Trong hệ thống các bộ môn nghệ thuật, văn học giữ một vị trí đặc biệt bởi đối tượng phản ánh của nó vừa quen thuộc lại vừa có chiều sâu khó nắm bắt. Nếu mỹ thuật dùng đường nét và màu sắc để ghi lại hình ảnh của thế giới, âm nhạc gửi gắm cảm xúc qua âm thanh, thì văn học lại sử dụng ngôn từ - phương tiện tư duy trừu tượng nhưng đồng thời giàu sức gợi - để tái hiện đời sống. Việc nhận diện đặc trưng đối tượng của văn học do đó trở thành vấn đề cốt lõi trong nghiên cứu lý luận. Có thể nói: đối tượng của văn học chính là con người trong tính toàn vẹn xã hội, lịch sử, tâm lý, được phản ánh bằng hư cấu nghệ thuật chứ không sao chép nguyên trạng. Xung quanh hạt nhân này là nhiều tầng ý nghĩa mà ta cần phân tích sâu.
Thứ nhất, đối tượng của văn học là đời sống con người. Không một tác phẩm văn học nào tồn tại ngoài phạm vi đời sống, cho dù đó là truyện cổ tích với các phép màu hay tiểu thuyết giả tưởng với những thế giới xa lạ. Bản chất của văn học vẫn là khám phá, diễn đạt và lý giải con người: con người hành động, con người suy nghĩ, con người mơ ước, con người đau khổ và hạnh phúc. Nhà văn không phản ánh “cuộc sống” như một mớ sự kiện, mà phản ánh những quan hệ sống - quan hệ giữa người với người, giữa người với cộng đồng, giữa người với tự nhiên và chính bản thân mình. Ở điểm này, văn học bộc lộ thiên chức nhân văn sâu sắc: nó hướng đến những vấn đề của con người, vì con người và cho con người.
Thứ hai, đối tượng của văn học được nắm bắt thông qua lăng kính tư tưởng và cảm xúc của chủ thể sáng tạo. Khác với khoa học tìm kiếm cái phổ quát khách quan, văn học quan tâm đến cái chủ quan, cái được cảm nhận, nhưng lại có khả năng gây đồng cảm sâu rộng. Nhà văn quan sát đời sống không bằng đôi mắt “máy ảnh” lạnh lùng, mà bằng trái tim, kinh nghiệm, vốn văn hoá và sự nhạy cảm cá nhân. Nhờ vậy, đối tượng văn học dù quen thuộc, như những mối quan hệ gia đình, sự nghèo đói, khát vọng tự do, vẫn luôn hiện lên mới mẻ qua từng phong cách. Chẳng hạn, cùng viết về số phận người lao động, Nam Cao soi chiếu bằng triết lý nhân đạo sắc lạnh, còn Thạch Lam tiếp cận bằng rung cảm dịu dàng. Điều ấy cho thấy đối tượng của văn học luôn được “nhân hoá”: nó không tồn tại ngoài cảm hứng thẩm mỹ của người viết.
Thứ ba, đối tượng của văn học là đời sống đã được hư cấu, nghĩa là được tổ chức lại bằng tưởng tượng nghệ thuật. Đây là điểm phân biệt cơ bản giữa văn học và các ghi chép lịch sử hay báo chí. Văn học có nhiệm vụ diễn đạt cái “thật” nhưng không lệ thuộc vào sự thật cụ thể. Hư cấu cho phép nhà văn tái cấu trúc hiện thực theo các quy luật nghệ thuật, tạo ra những nhân vật mang tính khái quát, những tình huống giàu sức gợi, những không gian, thời gian có khả năng biểu đạt ý nghĩa vượt khỏi sự kiện đời thường. Chính nhờ hư cấu, đối tượng của văn học mở rộng vô hạn, nó có thể đi vào những miền sâu kín của ý thức và vô thức, có thể bước vào tương lai hay trở lại quá khứ hàng nghìn năm, có thể phóng chiếu những khả thể mà hiện thực chưa từng có.
Thứ tư, đối tượng của văn học không chỉ là con người cá nhân mà còn là con người trong quan hệ cộng đồng và trong bối cảnh lịch sử, văn hoá. Một nhân vật văn học, dù được xây dựng bằng tưởng tượng, vẫn mang dấu ấn của hoàn cảnh xã hội nơi nhân vật tồn tại. Chính vì vậy, văn học trở thành tấm gương phản chiếu những biến thiên lịch sử và những giá trị văn hoá của dân tộc. Đọc “Truyện Kiều”, ta không chỉ gặp chuyện tình của Thúy Kiều mà còn thấy cả một xã hội phong kiến nhiều bất công; đọc “Nỗi buồn chiến tranh”, ta không chỉ thấy tâm hồn Kiên mà còn cảm nhận những vết thương còn rỉ máu của một thế hệ. Ở đây, ta thấy đối tượng của văn học có tính hệ thống: con người được xem xét như một chỉnh thể gắn bó với môi trường xã hội, lịch sử cụ thể.
Thứ năm, đối tượng của văn học mang giá trị biểu tượng và phổ quát hoá. Một tác phẩm lớn bao giờ cũng vượt khỏi những khuôn khổ của thời đại để chạm vào giá trị phổ quát. Khi Nam Cao viết về Chí Phèo, ông không chỉ kể chuyện một nông dân bị tha hoá trong xã hội phong kiến mà còn đặt ra vấn đề muôn thuở: con người bị tước đoạt quyền làm người thì sẽ phản ứng ra sao? Khi Nguyễn Minh Châu xây dựng nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, ông không chỉ đề cập đến nhận thức nghề nghiệp của nghệ sĩ mà còn đặt câu hỏi về sự phức tạp của đời sống, rằng cái đẹp của nghệ thuật không bao giờ đủ để hiểu đầy đủ một số phận người. Vì vậy, đối tượng của văn học luôn vượt thoát khỏi các chi tiết cụ thể để trở thành những vấn đề nhân sinh có thể lay động bất kỳ ai.
Thứ sáu, đối tượng của văn học vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan thể hiện ở chỗ văn học phải phản ánh những quy luật, bản chất, chiều sâu thực tiễn. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị không chỉ là sản phẩm của cảm xúc tuỳ hứng mà phải chạm đến những chân lý đời sống. Tuy nhiên, tính khách quan ấy luôn được biểu đạt qua cái nhìn chủ quan của nghệ sĩ. Chính sự giao thoa này làm nên tính độc đáo của văn học, nó nói những điều mang nghĩa chân lý, nhưng bằng ngôn ngữ của cảm xúc và cá tính sáng tạo.
Cuối cùng, đối tượng của văn học được tiếp nhận không chỉ qua nội dung mà còn qua hình thức ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ không chỉ là công cụ chuyển tải ý nghĩa, mà còn là chất liệu thẩm mỹ tạo nên hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc. Do đó, đối tượng của văn học bao gồm cả thế giới hình tượng lẫn thế giới ngôn từ – hai lớp tồn tại gắn quyện vào nhau. Một nhà văn giỏi không chỉ có cái nhìn sắc sảo về đời sống mà còn phải có năng lực tổ chức ngôn từ thành cấu trúc nghệ thuật. Văn học vì vậy vừa phản ánh cuộc sống, vừa sáng tạo ra một thế giới mới thông qua kết cấu ngôn từ.
“Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm và tâm điểm của nó là con người" (Nguyễn Minh Châu). Lấy con người làm đối tượng, văn chương có một điểm tựa nhìn ra thế giới. Phản ánh hình tượng con người cũng là cách văn chương đối diện với những khía cạnh gai góc nhất của thế giới, vỗ về và x
oa dịu thế giới.
Thứ nhất, đối tượng của văn học là đời sống con người. Không một tác phẩm văn học nào tồn tại ngoài phạm vi đời sống, cho dù đó là truyện cổ tích với các phép màu hay tiểu thuyết giả tưởng với những thế giới xa lạ. Bản chất của văn học vẫn là khám phá, diễn đạt và lý giải con người: con người hành động, con người suy nghĩ, con người mơ ước, con người đau khổ và hạnh phúc. Nhà văn không phản ánh “cuộc sống” như một mớ sự kiện, mà phản ánh những quan hệ sống - quan hệ giữa người với người, giữa người với cộng đồng, giữa người với tự nhiên và chính bản thân mình. Ở điểm này, văn học bộc lộ thiên chức nhân văn sâu sắc: nó hướng đến những vấn đề của con người, vì con người và cho con người.
Thứ hai, đối tượng của văn học được nắm bắt thông qua lăng kính tư tưởng và cảm xúc của chủ thể sáng tạo. Khác với khoa học tìm kiếm cái phổ quát khách quan, văn học quan tâm đến cái chủ quan, cái được cảm nhận, nhưng lại có khả năng gây đồng cảm sâu rộng. Nhà văn quan sát đời sống không bằng đôi mắt “máy ảnh” lạnh lùng, mà bằng trái tim, kinh nghiệm, vốn văn hoá và sự nhạy cảm cá nhân. Nhờ vậy, đối tượng văn học dù quen thuộc, như những mối quan hệ gia đình, sự nghèo đói, khát vọng tự do, vẫn luôn hiện lên mới mẻ qua từng phong cách. Chẳng hạn, cùng viết về số phận người lao động, Nam Cao soi chiếu bằng triết lý nhân đạo sắc lạnh, còn Thạch Lam tiếp cận bằng rung cảm dịu dàng. Điều ấy cho thấy đối tượng của văn học luôn được “nhân hoá”: nó không tồn tại ngoài cảm hứng thẩm mỹ của người viết.
