và tiêu biểu nhất cho khả năng sáng tạo kỳ diệu của con người. Thành tựu văn học nghệ thuật là tài sản quý báu chung và góp phần làm nên bộ mặt tinh thần của xã hội, của dân tộc. Lê-nin thường nhắc nhở: “Phải ủng hộ tài năng”. Đảng và nhân dân đánh giá cao các văn nghệ sĩ bằng sáng tác của mình, đã đưa lại cho xã hội những thức ăn tinh thần đáng quý, đóng góp tích cực vào công cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa.
Chính vì thiết tha trân trọng văn nghệ mà chúng ta chờ đợi nhiều và có đòi hỏi rất cao đối với văn nghệ sĩ. Đi vào sáng tác văn nghệ là phải có năng khiếu. Nhưng tự nó năng khiếu chưa đủ để trở thành nhà văn chân chính. Tác phẩm văn học có giá trị là kết quả của sáng tạo, nhưng đồng thời cũng là của lao động kiên trì. Đồng chí Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Tài năng là công phu”. Và đồng chí đã nhắc nhở, nhấn mạnh các thứ vốn mà văn nghệ sĩ nhất thiết phải có: vốn chính trị, tư tưởng, vốn sống, vốn văn hóa, vốn nghề nghiệp.
Không thể chối cãi được vai trò của cảm hứng trong sự sáng tạo của nhà văn. Cảm hứng vụt đến hình ảnh, câu chữ cứ tuôn trào dưới ngòi bút hối hả của nhà văn như trong một cơn run giật, nhà văn làm xong một mạch nhưng cái mà trước đó phải loay hoay, lủng tủng, tưởng như không sao làm nổi. Không có chuyện thần nhập ma nhập như có người tưởng, mà đó là một trạng thái bột phát, là cái tia chớp bừng lên ở cuối chặng đường mò mẫm, cân nhắc, nghiền ngẫm, tập trung căng thẳng. Không phải lúc nào cảm hứng cũng tự đến theo ý muốn của nhà văn, cảm hứng thường đến những lúc bất ngờ nhất, nhưng chính là nhờ ở nhà văn đã có một quá trình tích lũy, chuẩn bị, suy tính, tìm tòi, trăn trở. Sao lại có thể làm theo kiểu “há miệng chờ sung” ở nơi đòi hỏi một công phu lao động suốt đời, không ngừng không nghỉ: lao động nội tâm, lao động nghệ thuật? Trong văn nghệ cũng như ở bất cứ lãnh vực nào, người ta chỉ hái gặt ở nơi nào đã ra công gieo trồng, chăm bón.
Nghệ sĩ vĩ đại đồng thời cũng là người lao động vĩ đại, là người dồn hết tâm hồn, sức lực vào công việc của mình. Lao động nghệ thuật là niềm say mê, là nguồn vui, nhưng cũng là nỗi đau khổ dày vò, bởi vì nghệ thuật là lãnh vực sáng tạo mà có gia công, có cố gắng bao nhiêu đi nữa cũng không bao giờ là thừa, là đủ. Ban-dắc làm việc 15 giờ, 18 giờ một ngày suốt hàng chục năm liền. Phờ-lô-be, tác giả Bà Bôvari khát khao đưa nghệ thuật của mình đến sự toàn bích, vật lộn với nghề nghiệp của mình, có lúc như rơi vào bi kịch. Thiên tài khổng lồ L.Tôn-xtôi cũng phải than thở vì cái khó khăn tuế toái của nghề văn, của công phu lao động mà nó đòi hỏi : “Tôi thấy buồn và chẳng viết gì cả, còn làm việc thì khổ sở quá. Anh không thể hình dung được tôi phải chật vật như thế nào với công việc chuẩn bị này : phải cày sâu cái cánh đồng mà trên đó tôi buộc phải gieo giống. Phải suy đi tính lại tất cả những gì có thể xảy ra với tất cả các nhân vật tương lai trong tác phẩm sắp viết, một tác phẩm rất lớn và phải nghĩ ra hàng triệu cách kết hợp có thế có được, để rồi trong số đó chỉ chọn một phần triệu thôi, thật là khó kinh khủng. Đấy, tôi đang bận việc ấy”. Đó là khi nhà văn Nga bắt tay vào viết Chiến tranh và hòa bình. Trước đó, ông đã thân hành đến tận chiến trường Bơ-rô-di-nô, gặp gỡ, nói chuyện, khai thác tài liệu với chính những người còn sống đã tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc 1812. Ngoài ra, nhà văn còn tìm đọc, ghi chép những hồi ký, nhật ký, thư từ có liên quan, vào các viện lưu trữ, thư viện tìm đọc những tài liệu gốc, đối chiếu các tài liệu lịch sử, và đọc các sách Nga viết mấy mươi năm đầu thế kỉ 19, nghiên cứu các sách về hội Tam điểm. Đó là chưa kể kinh nghiệm về chiến tranh mà ông đã có được nhờ đã trực tiếp tham gia cuộc bảo vệ Sê-va-xtô-pôn mấy mươi năm về trước.
