Đại tá, nhà văn, nhà báo Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn (sinh năm 1958). Anh đã giành nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010, Giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 2003-2004, Giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1996, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Bộ Quốc phòng 5 năm (1999-2004). "Người ở bến sông Châu" là tác phẩm xuất sắc của Sương Nguyệt Minh được trích dạy trong sách Ngữ văn 10, Cánh Diều. Để hiểu hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này, VHT mời các em cùng xem bài soạn đầy đủ và chi tiết sau đây:
Ảnh sưu tầm
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Sương Nguyệt Minh tên khai sinh là Nguyễn Ngọc Sơn sinh năm 1958.
- Quê: xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ( chú ý sông Châu) .
- Gia đình: Nho học
- Bản thân: từng là một người lính. Ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến.
- Phong cách sáng tác:
+ Trong các sáng tác của ông, hình ảnh làng quê với những góc nhìn vừa hiện thực, vừa lãng mạn đan cài, soi chiếu vào nhau.
+ Phong cách lịch lãm, tài hoa, tinh tế trên mỗi trang văn của tác giả.
“Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người” (Nguyễn Hữu Đại)
+ Cảm xúc của Sương Nguyệt Minh được dồn nén chân thực, xúc động qua những mảnh đời, những thân phận éo le, ngang trái, những tình cảm trớ trêu, nghiệt ngã sau trận chiến. Nhà văn chú ý khai thác thân phận, trách nhiệm, tình yêu, bi kịch thời hậu chiến… thông qua những trang viết đầy ám ảnh và lôi cuốn, gửi đến độc giả những bức thông điệp thấm thía, sâu sắc về bài ca sức sống mãnh liệt của con người, về lòng nhân ái, niềm tin yêu và khát vọng sống trong an bình.
2. Tác phẩm
- Truyện ngắn Người về bến sông Châu được nhà văn Sương Nguyệt Minh sáng tác năm 1997.
- Truyện ngắn đã được chuyển thể thành phim có tên “Người trở về”.
- Tóm tắt truyện: Tác phẩm kể về sự bất hạnh mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975. Trong chiến tranh, cô Mây là nữ y tá dũng cảm. Hòa bình lập lại, cô trở về nhà thì thấy bản thân bị gọi là liệt sĩ, người yêu cũ tưởng cô đã hy sinh nên đi lấy vợ. Chịu đựng vết thương từ chiến trường, cô lại nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới. Mây sống lặng lẽ trong nỗi cô đơn ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò, chở đám bạn của Mai đi học, nhận làm y tá ở trạm xá xã, nhận đỡ đẻ cho cô Thanh trong tình huống nguy kịch, cứu được cả hai mẹ con cô. Thím Ba chết vì vướng bom bị, dì Mây lại nhận nuôi bé Cún, dì gặp lại chú Quang - người thương binh dì cứu ở chiến trường. Kết thúc truyện là sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây.
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Các sự kiện chính
- Phần 1: từ đầu đến “dì ngồi như tượng”.
=> Dì Mây về làng đúng ngày chú San – người yêu cũ lấy vợ ( tâm trạng ngổn ngang, giằng xé của dì Mây, chú San và những người thân trong gia đình)
- Phần 2: từ “Sáng” đến “Sóng nước lao xao”
=> Dì Mây ra sống ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò (tâm trạng buồn tủi của dì Mây, sự quan tâm và tình cảm của mẹ và Mai đối với dì Mây)
- Phần 3: từ “Làng xây trạm xá mới.” đến “con đường về bến”
=> Dì Mây trở lại với nghề y tá, làm việc ở trạm xá xã; cô Thanh vợ chú San đẻ khó, suýt chết, dì Mây đỡ đẻ, cứu sống cả hai mẹ con.
- Phần 4: từ “Tháng Ba lại về.” đến hết.
=> Thím Ba chết vì vướng bom bi, dì Mây nhận nuôi thằng Cún con thím Ba; dì Mây gặp lại chú Quang – người thương binh năm xưa nay về chỉ huy công binh xây cầu qua bến sông Châu, dì Mây từ chối tình cảm của chú Quang; hằng đêm, tiếng dì Mây ru thằng Cún lan xa, vang vọng trên bến sông Châu.
2. Nhân vật trung tâm và mối quan hệ giữa các nhân vật
- Nhân vật trung tâm: dì Mây
+ Đây là nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối truyện, thường xuyên có mặt ở hầu hết các sự kiện
+ Qua nhân vật, tác giả tập trung bộc lộ rõ nét khác biệt, độc đáo của chiến tranh Việt Nam và chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
- Mối quan hệ giữa các nhân vật
Sơ đồ dựa trên 2 trục:
+ Trục dọc gồm các nhân vật ông, bố, mẹ, Mai, dì Mây, thím ba, thằng Cún - thể hiện mối quan hệ gia đình, ruột thịt.
+ Trục ngang gồm các nhân vật chú San, cô Thanh, dì Mây, chú Quang - thể hiện quan hệ tình yêu, tình nghĩa, tình đồng đội.
