Baivanhay Cảm nhận đoạn trích ''Cảnh ngày xuân'' của Nguyễn Du

Baivanhay Cảm nhận đoạn trích ''Cảnh ngày xuân'' của Nguyễn Du

Mùa xuân là một trong những khoảnh khắc kì diệu của đất trời báo hiệu sự đổi thay của không gian cảnh vật cũng như cuộc sống của con người. Đó là thời điểm trăm hoa đua nở cùng khoe sắc thắm, là khoảng không gian ngập tràn lễ hội văn hóa dân gian. Bởi vậy, mùa xuân trở thành chất xúc tác khơi gợi nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ. Nếu như Mãn Giác Thiền sư miêu tả mùa xuân trong sự vận động “Xuân khứ bách hoa lạc - Xuân đáo bách hoa khai” (Trích “Cáo tật thị chúng”) để nói về quy luật tuần hoàn bất biến của vũ trụ thì những câu thơ trong trích đoạn “Cảnh ngày xuân” lại đem đến một hương sắc mới qua cách cảm nhận mùa xuân trong bối cảnh không gian lễ hội. Bằng việc vận dụng những bút pháp quen thuộc trong thi pháp văn học trung đại như ước lệ tượng trưng, gợi nhiều hơn tả, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa một bức tranh xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống.


6532


Cảm nhận đoạn trích ''Cảnh ngày xuân'' của Nguyễn Du

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn"của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:

"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân "chim én”, "thiều quang"gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu trời, gợi ra một không gian, thoáng đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh"của cỏ non, sắc "trắng"của "một vài bông hoa"lác đác.

"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy nở. Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, không gian mênh mông, thoáng đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo "Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh "phương thảo"( cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng "cỏ non"thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó điểm xuyết sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ "trắng"được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ "điểm"làm cho cảnh vật trở nên có hồn, sinh động chứ không tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khôi mãi để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du, đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội tưng bừng, náo nhiệt:

"Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”

Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất, Còn "hội đạp thanh"là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi tả không khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy "nô nức”, "dập dìu""sắm sửa"và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, "giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe""gần xa”, "yến anh"kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.
6533

"Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Lễ thanh minh – lễ hội điển hình vào tháng ba, từng đôi lứa "tài tử giai nhân""dập dìu"du xuân, gặp gỡ hò hẹn. Trong dòng người “nô nức"đó có ba chị em Thúy Kiều cũng sắm sửa hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị "ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim hoàng anh ríu rít bay về hội tụ trong lễ hội. Tác giả còn miêu tả một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Việt nam chúng ta trong ngày Tết thanh minh. Đó là sắc thỏi vàng, đốt giấy tiền để tưởng nhớ người thân đã khuất.

Nhịp điệu thơ 2/4 và 4/4 thoáng ra một nét buồn. Phải chăng đó là trái tim đầy tình thương sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du đối với những người đã khuất. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian, đầy ắp nghĩa tình. Dưới ngòi bút miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết thanh minh là một sự giao hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.


Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Hội tan sao chẳng buồn? có thể nói sáu câu trên đã diễn tả sâu sắc cảnh chị em Thúy Kiều trên đường trở về với một khung cảnh yên ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Cảnh mang nét thanh thanh, dìu dịu của buổi chiều xuân với nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu bắc ngang như nhuộm màu tâm trạng. Bóng dương đã chênh chếch xế tà, "tà tà"bóng ngả về tây"nhưng đây không phải là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm vào cảm giác bâng khuâng, khó tả. Buổi chiều tà thường gợi lên một cảm giác buồn khó tả. Ở đây, cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã hết, tâm hồn con người cũng "chuyển điệu"cùng cảnh vật, Dưới cái tài miêu tả của Nguyễn Du, không khí lễ hội lúc tan không ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh ịu, lặng lẽ mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân thơ thẩn trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu, đa cảm bằng hàng loạt các từ láy "tà tà”, "thanh thanh”, "nao nao""nho nhỏ"vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Và đúng như vậy, Thúy Kiều đã gặp nấm mồ bất hạnh "Đạm Tiên"– một ca nhi tài sắc mà mệnh yểu và cả sự ngẫu nhiên gặp chàng nho sinh "phong tư tài mạo tót vời”- Kim Trọng, để rồi "tình trong như đã mặt ngoài còn e"như một định mệnh tiền duyên, rõ ràng cảnh đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật. Như vậy sáu câu thơ cuối của đoạn trích với việc sử dụng từ láy đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình- cảnh gắn với tình – cảnh tình tương hợp đã làm cho lòng người hòa vào cảnh vật như đang lắng lại cùng cảnh vật. Từ đó, ta thấy được tâm trạng nhạy cảm cùng niềm vui cuộc sống của tác giả.

Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã hết hết lòng tâm huyết vẽ nên bức tranh về mùa xuân thật đẹp, có hồn và độc đáo. Chính tình yêu thiên nhiên đất nước con người đã tạo nên nguồn cảm hứng để ông say sưa với đời, lưu giữ trong khi tàng thi ca Việt Nam một bức tranh mùa xuân thật đặc biệt.

Xem thêm: Các bài văn khác tại đây.
 
Sửa lần cuối:
Từ khóa
canh ngay xuan mùa xuân nguyen du thuy kieu tiết thanh minh
475
0
0

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top