Các nghề nghiệp khác nhau, sự tiếp xúc với nhiều cảnh sống, với đủ hạng người khác nhau đã giúp Ban-dắc phát triển khiếu quan sát của mình, như nhà văn đã tâm sự trong một bức thư : “Tôi khác người ở cái khả năng quan sát to lớn, do đã buộc phải trải qua đủ thứ nghề nghiệp”. Nghề thầy thuốc cũng tạo một điều kiện thuận lợi cho Tsê-khốp. Và chính Tsê-khốp cũng làm một chuyến đi xa vất vả để có sự hiểu biết hơn về đời sống Nga. M. Gor-ki đã lê gót giày (thậm chí có khi không có cả giày) trên khắp nước Nga và đã lặn lội với đủ các thứ nghề, với đủ các hạng người, từ người lang thang bụi đời tuổi thơ ấu đến công nhân, nông dân, các chiến sĩ đấu tranh cho tự dọ, cũng như các tầng lớp trí thức và thượng lưu trong xã hội và điều này đã đưa lại cho nhà văn vô sản vĩ đại đầu tiên trên thế giới một vốn sống to lớn, từ đó mà có được những tác phẩm đầy tài năng. Lê-nin đã có lần nói với M.Gor-ki : “Nghe chuyện của anh tôi đâm sợ, sợ anh không kịp viết”.
Ở Việt Nam, các nhà văn, nhà thơ đã tỏ rõ tài năng trước Cách mạng tháng Tám, sau này đi theo Cách mạng nhưng một thời gian dài hầu hết không ai viết được gì đáng kể. Trong lúc đó thì thơ Bác, thơ Tố Hữu ngày càng nổi bật lên. Phải trải qua một quá trình “lột xác”, cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt và sau nhiều đợt đi thực tế, xâm nhập vào đời sống lao động và đấu tranh của quần chúng, các nhà thơ Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu... mới trở lại có tiếng nói được lắng nghe nhiều trên thi đàn. Rất nhiều tài năng đã trưởng thành trong quá trình cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Và không phải ngẫu nhiên mà văn học Việt Nam đã giữ được vai trò tiên phong trong nền văn học chống đế quốc trong thời đại ngày nay như Đảng ta đã nhận định.
Năng khiếu mà không đi đôi với lao động, với công phu rèn luyện thì cũng chỉ là con số không. Các nhà văn chúng ta muốn có vốn để sáng tác thì phải lăn lộn trong đời sống, đến với những nơi tiên tiến, sống với những người tiên tiến. Đây cũng là điều mà năm 1918, sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, Lênin đã khuyên M. Gor-ki: “Anh đã tự đặt mình vào một vị trí mà từ đó anh không trực tiếp quan sát những cái mới trong đời sống của công nhân và nông dân. Nếu quan sát thì cần phải quan sát từ bên dưới, ở nơi có thể nhìn bao quát việc xây dựng cuộc sống theo kiểu mới, ở trong xóm thợ của tỉnh nhỏ hoặc ở nông thôn...”.