=> Tác giả thể hiện rõ tính cách kiên cường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh nói riêng, của người phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh nói chung.
(Có thể liên hệ các hình tượng thông thường là người lính (nam) trở về thì người yêu đi lấy chồng. Trong truyện này lại là nhân vật nữ - dì Mây, trước xinh đẹp, trẻ trung, nay thân thể thương tật, lại phải đối mặt với tình huống éo le và đau đớn – người yêu cũ lấy vợ => để khắc họa đậm hơn tính cách và phẩm chất nhân vật.
3. Hình tượng nhân vật dì Mây
a. Sự kiện 1: Dì Mây khoác ba lô về làng cũng là ngày cưới của chú San - người yêu cũ
- Tâm trạng của dì Mây
+ Gặp bố ở bến sông (giọng nói: nghèn nghẹn; hành động: nhào xuống đò)
=> Xúc động nghẹn ngào khi được trở về quê hương,
+ “Dì Mây miễn cưỡng trả lời, bụng dạ cứ để bên nhà chú San.
=> tâm trạng ngổn ngang, tan nát.
+ Cuộc đối thoại giữa dì Mây và chú San:
Chú San luôn nhận lỗi về phía mình, dì Mây từ chối. Cuộc đối thoại diễn ra chóng vánh nhưng người đọc có thể cảm nhận rõ sự đau khổ trong tâm trạng của hai nhân vật. Dì Mây nuốt nước mắt vào trong “Bây giờ không còn gì để nói nữa. Anh về đi!”; “Dì chống nạng gỗ, lộc cộc bỏ ra ngoài ngõ” từ uất ức, tức tưởi đến hờn trách (“Hôm nay là ngày gì? Anh nhớ không? Có ngờ đâu ngày ấy tiễn anh đi cũng là ngày li biệt”. Dì Mây cùng sống lại hồi ức ở Trường Sơn, tình cảm yêu thương sâu nặng bùng lên cồn cào, da diết làm cho nhân vật như mê mị đi (Dì Mây lặng đi, người rũ ra, mềm oặt. Dì từ từ khuỵu xuống.
+ Khi chú San muốn cùng dì quay lại sống với nhau.
Dì quyết định dứt khoát: “Không! ” Chú San chạy theo níu áo dì Mây. Dì đứng lại, thở hổn hển: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!”; “Anh đừng lo cho tôi.” Dì thở dài đánh thượt: “Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn.” Quyết định tỉnh táo, bản lĩnh, không muốn cô Thanh lại chịu khổ, khuyên chú San sống cho vuông tròn, có tình nghĩa, có trước có sau.
=>Tình huống éo le cho thấy dì Mây và chú San đều là nạn nhân của chiến tranh. Dì Mây đã chịu bao đau đớn cả về thân thể và tinh thần song dì đã cố gắng vượt lên bằng ý chí mạnh mẽ, bản lĩnh vững vàng. Dì có tình cảm da diết, sâu nặng, có lòng nhân hậu sâu sắc, luôn vị tha, biết hi sinh vì người khác.
b. Sự kiện 2: dì Mây ra sống ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò.
- Dì Mây ra sống với lều cỏ vì nhà chú San ngay sát nhà dì, dì vẫn còn nặng tình với chú San, không thể không đau khổ khi hàng ngày phải chứng kiến cảnh trớ trêu: vợ chồng chú San như đôi chim cu.
- Mái tóc của dì Mây trước đây:
+ Tóc dài (phải đứng lên ghế để chải tóc), đen óng mượt.
+ Tóc bồng bềnh như mây.
- Mái tóc của dì Mây bây giờ: tóc rụng nhiều, xơ và thưa.
=> Nguyên nhân do dì Mây đi bộ đội, đối mặt với những khó khăn, bom đạn, dịch bệnh nơi chiến trường. Từ đó, người đọc càng cảm nhận rõ hơn hậu quả của chiến tranh gây ra cho con người và sự thiệt thòi cho người con gái.
- Buồn, tha thẩn đi ra đi vào, có hôm bỏ bữa, lúc ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm. Cuộc sống quẩn quanh.
=> Nỗi cô đơn và đau khổ giày vò.
- Dì đã cố gắng vượt lên, phụ ông chèo đò, chở lũ bạn Mai đi học, dì không lấy tiền đò.
=> Thương lũ trẻ, tấm lòng nhân hậu.
+ Đôi lúc, thấy dì Mây chợt cười nhưng khi nghe lũ trẻ nhắc đến chuyện lấy chồng, dì lại thoáng buồn.
=> Nỗi đau khổ vẫn giày vò, tủi phận.
- Tóc dì mọc thêm, da hồng hào trở lại. Đêm trăng sáng, dì Mây và Mai xuống bến sông tắm, vẻ đẹp của dì Mây dưới ánh trăng lấp lóa trên sông, quẫy nước bằng một chân còn lại.
=> Cho thấy những mất mát tuổi trẻ và sự hồi sinh của nhân vật. Dì Mây đã dần chấp nhận sự thật mất mát và dần vượt lên để sống có ý nghĩa.
c. Sự kiện 3: Dì Mây trở lại với nghề y tá, làm việc ở trạm xá xã, dì Mây đỡ đẻ cho cô Thanh - vợ chú San, cứu sống cả hai mẹ con.
- Không gian: Đêm mưa gió dầm dề, đò ngang cách trở
- Tình huống: cô Thanh vượt cạn, thai ngôi ngược, đường lên huyện xa lắc- tình huống nguy hiểm đến tính mạng.
- Các nhân vật:
+ Cô Thanh đuối dần, không còn sức rặn, một hai phần sống, tám chín phần chết.
+ Chú San dở khóc dở mếu.
+ Thím Ba: khuyên can lo cho dì Mây( lại gặp vạ, dễ bị hiểu lầm).
+ Dì Mây: cuộc đấu tranh trong nội tâm thoáng qua: Từ chối thẳng không nhận; do dự nên hay không nên vì có khi vạ lây nhưng rồi quyết định dứt khoát: đỡ đẻ cho cô Thanh, cứu được cả hai mẹ con.
- Kết thúc: tiếng trẻ con oe oe, chú San bên cạnh vợ, dì Mây bước cao, bước thấp phía cuối con đường.
- Qua tình huống thấy được phẩm chất của nhân vật dì Mây:
+ Dì Mây không toan tính ích kỉ chỉ biết lo an toàn của bản thân mà can đảm, tự tin, tận tâm hết sức vì người khác, dù người đó là vợ của chính người yêu cũ của mình … Với tấm lòng nhân hậu cao cả hiếm có đó, dì Mây đã giúp cô Thanh sinh nở mẹ tròn, con vuông.
+ Sự lựa chọn, quyết định và hành động của dì Mây cho thấy phẩm chất đẹp đẽ của nhân vật: có bản lĩnh vững vàng, vượt lên tình cảm riêng tư, hoàn thành bổn phận, nghĩa vụ đạo đức tốt đẹp của người làm nghề y.
+ Sau khi cứu được cả hai mẹ con, dì Mây gục luôn xuống bàn, khóc tức tưởi: điều đó cho thấy không chỉ có bản lĩnh gang thép, dì còn rất nữ tính, rất phụ nữ, rất đời thường. Tiếng khóc của niềm vui khi đã cứu sống được hai mẹ con cô Thanh, tiếng khóc buồn tủi vì thân phận éo le, trớ trêu của mình, tiếng khóc của nỗi khao khát được làm mẹ, khao khát hạnh phúc.
=> Dì Mây thật đáng khâm phục biết bao. Đó là phẩm chất đẹp đẽ của nữ thương binh thầm lặng hi sinh, vượt qua nghịch cảnh, vươn lên làm người có ích với cuộc đời.
d. Sự kiện 4. Thím Ba chết vì vướng bom bi, dì Mây nhận nuôi thằng Cún con thím Ba; dì Mây gặp lại chú Quang – người thương binh năm xưa.
- Thím Ba bị vướng bom bi chết, thằng Cún mồ côi mẹ cho thấy chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn còn rất nặng nề, dai dẳng. Mỗi người chúng ta cần sống bản lĩnh, can đảm đối mặt và sẵn sàng vượt qua những những tình huống khó khăn, nan giải trong cuộc sống và hãy quan tâm hơn đến những con người đã và đang chịu bao nỗi đau mất mát vì chiến tranh.
- Dì Mây quyết định nuôi bé Cún một lần nữa cho thấy tấm lòng nhân hậu tuyệt vời hiếm có của dì. Dì sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, tìm được niềm vui và ý nghĩa cuộc đời khi biết giúp đỡ những hoàn cảnh éo le, bất hạnh.
- Sự xuất hiện của nhân vật chú Quang cùng với tình yêu và lòng biết ơn của chú Quang càng giúp ta hiểu thêm về bản lĩnh và hi sinh thầm lặng của dì Mây trong và sau chiến tranh.
- Đoạn văn cuối: cảnh bầu trời, đêm sông Châu vào cuối thu bí ẩn, huyền diệu, buồn mà đẹp, bộc lộ tâm trạng, tình cảm gắn bó tha thiết của nhân vật đối với làng quê bên bến sông Châu.
- Tiếng ru của dì Mây thay đổi: tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những tình huống trớ trêu của số phận nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và vượt lên, tìm thấy ý nghĩa đời mình khi biết giúp đỡ người khác và làm những việc có ích cho cuộc đời.
=> Nhận xét chung về cuộc đời và tính cách của dì Mây: chiến tranh đã lấy đi của dì tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu, thân thể bị thương tật, ra khỏi cuộc chiến còn gặp tình huống trớ trêu éo le song với bản lĩnh phi thường, với tấm lòng nhân hậu cao cả và sự hi sinh thầm lặng, dì Mây đã vượt lên để thực sự sống có ích cho cuộc đời.
4. Đặc sắc nghệ thuật của truyện
- Bút pháp miêu tả (tả cảnh và diễn biến tâm lí các nhân vật) của tác giả trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu
- Câu chuyện diễn ra trong những không gian và thời gian nào? Tìm hiểu ý nghĩa của những hình ảnh dòng sông, con đò, cây cầu xuất hiện trong truyện.
- Nhận xét về điểm nhìn trần thuật và người kể chuyện trong văn bản.
- Tả cảnh sống động; chọn đặc tả những cảnh nhằm ngụ ý hoặc chuẩn bị cho việc bộc lộ tâm trạng nhân vật: cảnh đám rước dâu qua sông, cảnh bến sông Châu lúc chập tối như báo hiệu tình huống trớ trêu, sóng gió sắp xảy ra. Cảnh đám cưới bên nhà chú San được tả sống động, hồi hộp, kịch tính; cảnh bến sông Châu mênh mang thời chiến tranh qua hồi tưởng của nhân vật đậm màu sắc sử thi, lãng mạn (đoạn 1); cảnh bầu trời, đêm sông Châu vào cuối thu bí ẩn, huyền diệu, buồn đẹp, bộc lộ tâm trạng, tình cảm gắn bó tha thiết của nhân vật đối với làng quê bên bến sông Châu (đoạn 4).
- Tả diễn biến tâm lý: diễn tả tâm lí cha con gặp nhau ở bến sông Châu giàu tính tạo hình, có sức gợi và gây xúc động; diễn tả tâm lí nhân vật San và Mây lúc gặp nhau có sự đa dạng về cung bậc tình cảm, rất hồi hộp, kịch tính: lúc đau khổ, uất ức, lúc như mê lịm đi, lúc bừng tỉnh, lúc nhớ thương da diết, cồn cào; lúc tỉnh táo, cương quyết.
- Câu chuyện diễn ra ở 2 không gian chính: không gian sinh hoạt gia đình (nhà ông ngoại và nhà chú San), không gian sông nước (bến sông - lều cỏ). Không gian nhà ông ngoại được tập trung thể hiện trong đoạn 1, ngày dì Mây về làng; không gian nhà chú San được đặc tả ở đoạn 3 gắn với việc sinh nở của cô Thanh. Không gian bến sông - lều cỏ chủ yếu nổi bật ở đoạn 2 và 4. Trong đoạn 4, không gian chiến trường cũng được gợi nhắc qua lời kể của công binh xây cầu.
Chuyện diễn ra trong thời gian: ngày đầu tiên dì Mây trở về sau chiến tranh; những ngày tháng dì Mây sống ở bến sông Châu (chèo đò chở học sinh qua sông, làm ý tá ở trạm xá, nuôi nấng thằng Cún). Thời gian tuyến tính được xen kẽ bởi những khoảng thời gian quá khứ được gợi lại qua các hồi ức, đối thoại (nhan sắc, tình yêu của dì Mây và chú San trước chiến tranh, tình huống dì Mây bị thương ngoài mặt trận vì che chắn cho thương binh Quang).
- Tác giả miêu tả một số hình ảnh như dòng sông, con đò, cây cầu… vừa có nghĩa thực vừa mang tính ẩn dụ, biểu tượng. Dòng sông gợi lên ý nghĩa về dòng đời bí ẩn, nhiều biến động, sóng gió (như tình yêu của dì Mây và chú San), nhiều hoàn cảnh trớ trêu, đau khổ (như cuộc đời dì Mây, thím Ba, thằng Cún); con đò là hình ảnh tượng trưng cho thân phận con người (dì mây “lỡ đò”), cho sự chia li, sự chuyên chở, nâng đỡ (dì Mây chèo đò đưa chú San đi học nước ngoài, dì Mây hào phóng đưa học sinh qua sông, dì Mây đỡ đẻ cho cô Thanh); cây cầu là hình ảnh tượng trưng cho chiến tranh phá hoại ;cho sự kiến thiết, xây dựng , cho sự hàn gắn, kết nối, nghĩa tình (kết nối giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa tình giữa dì Mây và thằng Cún, dì Mây và chú Quang), …
- Điểm nhìn: người kể chuyện có khả năng di chuyển điểm nhìn linh hoạt, từ điểm nhìn bên ngoài (kể những điều nhân vật không thấy, không biết) sang điểm nhìn bên trong (kể thông qua cảm nhận, suy nghĩ của nhân vật Mai) và ngược lại.
- Người kể chuyện có khả năng thâm nhập vào đời sống nội tâm phức tạp của các nhân vật (Mây, San, Mai, người ông), thường xuyên mượn vị trí quan sát, thái độ, cảm nhận của nhân vật Mai để kể chuyện. Bằng cách này, điểm nhìn nghệ thuật có sự chuyển đổi linh hoạt giúp người đọc biết được nhiều thông tin hơn, rõ hơn về nhân vật dì Mây, San và các sự việc có liên quan.
III. Tổng kết
- Truyện kể và ca ngợi về sự hi sinh thầm lặng, bản lĩnh phi thường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh dì Mây cả trong và sau chiến tranh.
- Người phụ nữ ấy không gục ngã vì hai lần đau đớn, vì sự trớ trêu của số phận. Bằng bản lĩnh, nghị lực phi thường, chị đã hòa nhập vào đời sống, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm mới, sống nghĩa tình, nhân hậu, yêu thương giữa cuộc đời.
1. Tác giả
- Sương Nguyệt Minh tên khai sinh là Nguyễn Ngọc Sơn sinh năm 1958.
- Quê: xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ( chú ý sông Châu) .
- Gia đình: Nho học
- Bản thân: từng là một người lính. Ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến.
- Phong cách sáng tác:
+ Trong các sáng tác của ông, hình ảnh làng quê với những góc nhìn vừa hiện thực, vừa lãng mạn đan cài, soi chiếu vào nhau.
+ Phong cách lịch lãm, tài hoa, tinh tế trên mỗi trang văn của tác giả.
“Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người” (Nguyễn Hữu Đại)
+ Cảm xúc của Sương Nguyệt Minh được dồn nén chân thực, xúc động qua những mảnh đời, những thân phận éo le, ngang trái, những tình cảm trớ trêu, nghiệt ngã sau trận chiến. Nhà văn chú ý khai thác thân phận, trách nhiệm, tình yêu, bi kịch thời hậu chiến… thông qua những trang viết đầy ám ảnh và lôi cuốn, gửi đến độc giả những bức thông điệp thấm thía, sâu sắc về bài ca sức sống mãnh liệt của con người, về lòng nhân ái, niềm tin yêu và khát vọng sống trong an bình.
2. Tác phẩm
- Truyện ngắn Người về bến sông Châu được nhà văn Sương Nguyệt Minh sáng tác năm 1997.
- Truyện ngắn đã được chuyển thể thành phim có tên “Người trở về”.
- Tóm tắt truyện: Tác phẩm kể về sự bất hạnh mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975. Trong chiến tranh, cô Mây là nữ y tá dũng cảm. Hòa bình lập lại, cô trở về nhà thì thấy bản thân bị gọi là liệt sĩ, người yêu cũ tưởng cô đã hy sinh nên đi lấy vợ. Chịu đựng vết thương từ chiến trường, cô lại nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới. Mây sống lặng lẽ trong nỗi cô đơn ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò, chở đám bạn của Mai đi học, nhận làm y tá ở trạm xá xã, nhận đỡ đẻ cho cô Thanh trong tình huống nguy kịch, cứu được cả hai mẹ con cô. Thím Ba chết vì vướng bom bị, dì Mây lại nhận nuôi bé Cún, dì gặp lại chú Quang - người thương binh dì cứu ở chiến trường. Kết thúc truyện là sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây.
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Các sự kiện chính
- Phần 1: từ đầu đến “dì ngồi như tượng”.
=> Dì Mây về làng đúng ngày chú San – người yêu cũ lấy vợ ( tâm trạng ngổn ngang, giằng xé của dì Mây, chú San và những người thân trong gia đình)
- Phần 2: từ “Sáng” đến “Sóng nước lao xao”
=> Dì Mây ra sống ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò (tâm trạng buồn tủi của dì Mây, sự quan tâm và tình cảm của mẹ và Mai đối với dì Mây)
- Phần 3: từ “Làng xây trạm xá mới.” đến “con đường về bến”
=> Dì Mây trở lại với nghề y tá, làm việc ở trạm xá xã; cô Thanh vợ chú San đẻ khó, suýt chết, dì Mây đỡ đẻ, cứu sống cả hai mẹ con.
- Phần 4: từ “Tháng Ba lại về.” đến hết.
=> Thím Ba chết vì vướng bom bi, dì Mây nhận nuôi thằng Cún con thím Ba; dì Mây gặp lại chú Quang – người thương binh năm xưa nay về chỉ huy công binh xây cầu qua bến sông Châu, dì Mây từ chối tình cảm của chú Quang; hằng đêm, tiếng dì Mây ru thằng Cún lan xa, vang vọng trên bến sông Châu.
2. Nhân vật trung tâm và mối quan hệ giữa các nhân vật
- Nhân vật trung tâm: dì Mây
+ Đây là nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối truyện, thường xuyên có mặt ở hầu hết các sự kiện
+ Qua nhân vật, tác giả tập trung bộc lộ rõ nét khác biệt, độc đáo của chiến tranh Việt Nam và chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
- Mối quan hệ giữa các nhân vật
Sơ đồ dựa trên 2 trục:
+ Trục dọc gồm các nhân vật ông, bố, mẹ, Mai, dì Mây, thím ba, thằng Cún - thể hiện mối quan hệ gia đình, ruột thịt.
+ Trục ngang gồm các nhân vật chú San, cô Thanh, dì Mây, chú Quang - thể hiện quan hệ tình yêu, tình nghĩa, tình đồng đội.
=> Tác giả thể hiện rõ tính cách kiên cường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh nói riêng, của người phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh nói chung.
(Có thể liên hệ các hình tượng thông thường là người lính (nam) trở về thì người yêu đi lấy chồng. Trong truyện này lại là nhân vật nữ - dì Mây, trước xinh đẹp, trẻ trung, nay thân thể thương tật, lại phải đối mặt với tình huống éo le và đau đớn – người yêu cũ lấy vợ => để khắc họa đậm hơn tính cách và phẩm chất nhân vật.
3. Hình tượng nhân vật dì Mây
a. Sự kiện 1: Dì Mây khoác ba lô về làng cũng là ngày cưới của chú San - người yêu cũ
- Tâm trạng của dì Mây
+ Gặp bố ở bến sông (giọng nói: nghèn nghẹn; hành động: nhào xuống đò)
=> Xúc động nghẹn ngào khi được trở về quê hương,
+ “Dì Mây miễn cưỡng trả lời, bụng dạ cứ để bên nhà chú San.
=> tâm trạng ngổn ngang, tan nát.
+ Cuộc đối thoại giữa dì Mây và chú San:
Chú San luôn nhận lỗi về phía mình, dì Mây từ chối. Cuộc đối thoại diễn ra chóng vánh nhưng người đọc có thể cảm nhận rõ sự đau khổ trong tâm trạng của hai nhân vật. Dì Mây nuốt nước mắt vào trong “Bây giờ không còn gì để nói nữa. Anh về đi!”; “Dì chống nạng gỗ, lộc cộc bỏ ra ngoài ngõ” từ uất ức, tức tưởi đến hờn trách (“Hôm nay là ngày gì? Anh nhớ không? Có ngờ đâu ngày ấy tiễn anh đi cũng là ngày li biệt”. Dì Mây cùng sống lại hồi ức ở Trường Sơn, tình cảm yêu thương sâu nặng bùng lên cồn cào, da diết làm cho nhân vật như mê mị đi (Dì Mây lặng đi, người rũ ra, mềm oặt. Dì từ từ khuỵu xuống.
+ Khi chú San muốn cùng dì quay lại sống với nhau.
Dì quyết định dứt khoát: “Không! ” Chú San chạy theo níu áo dì Mây. Dì đứng lại, thở hổn hển: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!”; “Anh đừng lo cho tôi.” Dì thở dài đánh thượt: “Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn.” Quyết định tỉnh táo, bản lĩnh, không muốn cô Thanh lại chịu khổ, khuyên chú San sống cho vuông tròn, có tình nghĩa, có trước có sau.
=>Tình huống éo le cho thấy dì Mây và chú San đều là nạn nhân của chiến tranh. Dì Mây đã chịu bao đau đớn cả về thân thể và tinh thần song dì đã cố gắng vượt lên bằng ý chí mạnh mẽ, bản lĩnh vững vàng. Dì có tình cảm da diết, sâu nặng, có lòng nhân hậu sâu sắc, luôn vị tha, biết hi sinh vì người khác.
b. Sự kiện 2: dì Mây ra sống ở lều cỏ bên bến sông Châu, phụ giúp ông chèo đò.
- Dì Mây ra sống với lều cỏ vì nhà chú San ngay sát nhà dì, dì vẫn còn nặng tình với chú San, không thể không đau khổ khi hàng ngày phải chứng kiến cảnh trớ trêu: vợ chồng chú San như đôi chim cu.
- Mái tóc của dì Mây trước đây:
+ Tóc dài (phải đứng lên ghế để chải tóc), đen óng mượt.
+ Tóc bồng bềnh như mây.
- Mái tóc của dì Mây bây giờ: tóc rụng nhiều, xơ và thưa.
=> Nguyên nhân do dì Mây đi bộ đội, đối mặt với những khó khăn, bom đạn, dịch bệnh nơi chiến trường. Từ đó, người đọc càng cảm nhận rõ hơn hậu quả của chiến tranh gây ra cho con người và sự thiệt thòi cho người con gái.
- Buồn, tha thẩn đi ra đi vào, có hôm bỏ bữa, lúc ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm. Cuộc sống quẩn quanh.
=> Nỗi cô đơn và đau khổ giày vò.
- Dì đã cố gắng vượt lên, phụ ông chèo đò, chở lũ bạn Mai đi học, dì không lấy tiền đò.
=> Thương lũ trẻ, tấm lòng nhân hậu.
+ Đôi lúc, thấy dì Mây chợt cười nhưng khi nghe lũ trẻ nhắc đến chuyện lấy chồng, dì lại thoáng buồn.
=> Nỗi đau khổ vẫn giày vò, tủi phận.
- Tóc dì mọc thêm, da hồng hào trở lại. Đêm trăng sáng, dì Mây và Mai xuống bến sông tắm, vẻ đẹp của dì Mây dưới ánh trăng lấp lóa trên sông, quẫy nước bằng một chân còn lại.
=> Cho thấy những mất mát tuổi trẻ và sự hồi sinh của nhân vật. Dì Mây đã dần chấp nhận sự thật mất mát và dần vượt lên để sống có ý nghĩa.
c. Sự kiện 3: Dì Mây trở lại với nghề y tá, làm việc ở trạm xá xã, dì Mây đỡ đẻ cho cô Thanh - vợ chú San, cứu sống cả hai mẹ con.
- Không gian: Đêm mưa gió dầm dề, đò ngang cách trở
- Tình huống: cô Thanh vượt cạn, thai ngôi ngược, đường lên huyện xa lắc- tình huống nguy hiểm đến tính mạng.
- Các nhân vật:
+ Cô Thanh đuối dần, không còn sức rặn, một hai phần sống, tám chín phần chết.
+ Chú San dở khóc dở mếu.
+ Thím Ba: khuyên can lo cho dì Mây( lại gặp vạ, dễ bị hiểu lầm).
+ Dì Mây: cuộc đấu tranh trong nội tâm thoáng qua: Từ chối thẳng không nhận; do dự nên hay không nên vì có khi vạ lây nhưng rồi quyết định dứt khoát: đỡ đẻ cho cô Thanh, cứu được cả hai mẹ con.
- Kết thúc: tiếng trẻ con oe oe, chú San bên cạnh vợ, dì Mây bước cao, bước thấp phía cuối con đường.
- Qua tình huống thấy được phẩm chất của nhân vật dì Mây:
+ Dì Mây không toan tính ích kỉ chỉ biết lo an toàn của bản thân mà can đảm, tự tin, tận tâm hết sức vì người khác, dù người đó là vợ của chính người yêu cũ của mình … Với tấm lòng nhân hậu cao cả hiếm có đó, dì Mây đã giúp cô Thanh sinh nở mẹ tròn, con vuông.
+ Sự lựa chọn, quyết định và hành động của dì Mây cho thấy phẩm chất đẹp đẽ của nhân vật: có bản lĩnh vững vàng, vượt lên tình cảm riêng tư, hoàn thành bổn phận, nghĩa vụ đạo đức tốt đẹp của người làm nghề y.
+ Sau khi cứu được cả hai mẹ con, dì Mây gục luôn xuống bàn, khóc tức tưởi: điều đó cho thấy không chỉ có bản lĩnh gang thép, dì còn rất nữ tính, rất phụ nữ, rất đời thường. Tiếng khóc của niềm vui khi đã cứu sống được hai mẹ con cô Thanh, tiếng khóc buồn tủi vì thân phận éo le, trớ trêu của mình, tiếng khóc của nỗi khao khát được làm mẹ, khao khát hạnh phúc.
=> Dì Mây thật đáng khâm phục biết bao. Đó là phẩm chất đẹp đẽ của nữ thương binh thầm lặng hi sinh, vượt qua nghịch cảnh, vươn lên làm người có ích với cuộc đời.
d. Sự kiện 4. Thím Ba chết vì vướng bom bi, dì Mây nhận nuôi thằng Cún con thím Ba; dì Mây gặp lại chú Quang – người thương binh năm xưa.
- Thím Ba bị vướng bom bi chết, thằng Cún mồ côi mẹ cho thấy chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn còn rất nặng nề, dai dẳng. Mỗi người chúng ta cần sống bản lĩnh, can đảm đối mặt và sẵn sàng vượt qua những những tình huống khó khăn, nan giải trong cuộc sống và hãy quan tâm hơn đến những con người đã và đang chịu bao nỗi đau mất mát vì chiến tranh.
- Dì Mây quyết định nuôi bé Cún một lần nữa cho thấy tấm lòng nhân hậu tuyệt vời hiếm có của dì. Dì sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, tìm được niềm vui và ý nghĩa cuộc đời khi biết giúp đỡ những hoàn cảnh éo le, bất hạnh.
- Sự xuất hiện của nhân vật chú Quang cùng với tình yêu và lòng biết ơn của chú Quang càng giúp ta hiểu thêm về bản lĩnh và hi sinh thầm lặng của dì Mây trong và sau chiến tranh.
- Đoạn văn cuối: cảnh bầu trời, đêm sông Châu vào cuối thu bí ẩn, huyền diệu, buồn mà đẹp, bộc lộ tâm trạng, tình cảm gắn bó tha thiết của nhân vật đối với làng quê bên bến sông Châu.
- Tiếng ru của dì Mây thay đổi: tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những tình huống trớ trêu của số phận nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và vượt lên, tìm thấy ý nghĩa đời mình khi biết giúp đỡ người khác và làm những việc có ích cho cuộc đời.
=> Nhận xét chung về cuộc đời và tính cách của dì Mây: chiến tranh đã lấy đi của dì tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu, thân thể bị thương tật, ra khỏi cuộc chiến còn gặp tình huống trớ trêu éo le song với bản lĩnh phi thường, với tấm lòng nhân hậu cao cả và sự hi sinh thầm lặng, dì Mây đã vượt lên để thực sự sống có ích cho cuộc đời.
4. Đặc sắc nghệ thuật của truyện
- Bút pháp miêu tả (tả cảnh và diễn biến tâm lí các nhân vật) của tác giả trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu
- Câu chuyện diễn ra trong những không gian và thời gian nào? Tìm hiểu ý nghĩa của những hình ảnh dòng sông, con đò, cây cầu xuất hiện trong truyện.
- Nhận xét về điểm nhìn trần thuật và người kể chuyện trong văn bản.
- Tả cảnh sống động; chọn đặc tả những cảnh nhằm ngụ ý hoặc chuẩn bị cho việc bộc lộ tâm trạng nhân vật: cảnh đám rước dâu qua sông, cảnh bến sông Châu lúc chập tối như báo hiệu tình huống trớ trêu, sóng gió sắp xảy ra. Cảnh đám cưới bên nhà chú San được tả sống động, hồi hộp, kịch tính; cảnh bến sông Châu mênh mang thời chiến tranh qua hồi tưởng của nhân vật đậm màu sắc sử thi, lãng mạn (đoạn 1); cảnh bầu trời, đêm sông Châu vào cuối thu bí ẩn, huyền diệu, buồn đẹp, bộc lộ tâm trạng, tình cảm gắn bó tha thiết của nhân vật đối với làng quê bên bến sông Châu (đoạn 4).
- Tả diễn biến tâm lý: diễn tả tâm lí cha con gặp nhau ở bến sông Châu giàu tính tạo hình, có sức gợi và gây xúc động; diễn tả tâm lí nhân vật San và Mây lúc gặp nhau có sự đa dạng về cung bậc tình cảm, rất hồi hộp, kịch tính: lúc đau khổ, uất ức, lúc như mê lịm đi, lúc bừng tỉnh, lúc nhớ thương da diết, cồn cào; lúc tỉnh táo, cương quyết.
- Câu chuyện diễn ra ở 2 không gian chính: không gian sinh hoạt gia đình (nhà ông ngoại và nhà chú San), không gian sông nước (bến sông - lều cỏ). Không gian nhà ông ngoại được tập trung thể hiện trong đoạn 1, ngày dì Mây về làng; không gian nhà chú San được đặc tả ở đoạn 3 gắn với việc sinh nở của cô Thanh. Không gian bến sông - lều cỏ chủ yếu nổi bật ở đoạn 2 và 4. Trong đoạn 4, không gian chiến trường cũng được gợi nhắc qua lời kể của công binh xây cầu.
Chuyện diễn ra trong thời gian: ngày đầu tiên dì Mây trở về sau chiến tranh; những ngày tháng dì Mây sống ở bến sông Châu (chèo đò chở học sinh qua sông, làm ý tá ở trạm xá, nuôi nấng thằng Cún). Thời gian tuyến tính được xen kẽ bởi những khoảng thời gian quá khứ được gợi lại qua các hồi ức, đối thoại (nhan sắc, tình yêu của dì Mây và chú San trước chiến tranh, tình huống dì Mây bị thương ngoài mặt trận vì che chắn cho thương binh Quang).
- Tác giả miêu tả một số hình ảnh như dòng sông, con đò, cây cầu… vừa có nghĩa thực vừa mang tính ẩn dụ, biểu tượng. Dòng sông gợi lên ý nghĩa về dòng đời bí ẩn, nhiều biến động, sóng gió (như tình yêu của dì Mây và chú San), nhiều hoàn cảnh trớ trêu, đau khổ (như cuộc đời dì Mây, thím Ba, thằng Cún); con đò là hình ảnh tượng trưng cho thân phận con người (dì mây “lỡ đò”), cho sự chia li, sự chuyên chở, nâng đỡ (dì Mây chèo đò đưa chú San đi học nước ngoài, dì Mây hào phóng đưa học sinh qua sông, dì Mây đỡ đẻ cho cô Thanh); cây cầu là hình ảnh tượng trưng cho chiến tranh phá hoại ;cho sự kiến thiết, xây dựng , cho sự hàn gắn, kết nối, nghĩa tình (kết nối giữa quá khứ và hiện tại, nghĩa tình giữa dì Mây và thằng Cún, dì Mây và chú Quang), …
- Điểm nhìn: người kể chuyện có khả năng di chuyển điểm nhìn linh hoạt, từ điểm nhìn bên ngoài (kể những điều nhân vật không thấy, không biết) sang điểm nhìn bên trong (kể thông qua cảm nhận, suy nghĩ của nhân vật Mai) và ngược lại.
- Người kể chuyện có khả năng thâm nhập vào đời sống nội tâm phức tạp của các nhân vật (Mây, San, Mai, người ông), thường xuyên mượn vị trí quan sát, thái độ, cảm nhận của nhân vật Mai để kể chuyện. Bằng cách này, điểm nhìn nghệ thuật có sự chuyển đổi linh hoạt giúp người đọc biết được nhiều thông tin hơn, rõ hơn về nhân vật dì Mây, San và các sự việc có liên quan.
III. Tổng kết
- Truyện kể và ca ngợi về sự hi sinh thầm lặng, bản lĩnh phi thường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh dì Mây cả trong và sau chiến tranh.
- Người phụ nữ ấy không gục ngã vì hai lần đau đớn, vì sự trớ trêu của số phận. Bằng bản lĩnh, nghị lực phi thường, chị đã hòa nhập vào đời sống, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm mới, sống nghĩa tình, nhân hậu, yêu thương giữa cuộc đời.
Xem thêm
Các bài soạn Ngữ văn 10 tại đây.
........................................
Chúc các em học tốt.