Thứ ba, đối tượng của văn học là đời sống đã được hư cấu, nghĩa là được tổ chức lại bằng tưởng tượng nghệ thuật. Đây là điểm phân biệt cơ bản giữa văn học và các ghi chép lịch sử hay báo chí. Văn học có nhiệm vụ diễn đạt cái “thật” nhưng không lệ thuộc vào sự thật cụ thể. Hư cấu cho phép nhà văn tái cấu trúc hiện thực theo các quy luật nghệ thuật, tạo ra những nhân vật mang tính khái quát, những tình huống giàu sức gợi, những không gian, thời gian có khả năng biểu đạt ý nghĩa vượt khỏi sự kiện đời thường. Chính nhờ hư cấu, đối tượng của văn học mở rộng vô hạn, nó có thể đi vào những miền sâu kín của ý thức và vô thức, có thể bước vào tương lai hay trở lại quá khứ hàng nghìn năm, có thể phóng chiếu những khả thể mà hiện thực chưa từng có.
Thứ tư, đối tượng của văn học không chỉ là con người cá nhân mà còn là con người trong quan hệ cộng đồng và trong bối cảnh lịch sử, văn hoá. Một nhân vật văn học, dù được xây dựng bằng tưởng tượng, vẫn mang dấu ấn của hoàn cảnh xã hội nơi nhân vật tồn tại. Chính vì vậy, văn học trở thành tấm gương phản chiếu những biến thiên lịch sử và những giá trị văn hoá của dân tộc. Đọc “Truyện Kiều”, ta không chỉ gặp chuyện tình của Thúy Kiều mà còn thấy cả một xã hội phong kiến nhiều bất công; đọc “Nỗi buồn chiến tranh”, ta không chỉ thấy tâm hồn Kiên mà còn cảm nhận những vết thương còn rỉ máu của một thế hệ. Ở đây, ta thấy đối tượng của văn học có tính hệ thống: con người được xem xét như một chỉnh thể gắn bó với môi trường xã hội, lịch sử cụ thể.
Thứ năm, đối tượng của văn học mang giá trị biểu tượng và phổ quát hoá. Một tác phẩm lớn bao giờ cũng vượt khỏi những khuôn khổ của thời đại để chạm vào giá trị phổ quát. Khi Nam Cao viết về Chí Phèo, ông không chỉ kể chuyện một nông dân bị tha hoá trong xã hội phong kiến mà còn đặt ra vấn đề muôn thuở: con người bị tước đoạt quyền làm người thì sẽ phản ứng ra sao? Khi Nguyễn Minh Châu xây dựng nhân vật Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, ông không chỉ đề cập đến nhận thức nghề nghiệp của nghệ sĩ mà còn đặt câu hỏi về sự phức tạp của đời sống, rằng cái đẹp của nghệ thuật không bao giờ đủ để hiểu đầy đủ một số phận người. Vì vậy, đối tượng của văn học luôn vượt thoát khỏi các chi tiết cụ thể để trở thành những vấn đề nhân sinh có thể lay động bất kỳ ai.
Thứ sáu, đối tượng của văn học vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan thể hiện ở chỗ văn học phải phản ánh những quy luật, bản chất, chiều sâu thực tiễn. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị không chỉ là sản phẩm của cảm xúc tuỳ hứng mà phải chạm đến những chân lý đời sống. Tuy nhiên, tính khách quan ấy luôn được biểu đạt qua cái nhìn chủ quan của nghệ sĩ. Chính sự giao thoa này làm nên tính độc đáo của văn học, nó nói những điều mang nghĩa chân lý, nhưng bằng ngôn ngữ của cảm xúc và cá tính sáng tạo.
Cuối cùng, đối tượng của văn học được tiếp nhận không chỉ qua nội dung mà còn qua hình thức ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ không chỉ là công cụ chuyển tải ý nghĩa, mà còn là chất liệu thẩm mỹ tạo nên hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc. Do đó, đối tượng của văn học bao gồm cả thế giới hình tượng lẫn thế giới ngôn từ – hai lớp tồn tại gắn quyện vào nhau. Một nhà văn giỏi không chỉ có cái nhìn sắc sảo về đời sống mà còn phải có năng lực tổ chức ngôn từ thành cấu trúc nghệ thuật. Văn học vì vậy vừa phản ánh cuộc sống, vừa sáng tạo ra một thế giới mới thông qua kết cấu ngôn từ.
“Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm và tâm điểm của nó là con người" (Nguyễn Minh Châu). Lấy con người làm đối tượng, văn chương có một điểm tựa nhìn ra thế giới. Phản ánh hình tượng con người cũng là cách văn chương đối diện với những khía cạnh gai góc nhất của thế giới, vỗ về và x
oa dịu thế giới.