Tài năng chỉ nảy nở phát triển trên miếng đất của xã hội, của truyền thống dân tộc, của sinh hoạt nhân dân. Cái chỉ mới phân tán ở nhiều người, chỉ mới là khả năng tiềm tàng, thì ở thiên tài là hiện thực. Hơn nữa, sức mạnh của thiên tài đi đôi với sức mạnh của tư tưởng. Thiên tài biểu lộ ở chỗ biết gắn chặt với thời đại, với nhân dân, ở chỗ diễn đạt được những nguyện vọng, những đòi hỏi sâu xa của thời đại, nhờ đó mà có tác dụng lớn đến sự phát triển của xã hội, của lịch sử.
Năng khiếu của nhà văn biểu lộ ở sự quan sát tinh vi, ở sự rung cảm nhạy bén, ở sự khám phá sắc sảo những quá trình của cuộc sống, ở sự nắm bắt những mối liên hệ ẩn kín của sự vật. Đặc trưng cao nhất của tài năng là tính sáng tạo. Nhưng sáng tạo không phải đi từ con số không mà chẳng qua chỉ làm “sáng” thêm cái gì đã được “tạo” ra ít nhiều rồi, tuy còn là mò mẫm, tản mạn hay bị che lấp. Mặt nổi bật của năng khiếu sáng tác là trí tưởng tượng phong phú. Nhưng tưởng tượng dù phóng khoáng đến đâu cũng đều bắt nguồn từ hiện thực, có vẽ rồng vẽ phượng cũng là dựa vào những sự vật vốn có trong cuộc sống thực. Tưởng tượng không phải xuất phát từ số không, có bay vút lên là cũng nhờ có điểm tựa từ kinh nghiệm, từ những điều thu thập trong thực tế đời sống. Hơn nữa, tưởng tượng dù sao cũng không phải là hoàn toàn vô tư, mà ít nhiều đều có định hướng, tâm trí hướng về đâu thì tưởng tượng thường là hoạt động, phát huy tác dụng theo chiều hướng đó. Nếu nhà văn cần có sự nhạy cảm của tâm hồn và của giác quan, thì tình cảm cách mạng chính là giúp nhà văn biết yêu biết ghét, thu nhận được nhiều ấn tượng, quan sát được nhiều, mở rộng tầm nhìn. Sáng mắt là nhờ sáng lòng cũng như sáng lòng là bởi sáng mắt. Có tâm hồn cách mạng mới nhập vào đời sống cách mạng, mới lắng nghe được, mới nhìn ra được những cái gì là đẹp, là hay, là mới trong đời sống Cách mạng. Trí nhớ cũng thế, nhớ nhiều, nhớ lâu là những cái gì đã làm mình xúc động sâu xa, là những gì thiết thân gần gũi với mình. Như thế, nghe thấy, ghi nhớ, tưởng tượng, nhập thân gắn liền với tâm hồn rộng mở, cảm thông, thiết tha với cuộc sống, với thế giới quan của nhà văn. Tính chất của thế giới quan tác dụng to lớn đối với tài năng nghệ sĩ.
Tóm lại, “Tôi không tin có cái “thiên tài” nào ở ngoài cái ổ của cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và đấu tranh đau khổ và vô cùng dũng cảm của muôn triệu con người làm nên lịch sử... Thiên tài là gì, nếu không phải là hương của hoa, núi của đất, là sự kết tụ ở mức độ nào đó trí tuệ của loài người ? Nghệ sĩ là con đẻ toàn diện của hoàn cảnh nó đã sống, như đứa con mang máu thịt và cả cái mùi riêng của mẹ. Con nào thì mùi của mẹ ấy, không lộn được. Con càng giống mẹ bao nhiêu thì mẹ càng yêu quý bấy nhiêu. Thiên tài đáng quý chính ở chỗ đó, ở chỗ nó tiêu biểu cho cái đẹp, cái hay của muôn triệu con người đã nuôi dưỡng nó”.
(Sưu tầm tổng hợp)
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: