Đề cương Những nhân vật trọng tâm không thể bỏ qua - Ngữ Văn 12

Đề cương Những nhân vật trọng tâm không thể bỏ qua - Ngữ Văn 12

Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người…
Những nhân vật trọng tâm không thể bỏ qua - Ngữ Văn 12

1. Nhân vật Mị - Vợ chồng A Phủ

4646

Nhân vật Mị​
Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi“xưa nay hiếm”, ông đã có gần 200 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ; ông viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. Dế Mèn phiêu lưu kí, Truyện Tây Bắc, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Miền Tây... là những tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích.

Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài hơn nửa năm. Ông đã viết truyện Vợ chồng A Phủ, qua đó nói lên sự thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến.

Truyện gồm có hai phần: Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; Phần 2: Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất khi tác giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị.

Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất đã lâu rồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị. Năm nào hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than: ''Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thể nào khác được rồi!”.
Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy... Bố Mị đã già, lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như hoa xuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”. Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô cảm vô hồn, ngày “Càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa". Hình ảnh Mị cúi mặt quay sợi đay bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiều thương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ - con dâu gạt nợ!
Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố “úp mật xuống đất, nức nở”. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu quá rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ? Mị không nỡ chết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa". Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà Thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng.

Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ. Tết lai đến, ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng vọng lại. Mi “Thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thối sáo:

... Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu

Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt... Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng minh “phơi phới trở lại”, rồi nhiên “vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị có ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...”. Có biết bao người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Mị cay đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sử với Mị không lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm ngón trong tay. Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm lòng Mị bồi hồi:

Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi.


Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay cái váy hoa... những hành động ấy diễn ra ngay trước mặt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”. Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau nhức”, “đau đứt từng mãnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khố thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! MỊ có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thẳng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào, con ma nào có thể làm lụi tàn được, vùi dập được nỗi khát khao tinh yêu, hạnh phúc trong lòng người phụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ.

Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trong buồng như người đàn bà nọ. Mị mỗi ngày một tê dại hẳn đi. Đêm mùa đông ở vùng núi Hồng Ngài dài và lạnh. Mị buồn chỉ chợp mắt được từng lúc, rồi lại thức sưởi âm suốt đêm. Mị sống trong tâm trạng cô đơn “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Mị và A Phủ như hai số kiếp tiền định cùng trải qua bao gian khổ dập vùi. A Phủ, một kẻ tứ cố vô thân, vì tội đánh con quan mà bị đánh trói, bị làng bắt phạt vạ 100 đồng bạc trắng, trở thành người vay nợ, kẻ ở nợ, phải làm con trâu con ngựa cho nhà thống lí "đời này, đời con, đời cháu” của A Phủ cũng phải thế! Họa vô đơn chí! Rừng động, A Phủ đi chăn bò để hổ kéo về bắt mất một con. Thống lí Pá Tra mắng chửi A Phủ là “quân ăn cướp làm mất bò tao!” Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc bằng một cuộn dây mây trói đến chết nếu không bắt được hổ về! Bị trói đứng suốt mấy ngày đêm, hai hõm má của A Phủ đã “xám đen lại”. Nửa đêm, qua ánh lửa, Mị “lé mắt trông sang" kẻ chịu nạn rồi xúc động nghĩ: “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Rồi Mị thương thân phận mình, thương người đàn bà ngày trước bị trói đến chết ở nhà này! Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng vào cái cọc ấy một khi A Phủ trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng không thấy sợ...”. Bếp lửa tàn, nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh. Mị đã dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Một cảnh dữ dội, khủng khiếp diễn ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi ngay!” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị băng đi nói thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi!... ở đây thì chết mất!”. A Phủ chi kịp nói với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ dìu đỡ nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hôm ấy, đêm gì?”. Đó là cái đêm hãi hùng mà rất đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.

Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa thương mình, vừa thương người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt đứt sợi dây oan nghiệt đã biến người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm tàng kì lạ!

Nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của Tô Hoài. Mị là một cô gái duyên dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính cách Mị được miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết khóc, Mị ăn lá ngón... Mị lầm lũi... Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó là
trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng rẻo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.

Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ Từ tủi nhục cay đắng của kiếp con dâu gạt nợ. Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị cuộc đời ấy thật đáng quý và sáng giá biết bao. Tô Hoài đã dành cho nhân vật Mị sự cảm thương sâu sắc đầy tình người.
 
Từ khóa
chiec thuyen ngoai xa nhan vat nhân vật - ngữ văn 12 nhân vật mị nhân vật người đàn bà hàng chài nhân vật tnú phân tích nhân vật bà cụ tứ rừng xà nu vợ chồng a phủ vợ nhặt của kim lân
  • Like
Reactions: Tiến 2021
2K
1
11

Tiến 2021

Thành Viên
27/5/21
94
41
18,000
32
Xu
0
Nhân vật thống lý Pá Tra – Vợ chồng A Phủ

Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lí Pá Tra và vợ chồng A Phủ.
Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác, chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra thật đặc sắc.

Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc họa thống lí Pá Tra chính là một thống lí giàu có: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”.

Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy.

Điểm nổi bậc thứ hai: Thống lí Pá Tra chính là một thống lí chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa. Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.

Thống lí Pá Tra là một thống lí độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược. Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ.

Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra- Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ hạng bét, bị cha con Pá tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

Thống lí Pá Tra đã dùng thủ đoạn dùng thần quyền và cường quyền để giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm của Pá Tra thể hiện rõ nhất rong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con Pá tra ngang nhiên bắt Mị về nhà, không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”.
Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.

Đức tin về thần quyền là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người.

Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn.
Ở Hồng Ngài cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống, bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “Chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.

“Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ, những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra, và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”
Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền “mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình.

Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội, mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. “Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả nợ dần. Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà không có cơ hội thoát.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát. Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí và phải chăng còn nhiều nữa những nạn nhân của chúng? Của cải nhà thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí.

Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy. “Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”.

Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.
Trần Ngọc 2021Cảm ơn bạn nhiều.
 
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021

Tiến 2021

Thành Viên
27/5/21
94
41
18,000
32
Xu
0
Hệ thống nhân vật trọng tâm - Ngữ Văn 12 đầy đủ và chi tiết. Bạn có phần hướng dẫn phân tích nhân vật Thống lý Pá Tra - Vợ chồng A Phủ không?
 
  • Like
Reactions: Trần Ngọc 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
Hệ thống nhân vật trọng tâm - Ngữ Văn 12 đầy đủ và chi tiết. Bạn có phần hướng dẫn phân tích nhân vật Thống lý Pá Tra - Vợ chồng A Phủ không?
Tiến 2021
Nhân vật thống lý Pá Tra – Vợ chồng A Phủ

Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lí Pá Tra và vợ chồng A Phủ.
Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác, chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra thật đặc sắc.

Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc họa thống lí Pá Tra chính là một thống lí giàu có: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”.

Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy.

Điểm nổi bậc thứ hai: Thống lí Pá Tra chính là một thống lí chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa. Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.

Thống lí Pá Tra là một thống lí độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược. Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ.

Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra- Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ hạng bét, bị cha con Pá tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

Thống lí Pá Tra đã dùng thủ đoạn dùng thần quyền và cường quyền để giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm của Pá Tra thể hiện rõ nhất rong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con Pá tra ngang nhiên bắt Mị về nhà, không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”.
Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.

Đức tin về thần quyền là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người.

Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn.
Ở Hồng Ngài cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống, bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “Chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.

“Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ, những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra, và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”
Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền “mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình.

Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội, mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. “Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả nợ dần. Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà không có cơ hội thoát.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát. Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí và phải chăng còn nhiều nữa những nạn nhân của chúng? Của cải nhà thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí.

Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy. “Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”.

Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
9. Nhân vật Tràng – Vợ nhặt
Bài làm

Kim Lân là nhà văn lão làng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Ngòi bút của ông hướng đến những mảnh đời bất hạnh, làng quê Việt Nam, những người nông dân chân chất mộc mạc, nghèo đói nhưng tràn đầy tình yêu. Truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong những kiệt tác tái hiện lại chân thực nhất hình ảnh người nông dân sống trong nạn đói năm 1945. Đặc biệt tác giả đã khắc họa thành công diễn biến tâm lý của nhân vật chính: anh cu Tràng.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói thê thảm, người chết như ngả rạ tại một xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Nhan đề của tác phẩm đã làm toát lên tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, nhan đề cũng chính là tình huống truyện độc đáo, đặc săc làm đòn bẩy đề tác giả có thể vẽ lên được tâm lý của từng nhân vật. Thành công của Kim Lân chính là việc khắc họa được những phẩm chất cao quý bên trong những con người nông dân nghèo đói, bần cùng.

Tràng là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm, Kim Lân đã mượn hình ảnh anh cu Tràng để lột tả lên được diễn biến tâm lý của nhân vật từ chuyển biến này đến chuyển biến khác. Tràng là người đàn ông nghèo khổ, rách rưới, sống với mẹ già. Tràng xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng vài nét chấm phá của tác giả “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai còn mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ thú vị…”. Chỉ với những chi tiết đó, Kim Lân đã khéo léo vẽ lên một hình tượng anh nông dân nghèo, cô quạnh giữa không gian xóm ngụ cư tiêu điều. Anh cu Tràng dường như khiến người đọc liên tưởng đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao khi xuất hiện ở đầu tác phẩm với điệu bộ “Hắn vừa đi vừa chửi, hắn chửi trời, chửi đất, chửi cái đứa nào đẻ ra hắn…”. Người nông dân trong xã hội phong kiến đều có chung một số phận, chung một điều kiện sống, nhưng họ khác nhau ở cách nghĩ, cách lựa chọn làm người.

Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội khắc nghiệt, dở khóc dở cười như vậy Kim Lân đã xây dựng nên tình huống truyện có thể xem là mở nút của mọi vấn đề. Anh cu Tràng “nhặt” được vợ, là nhặt được chứ không phải cưới được mới lạ chứ. Một kẻ xấu xí, nghèo đói, bần cùng, thô kệch như Tràng mà cũng có được vợ trong tình cảnh thê thảm của xã hội như thế này, lại còn được vợ theo. Quả đúng là đám cưới có một không hai trong xã hội hiện nay. Nạn đói đã đưa những con người chung cảnh ngộ, nghèo đói đến với nhau.
Có thể nói rằng tình huống truyện này cực kỳ đắt giá, làm đòn bẩy để Kim Lân có thể qua đó bộc lộ, lột tả được hết tính cách và nhân phẩm của người đàn ông nghèo vừa nhặt được vợ này.

Đặc biệt hơn nữa diễn biến tâm lí nhân vật Tràng thay đổi từ khi “nhặt” được vợ, lúc đó hắn không nghĩ gì hơn ngoài việc nghĩ đến người đàn bà đi bên cạnh “Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chè, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mắt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Những rung động và cảm xúc rất đời thực của một người đàn ông. Hắn trở nên hiền lành và đáng mến, không phải tình yêu có thể con người ta vui vẻ, có khi chỉ là chút tình nghĩa cỏn con cũng khiến cho bản thân thay đổi theo hướng tích cực.

Diễn biến của anh cu Tràng cứ thể chuyển biến đột ngột, đến khi về đến ngoi nhà, khi thấy một người đàn bà ngồi ngay giữa nhà, hắn mới “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Chính hắn cũng không tin nổi là mình đã có vợ, mọi thứ đến nhanh và bất ngờ quá khiến cho cả hắn và thị đều không định hình nổi có phải là sự thật. Một sự “ngờ ngợ” rất đáng yêu và đáng trân trọng.
Đặc biệt trong đoạn thoại Tràng trò chuyện với mẹ, người ta nhận ra kẻ nông dân bân hàn, nghèo đói này lại có một trái tim và tấm lòng sáng, vẹn tròn, dung dị như vậy. Anh vừa xót thương cho thân phận người đàn bà xa lạ nghèo khổ ấy, nhưng duyên số đưa đẩy hai người đến với nhau nên hắn đón nhận như một điều trời ban.

Thế là hắn có vợ rồi, đến buổi sáng hôm sau hắn vẫn cảm thấy minh như đang ở trong mơ “Trong người êm ái lơ lửng như vừa ở trong giấc mơ đi ra. Hắn vẫn chưa tin việc mình có vợ. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ…”. Một cuộc sống mới đã đến với hắn trong niềm vui lạ và phấn khởi. Hắn chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả.

Cái cách vợ chồng Tràng cùng ăn bữa cơm đầu tiên sau đêm tân hôn thực sự khiến người đọc cảm động. Mặc dù “nồi cháo cám” không ngon, đắng chat và khó ăn nhưng hắn vẫn ăn rất ngon lành. Vì hắn biết, hắn hiểu gia cảnh, hiểu xã hội, hiểu thời thế đang trong cảnh bần hàn. TRàng là một người giàu tình cảm, với mẹ, với vợ. Cái đói nghèo khắc nghiệt dường như không thể ngăn cản được con người chúng ta yêu nhau nhiều hơn là vì thế.

Bằng bút pháp tả thực cùng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lý nhân vật một cách cụ thể sắc nét nhất. Kim Lân đã vẽ lên hình ảnh một người nông dân nghèo đói, bần hàn nhưng có cái tâm sáng, giàu tình yêu thương.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
8. Nhân vật Thị - Vợ nhặt

* Trong quá trình phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy người phụ nữ này hiện lên với một số điểm chính. Thị là người có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói, là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc, khao khát cuộc sống bình dị. Bên cạnh đó, Thị cũng là người làm thay đổi cách nghĩ của Tràng và cũng là người mang đến niềm tin cho cả gia đình.

- Thị có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân đáng thương của nạn đói

- Nhân vật Thị xuất hiện không tên tuổi, không gốc gác, không gia đình. Tất cả những thông tin về thị đều là một số không tròn trĩnh, thậm chí là không có một cái tên rõ ràng chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây dựng nhân vật như vậy gợi một thân phận mờ nhạt, đáng thương. Và có lẽ thân phận ấy không chỉ của riêng thị mà còn của rất người những con người khác trong nạn đói. Thị chỉ như một mảnh đời trôi dạt, vô danh và hèn mọn.

- Cái đói đã làm cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, lần trước gặp Tràng, thị còn hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần thứ hai thì chính Tràng cũng ngạc nhiên về sự thay đổi của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

- Còn về nhân cách thì Thị quên đi cả sự ý tứ của một người phụ nữ mà trở nên suồng sã đến bất ngờ “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà trách mắng Tràng “Điêu! Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý Tràng để được ăn. Khi Tràng đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của thị tức thì sáng lên” và “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn bánh bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”.

* Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc nhận ra đó là hình tượng đáng thương hơn đáng giận. Cái đói, cái chết dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau khi ăn bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được khắc họa với những dằn vặt nội tâm hay với những ước mơ hoài bão mà mọi hành động suy nghĩ của thị chỉ quẩn quanh miếng ăn, cái đói, cái chết.

Đó là thân phận bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến đường cùng. Đây cũng chính là số phận điển hình cho những người nông dân trong nạn đói bị cái ăn dày vò, bất chấp cả phẩm giá. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua con mắt của một người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó hiện lên một cách thật trần trụi.

* Nhân vật Thị vẫn khát khao một mái ấm gia đình

Cuối cùng, cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân khi theo Tràng về làm vợ vì lúc này cô cần một chỗ dựa, cần một miếng ăn để tồn tại và cần một mái ấm gia đình. Phân tích nhân vật Thị, ta thấy hình ảnh cô dâu vu quy trong ngày đói cũng thật xót xa. Cô đi sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ “rón rén, e thẹn”.

Không còn là người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén ấy chính là biểu hiện của lòng tự trọng, ý thức về phẩm giá của mình. Thị ý thức được rằng mình là người vợ theo không, không có chút tôn nghiêm nào và đây cũng là con đường duy nhất. Tràng trở thành điểm tựa, cái phao duy nhất mà thị có thể bám víu vào trong lúc này.

Cô rất lo lắng, ngập ngừng và có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng. Nhìn xung quanh nhà Tràng thì có thể đoán được gia cảnh của Tràng cũng không khá khẩm hơn thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, vào trong nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa, hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”.

Trước tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Ngôi nhà là nơi sự sống được ấp ủ, nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang lạnh như cạn cùng sự sống khiến cho thị đành ngậm ngùi. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó lo lắng, bất an, chông chênh đến tội nghiệp, hoang mang cho những ngày tháng tương lai sau này.

Thị cũng chẳng biết quyết định theo người đàn ông này có đúng hay không, chẳng biết những ngày tháng sau này sẽ như thế nào. Phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra, khi chấp nhận theo không một người xa lạ về làm vợ, thị đã phó mặc số phận của mình cho cuộc đời. Nhưng cuộc đời lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn ông hào phóng sẵn sàng cho thị bốn bánh đúc chỉ qua vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh cũng không khá hơn thị là bao, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn. Thị thương cho cuộc đời mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận.

Và nỗi niềm của Thị lúc này đây ngoài buồn tủi cho số phận mình, Thị còn rất bất an. Bởi cô không biết liệu mẹ Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu, có chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì thế, khi mẹ Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào. Trước mặt mẹ chồng, thị càng rụt rè khép nép hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng chỉ dám “đứng nguyên một chỗ không nhúc nhích”.

Dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng khiến bà mẹ già xót xa, ái ngại. Chính cái dáng vẻ ấy của thị, đã khiến bà cụ Tứ động lòng thương. Với con mắt của một người từng trải, bà cụ hiểu tất cả mọi chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị không bằng ánh mắt dò xét như mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị với ánh mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận của thị.

Khi chính thức trở thành vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi bất ngờ hay có lẽ đó mới chính là con người thật của thị trước khi bị cái đói làm mờ mắt. Cô thức dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách xưng hô với Tràng “sao nhà biết” và “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”

Phân tích nhân vật Thị, ta thấy trong hoàn cảnh này thì Thị đã bắt đầu biết vun xén cho cái gia đình nhỏ của mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước bữa ăn ngày đói. Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay mẹ chồng, ban đầu “hai con mắt thị tối lại” nhưng rồi “điềm nhiên và vào miệng”. Cô chấp nhận số phận hiện tại và cũng không muốn làm bà mẹ thêm tủi cực, xót xa.

* Phân tích nhân vật Thị để thấy dù có hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị đã may mắn tìm được những con người giàu tình yêu thương sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị hơi ấm của tình người, của cuộc sống. Chính điều ấy đã trả lại cho thị bản chất tốt đẹp và thắp sáng lên trong thị khát khao tình yêu, khát khao một cuộc sống hạnh phúc

* Thị mang đến ánh sáng niềm tin cho gia đình Tràng

Xuất hiện ở nơi mà nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc nhất, nhưng có ai ngờ sự xuất hiện của thị đã mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói, trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện bởi cái chết đang đến dần thì hôm nay bỗng vang lên. Trẻ con thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những người dân xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám, ảm đạm hơn.

Không chỉ ảnh hưởng đến người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn mang đến sức sống hy vọng cho gia đình Tràng. Căn nhà cũng thay đổi không còn xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét nước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước đầy ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”.

Và thị còn khiến Tràng thấy mình nên người trưởng thành hơn, bắt đầu biết sống có trách nhiệm hơn với gia đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa niềm tin, lạc quan. Phân tích nhân vật Thị ta thấy, niềm tin ấy tuy nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ lớn dần lên trong lòng bà cụ. Bà cũng cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà đón chào một cuộc sống mới. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau chuối thái rối nhưng cũng đủ để gắn kết những con người này lại với nhau tạo nên một không khí gia đình ấm cúng, hòa hợp.

Điều quan trọng hơn, thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe câu chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình không tham gia vào đoàn người đi phá kho thóc mà Tràng từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng là người báo tin cách mạng. Và điều ấy đã dự cảm trước sự thay đổi trong tương lai.

* Phân tích nhân vật thị để thấy giá trị của tác phẩm.

* Nhận xét về tác phẩm khi phân tích nhân vật Thị

Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình tính cách cho đến số phận. Phân tích nhân vật Thị để thấy đây là hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp cho những người nghèo đói, cho khát vọng sống mãnh liệt và ước muốn có một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã.

Phân tích nhân vật Thị để thấy khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chở che, cô trở về đúng với bản chất tốt đẹp của mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người đọc. Người phụ nữ ấy xuất hiện trong tác phẩm tuy không mang vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến làn gió tươi mát cho căn nhà u ám đang bên bờ vực của cái chết.

* Kết bài: Người vợ nhặt chính là đại diện tiêu biểu cho số phận con người trong nạn đói thảm khốc năm 1945. Qua đó, nhà văn đã lên án tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời, Kim Lân còn thể hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận những con người nghèo khổ. Nhưng Kim Lân dù khắc họa họ là những nạn nhân khổ đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị đời thường. Đó là vẻ đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của khát khao hạnh phúc, trong hoàn cảnh tối tăm vẫn hướng về một tương lai tươi sáng.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
7. Nhân vật Tnú – Rừng xà nu

Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.

Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi. Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnu đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được. Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.

Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.

Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỉ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.

Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác. Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòi roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội. Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn. Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.

Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết long với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh. Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.

Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chình là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
6. Nhân vật cụ Mết – Rừng xà nu
Có thể nói rằng cụ Mết chính là bức chân dung tiêu biểu nhất để khái quát về cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ mà có lần Nguyễn Trung Thành đã viết đôi lời về nhân vật này "Ông là cội nguồn là Tây Nguyên của thời đại đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau". Ở cụ đó là vẻ đẹp truyền thống được đúc kết từ nhiều thế hệ, tạo nên một hình tượng, mạnh mẽ rắn rỏi và vững vàng, trở thành cánh chim đầu đàn của cả làng Xô Man trong công cuộc kháng chiến. Ngoại hình cụ Mết đặc tác giả vẽ ra bằng những nét vẽ rất ấn tượng, mang vẻ cứng cáp kiên cường của một cây xà nu đứng tuổi, kinh qua nhiều bom đạn của kẻ thù. Đó là dáng vẻ của một người dân tộc anh hùng, khỏe mạnh với tấm "ngực căng như một cây xà nu lớn", cùng"bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt". Mang một dáng vẻ và sức sống bền bỉ mà không phải một ông cụ nào ở tuổi này cũng có được, đó là sự "quắc thước", với bộ "râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng". Giọng nói mạnh mẽ vang dội lại càng chứng minh cái sự dẻo dai và sức bền của ông cụ"sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ, ồ, dội vang trong lồng ngực". Đặc biệt qua đôi mắt của Tnú người đã từng chịu nhiều ơn nghĩa của cụ Mết, anh sau ba năm lăn lộn ở chiến trường trở về mà cụ vẫn chẳng khác xưa, vẫn một bộ dáng vững chãi, sừng sững bảo vệ và lãnh đạo làng Xô Man. Vẻ đẹp ngoại hình ấy của cụ Mết có thể được xem là vẻ đẹp lý tưởng mang tính sử thi của người anh hùng dân tộc Tây Nguyên, là mong ước của cộng đồng về một người đứng đầu mạnh mẽ, với sức sống kiên cường cùng năm tháng.

Trong kháng chiến, cụ Mết không chỉ đóng vai trò là một già làng đứng tuổi, có tiếng nói mà còn là một người chỉ huy, một người chiến sĩ mạnh mẽ, đầy rẫy kinh nghiệm, kiên cường và bền bỉ trong cuộc chiến suốt nhiều năm liền. Là người lãnh đạo chỉ dẫn dân làng Xô Man giữ đất, giữ nước, ủng hộ cụ Hồ, ủng hộ kháng chiến, nắm giữ vai trò khích lệ động viên mọi người bằng những lời nói rất tâm huyết như một lời kêu gọi, phát động kháng chiến đầy quyết tâm, thề sống chết với quân thù "Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!". Không chỉ là động viên kháng chiến,cụ Mết còn thể hiện sự chu toàn, tầm nhìn xa trông rộng của một chủ soái khi liên tục vận động bà con tham gia chuẩn bị, dự trữ lương thực, thực phẩm cho một cuộc chiến trường kỳ sắp tới, đốc thúc dân làng đốt rẫy trồng sắn, gieo cây pomchu xanh mượt cả một vùng rừng, khiến cho lương thực có ăn đến mấy mùa nữa cũng không hết. Càng thể hiện quyết tâm chống giặc Mỹ lâu dài, không bao giờ lùi bước của cụ và của cả một cộng đồng dân tộc dưới quyền cụ Mết. Bên cạnh đó vẻ đẹp sử thi của người anh hùng Tây Nguyên còn hiện lên trong khi cụ hòa mình vào cuộc chiến, trong những giây phút lịch sử của làng Xô Man. Đó là cái ngày bọn giặc và tay sai lùng quét vây bắt thanh niên theo cách mạng, lùng bắt Tnú, chúng đã bắt trói mẹ con Mai và liên tục tra tấn một cách dã man. Cả cụ Mết và Tnú đều phải chứng kiến cảnh thương tâm ấy, nhưng ai cũng đều hiểu rằng nếu ra lúc này thì ắt trúng bẫy địch, thế nhưng với vai trò là người chỉ huy, với tấm lòng căm thù và suy nghĩ cho tương lai của cách mạng, cụ không thể để Tnú hy sinh vô ích. Cụ đã có ý định ra cứu mẹ con Mai thay Tnú, thế nhưng không vẫn không kịp bước chân anh. Đến cuối cùng cụ đã ra một quyết định trọng đại, cụ phải cứu tương lai của làng Xô Man, tương lai của mảnh đất này bằng mọi giá, cụ đã dẫn thanh niên trong làng lên rừng lấy vũ khí để quay về giải cứu Tnú. Tiếng hô vang vọng của người chủ tướng "Chém! Chém hết!" đã trở thành sức mạnh, nguồn cổ vũ tập thể, lấy mạnh hơn chục thằng giặc, trả thù cho mẹ con Mai và cứu thoát cả Tnú. Có thể nói rằng, sự quyết đoán, tinh thần quyết chiến mạnh mẽ và sự khôn ngoan của cụ Mết đã giúp dân làng Xô Man lập được một chiến công rực rỡ, sau nhiều ngày ấp ủ, phải chịu sự càn quét của kẻ thù. Đồng thời cũng chính là trận chiến mở đường cho những cuộc chiến dài hơi và cũng lắm vẻ vang sau này của làng.

Không chỉ nắm vai trò lãnh đạo, chỉ dẫn trong chiến đấu, cụ Mết còn là người lãnh đạo, định hướng tinh thần của làng Xô Man. Cụ đóng vai trò là người truyền dạy, giáo dục cho mọi người tinh thần yêu nước sâu sắc, lòng trung thành với cách mạng, với Đảng, ý chí kiên cường bất khuất như những cây xà nu trên rừng. Cụ không dùng những lý lẽ hay giáo điều xa xôi, mà sử dụng ngay một tấm gương sống là anh Tnú, một người chiến sĩ cách mạng kiên cường, niềm tự hào của của cả làng, khi liên tục kể những câu chuyện về cuộc đời lắm đau thương và sự anh dũng của anh trong kháng chiến. Đồng thời cũng không quên ôn lại những sự tích chiến đấu vẻ vang của làng, sự hy sinh của những thế hệ đi trước trong cuộc chiến. Biến nó thành lịch sử, niềm tin, động lực, bài học chung của tất cả các thế hệ già trẻ, lớn, bé của làng Xô Man. Hoặc răn dạy thông qua các câu nói thể hiện sự giác ngộ cách mạng sâu sắc "cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn", bộc lộ sự tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, nhà nước và cách mạng trường kỳ. Đồng thời cũng định hướng cho dân làng một lối đi đúng đắn bằng câu tuyên ngôn rất sâu sắc và thấm thía "Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo". Câu nói không chỉ là tư tưởng của riêng của cụ Mết mà còn là tư tưởng của nhà văn Nguyễn Trung Thanh khi viết tác phẩm này, đại ý rằng không còn cách nào khác, chúng ta buộc phải chống giặc Mỹ bằng cách lấy bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Phải lấy máu, xương để bảo vệ từng tấc đất của quê hương, bảo vệ nền độc lập hòa bình của dân tộc, vì một cuộc sống ngày mai tươi đẹp hơn.

Một nét đẹp nữa của cụ Mết mà ta có thể dễ dàng nhận ra ấy là tấm lòng yêu thương và tự hào sâu sắc với mảnh đất quê hương, nghe tin Tnú nghỉ phép về thăm làng 1 ngày, cụ đã dẫn ngay anh ra máng nước ở đầu làng để tắm rửa cho sạch sẽ. Đó giống như một nghi thức chào đón, tẩy trần thể hiện ý thức truyền thống sâu sắc, nhắc nhở Tnú cũng như những người đi xa quê hương phải biết nhớ về cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Khi trò chuyện với dân làng hoặc với Tnú, nhắc về mảnh đất quê hương, con người và sự vật nơi đây, cụ Mết luôn bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, ý thức khen ngợi trong lời nói rất rõ ràng "Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta", "Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này". Đặc biệt cụ luôn nung nấu, kiên định trong lòng lý tưởng bảo vệ quê hương, bảo vệ niềm tự hào bằng cách lãnh đạo dân làng chiến đấu, ra sức giáo dục giác ngộ cách mạng cho mọi người. Đồng thời trở thành một chiến sĩ cách mạng hăng hái số một. Bên cạnh đó cụ còn là người giàu tình yêu thương, cụ luôn nhắc nhở trân trọng câu chuyện và cuộc đời của Tnú, cũng dành cho nhân vật này những lời khuyên lời động viên chân thành. Sẵn sàng lăn xả vào hiểm nguy để cứu giúp gia đình anh. Đối với dân làng cụ Mết luôn có sự lãnh đạo đúng đắn, nhận được đồ tốt như chút muối cũng sẵn lòng chia sẻ với tất cả mọi người.

Cụ Mết chính là một nhân vật tiêu biểu và đóng vai trò khá quan trọng trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Biểu trưng cho một thế hệ anh hùng đi trước, có đầy đủ những vẻ đẹp của sự từng trải, kiên cường, mạnh mẽ, bền bỉ, trở thành người dẫn dắt, lãnh đạo cho các thế hệ tiếp nối, duy trì và phát huy truyền thống đánh giặc cứu nước của những người con Tây Nguyên. Để lại những ấn tượng sâu sắc về sức mạnh, vẻ đẹp sử thi trầm hùng, mạnh mẽ trên những trang truyện của thời đại.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
5. Nhân vật Dít – Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ông có nhiều gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Nguyên, và chính những kỉ niệm, tình cảm với mảnh đất này đã mang đến chất liệu phong phú trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn viết về vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ta có thể thấy rõ nội dung này thông qua nhân vật Dít. Dít không phải nhân vật chính nhưng sự xuất hiện của nhân vật Dít có ý nghĩa quan trọng đối với sự sự phát triển của mạch truyện và góp phần thể hiện nội dung chủ đề của truyện ngắn. Dít là em gái của Mai, tuy phải trải qua nhiều đau thương mất mát nhưng ngay từ khi con nhỏ Dít đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp và những khía cạnh anh hùng.

Ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã tỏ ra rất gan dạ, kiên cường. Khi chứng kiến cảnh chị gái (Mai) và đứa cháu nhỏ bị giặc giết hại dã man, dù dân làng không ai kiềm được nước mắt tiếc thương thì Dít lại bình tĩnh đến lạ thường. Người con gái ấy câm lặng, không để cho mình rơi dù chỉ một giọt nước mắt, đôi mắt to ráo hoảnh, dường như Dít đang cố gắng nén lại những đau thương, để ghi nhớ những mất mát, sự tĩnh lặng bên ngoài khéo léo che giấu đi những đau đớn, lòng căm thù sôi sục bên trong.

Sự gan dạ hơn người của Dít còn được thể hiện trực tiếp thông qua tình huống đối mặt với kẻ thù. Khi bị quân giặc đe dọa Dít không hề sợ hãi mà vẫn cố gắng bò theo máng nước đem gạo cho cụ Mết và thanh niên. Ngay cả khi bị giặc bắt, bị tra tấn hay khi bị mang ra làm “tấm bia sống” thì Dít vẫn nhìn chúng bằng đôi mắt bình thản đến lạ lùng. Đó là bản lĩnh tuyệt vời của người anh hùng, hình ảnh của Dít gợi cho chúng ta liên tưởng đến những nữ anh hùng vẻ vang một thời là bà Trưng, bà Triệu, Võ Thị Sáu….

Trong cuộc đời của mình, Dít đã phải trải qua nhiều đau thương, mất mát khi chứng kiến chị gái, bà con bị giặc giết hại. Thế nhưng những đau thương ấy không làm Dít gục ngã mà làm cho Dít trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn. Từ rất sớm Dít đã tham gia vào cách mạng, tích cực hoạt động dẫn dắt bà con làm cách mạng. Khi trở thành cô bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội Dít đã rất nghiêm túc, chững chạc được nhiều người yêu mến. Dít sống tình cảm nhưng vẫn nghiêm túc và kỉ luật trong những công việc chung, dù rất mong và nhớ T nú nhưng khi T nú về thăm làng, Dít vẫn yêu cầu T nú trình báo giấy phép của cấp trên.

Dít là tấm gương anh hùng được người dân làng Xô Man yêu quý và tin tưởng. Trong suy nghĩ của bé Heng, chị Dít nói gì cũng đúng và cần thực hiện nghiêm chỉnh, ta có thể thấy điều này thông qua lời nói của Heng với Tnú “…rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình cho đấy”.

Qua nhân vật Dít, nhà văn Nguyễn Trung Thành không chỉ thể hiện sự yêu mến, kính trọng đối với những người phụ nữ Tây Nguyên mà còn cho thấy vai trò to lớn của họ trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
4. Nhân vật nghệ sĩ Phùng – Chiêc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn họcViệt Nam thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác rất hay:"Văn học và đời sống lànhững vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người". Vâng! Con người trongcuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm tòi, khám phánhững điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì "toàn bộ sự nghiệp văn họccủa Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt".Với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"(1983)- một trong những tác phẩm xuấtsắc thuộc giai đoạn đổi mới- Nguyễn Minh Châu càng bộc lộ rõ nét, sâu sắc cảmhứng nhân đạo của mình. Truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa" lấy bối cảnh làmột vùng biển từng là chiến trường cũ của thời chống Mỹ. Mạch chính của truyệnlà những lời kể, những suy tư của nhân vật Phùng- một nghệ sĩ nhiếp ảnh, cũngtừng là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở vùng biển này.

Phùng là một nghệ sĩ tài hoa, say mê cái đẹp. Phùng luôn khao khát tìmkiếm cái đẹp, yêu cái đẹp và rung động tinh tế trước mọi vẻ đẹp của cuộc sống vàcon người. Niềm đam mê nghệ thuật ấy khiến anh phục kích hàng tuần liền trên bờbiển và thu được những tấm ảnh đẹp, hướng người xem về cái đẹp . Đó là cảnhvùng phá nước phẳng lặng và tươi mát như da thịt mùa thu. Đó là cảnh đẩy thuyềntrong không khí vui nhộn, hoành tráng và những người dân miền biển hiện lên thậtđáng yêu, đáng ca ngợi. Cuộc sống lao động đầm ấm, chất phác, những con ngườikhỏe khoắn, trung hậu…Đặc biệt trước một cảnh “đắt trời cho”, anh đã có nhữngcảm nhận thật tinh tế: “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họathời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữacó pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Đó là niềm hạnh phúc ngấtngây, là sự rung động thực sự của người nghệ sĩ trước cảnh đẹp thiên nhiên bantặng. Đó là niềm hạnh phúc khi tác giả khám phá thấy cái chân lý của sự toànthiện, toàn mĩ. Trong khoảnh khắc ấy, anh đã cảm nhận được cái chân, cái thiện,cái mĩ khiến tâm hồn anh như được thanh lọc, gột rửa.

Anh cũng là một người nghệ sĩ có trách nhiệm, ý thức sâu sắc về thiên chứccủa người nghệ sĩ. Say mê mà tỉnh táo, người nghệ sĩ ấy còn có cái nhìn sắc sảo,đào sâu vào những tầng vỉa của hiện tượng để khám phá bản chất đích thực củađời sống, phát hiện những giá trị đích thực của nhân cách con người.Phải chứngkiến cảnh lão chồng đánh vợ tàn bạo ngay sau cảnh chiếc thuyền ngư phủ đẹp nhưmơ, anh đã ngộ ra rằng cuộc đời luôn tồn tại cả thiện, ác, tốt,xấu. Vẻ đẹp toàn bíchcủa chiếc thuyền trong sương sớm trái ngược với đời sống thực trên chiếc thuyềnấy. và qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, anh lại nhận ra vẻ đẹp của mộtngười phụ nữ tầm thường với ngoại hình xấu xí và số phận bất hạnh (lấy ở đề 1).Cúng vì thế mà anh còn khám phá, hiểu sâu hơn về nhân tình thế thái. Hóa ra cáilão chồng vũ phu luôn mồm nguyền rủa vợ con chết đi lại là kẻ đứng mũi chịu sào,vắt kiệt sức lao động để nuôi nấng đàn con.Thằng bé Phác, đứa con trai chưa đầy10 tuổi vì thương mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm để lao vào ăn thuađủ với bố. Và cả người chị- cô con gái đẹp như nàng tiên cá chốn thủy cung nhưng cũng rất mạnh mẽ, sẵn sàng lao vào em để tước lưỡi dao oan nghiệt. Anh đã nhậnthức được vấn đề bao quát hơn, nhận thức các tình thế đời sống, nhận thức cái lẽđời cay cực chưa thể nào dễ dàng thanh toán bằng lòng tốt, bằng ý chí chủ quan,cho nên anh thấm thía: phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc về cuộc đời con người.Làmột nghệ sĩ tâm huyết, anh cũng ý thức sâu sắc về nghệ thuật chân chính luôn tồntại và phát triển trong mối quan hệ gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời.Từ bãi biểnmiền Trung trở về, anh đã mang theo rất nhiều ảnh- đó là những tấm ảnh thể hiệnsự khổ công và đầy sức sáng tạo của anh. Trong đó tấm ảnh “chiếc thuyền ngoàixa” đã được chọn vào bộ lịch. Đó là một tấm ảnh đen trắng nhưng khi nhìn vàoanh lại thấy màu phơn phớt hồng của sương mai. Bức tranh tĩnh vật nhưng nhìnsâu vào bức tranh anh lại thấy một người đàn bà hàng chài bước ra từ chiếcthuyền. Và khi nhìn vào tấm ảnh, anh đã thấm thía nghệ thuật không chấp nhận sựgiả dối, cái đẹp phải gắn liền với cái thật và đạo đức. Nghệ thuật phải gắn bó vớicuộc đời và vì cuộc đời. Nghệ thuật phải tiếp cận như thế nào để không bỏ quên sốphận con người. Người nghệ sĩ phải khám phá mọi phương diện khác của đờisống, phải đào xới vào những tầng sâu của đời sống để làm lộ ra những gì có khảnăng đánh thức tình yêu con người.

Nhưng điều đáng quý nhất ở người nghệ sĩ này là tấm lòng dành cho cuộcđời con người. Từng là một người lính trở về từ chiến trường, anh căm ghét mọiáp bức, bất công.Lần đầu tiên chứng kiến cảnh lão chồng vũ phu đánh vợ, anh đã“vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới” để can ngăn cơn cuồng nộ của lãochồng. Hành động đó như thể một thông điệp: trước khi là một nghệ sĩ yêu cáiđẹp, hãy là một con người biết yêu thương và chia sẻ với nỗi đau nhân thế. Đócũng chính là quan điểm của nhà văn Nam Cao:” muốn viết nhân đạo thì phảisống nhân đạo”, Lần thứ hai vẫn phải chứng kiến cảnh tàn bạo đó, anh đã lao vàolão chồng và trừng trị hắn không phải bằng đôi tay của một người nghệ sĩ mà củamột người lính từng 10 năm cầm súng. Tất cả những hành động đó cho thấy anhsẵn sàng làm tất cả vì điều thiện và sự công bằng.Chính điều này đã làm nên vẻđẹp tâm hồn đầy chất nghệ sĩ, chất nhân văn ở nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Cái nhìncủa anh về người đàn bà hàng chài, về chị em thằng Phác thấm đượm niềm cảmthương, trân trọng. Lúc đầu anh cảm thấy bức bối khi nghe người phụ nữ hàngchài van xin cầu khẩn vị chánh án đừng bắt bà ta phải li hôn với người chồng vũphu, đánh mình như cơm nữa. Anh cảm thấy căn phòng “như bị hút hết khôngkhí”. Nhưng sau khi nghe xong câu chuyện cuộc đời của người đàn bà khốn khổấy, anh không còn nghĩ rằng người phụ nữ kia cam chịu vì yếu đuối, ngu dốt. Anhcảm phục người đàn bà từng trải, sâu sắc, người mẹ với tấm lòng yêu thương convô bờ bến, với đức hi sinh và lối sống cao cả: “Ông trời sinh ra người đàn bà là đểđẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ởthuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đấtđược “. Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình trước những hiện tượng ngang trái, phi lý, anhđã biết cảm thông, chia sẻ và trân trọng.Trước khi rời vùng biển trung du đầy nắnggió, nghệ sĩ Phùng đã đi suốt một đêm ngoài bờ phá, anh chắc hẳn sẽ không thếnào quên những cảnh đẹp nơi đây cũng như anh không thể nào quên hình ảnhchiếc thuyền chống chịu được cơn sóng gió, có thể lại là những ngày biển động rồi sẽ lại là những ngày đói cả tháng trời ăn xương rồng luộc chấm muối. Lònganh lại trĩu nặng biết bao điều trăn trở, biết đến bao giờ những cuộc đời như hàngchài kia mới hết khổ? Người phụ nữ kia còn phải nhẫn nhục đến bao giờ? Liệungười con gái có cam chịu như mẹ. Chính những suy nghĩ và tình cảm của anh đãthức tỉnh người đọc, đánh thức tình yêu con người.Quả thực đối với một ngườinghệ sĩ, tài năng là quan trọng nhưng quan trọng hơn cả là tấm lòng đối với cuộcđời như Nguyễn Du từng nói :

“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng 3 chữ tài”

Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình, đem đếncho công chúng cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Tấm ảnh ấy thể hiện tàinăng, tâm huyết, trách nhiệm của người nghệ sĩ. Hơn thế, nó thể hiện tấm lòng củanhà văn đối với cuộc đời con người. Đó cũng là tâm huyết của nhà văn tiên phong Nguyễn Minh Châu mở đường cho sự đổi mới văn học: “Sứ mệnh vinh quang củavăn học là hướng về con người, dành cho con người”.

Truyện ngắn ''Chiếc thuyền ngoài xa'' in đậm phong cách tự sự- triết lí củaNguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thựctế của một người nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệp sâu sắc của ông vềnghệ thuật và cuộc đời. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và cảm nhậncủa người nghệ sĩ Phùng truyện ngắn ''Chiếc thuyền ngoài xa'' mang đến một bàihọc đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
3. Nhân vật người đàn bà hàng chài – Chiếc thuyền ngoài xa
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng : thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn. Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

Trần Ngọc 2021

Moderator
24/5/21
754
435
63,000
32
Xu
219,411
2. Nhân vật bà cụ Tứ - Vợ nhặt

1. Giới thiệu sơ nét về Bà cụ Tứ

Với tác phẩm vợ nhặt này ta không chỉ biết đến 1 anh Tràng thô nhám, cục mịch mà có lúc ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, 1 chị vợ "chao chát, chỏng lỏn" mà "hiền hậu, đúng mực", ta còn biết đến 1 nhân vật nữa: một nv giữ cho câu chuyện "VN" có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng của người mẹ nông dân này.

Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện như để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan hệ "mẹ chồng nàng dâu" với người "vợ nhặt". Nhưng hẳn không chỉ thế. Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật.

+ Bắt đầu là cái dáng: "lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng". Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình. Có phải không? Kim Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để cảm thông cùng với những nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ.

+ "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng song sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dằng dặc của mình".

>>> Ta biết được người phụ nữ nông dân này có một số phận đầy bất hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê tái. Bà đã vĩnh viễn mất đi người chồng và đứa con gái út yêu thương. Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu dễ biến tan. Ta không gặp một cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp những quằn quại quay quắt, ta chỉ gặp ở đó một con người của hiện tại với một cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn trông về bờ quá khứ. Điều ấy lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, bằng một nỗi lòng đầy ám ảnh của một quá vãng nặng trĩu những đắng cay.

+ Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua những lời nói tưởng như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng - đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất.

2. Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ (mẹ Tràng)

+ Lúc đầu bà cụ không ngờ con mình lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà mình là ai vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình khó lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp này. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc:

>>> Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai.

Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: "Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà." "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?".

>>> Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ nhặt", mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo 1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật.

Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".

+ Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tùi cực, ai oán, xót thương… Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..."

>>>Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái "cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rung tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa.


+ Càng nghĩ càng thương con mình, thương cả con dâu: “dù sao người ta chịu lấy con mình thì cũng đáng quí”


>>> Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp trớ trêu kia hình như không nên có.

3. Tấm lòng người mẹ quê nghèo trước hạnh phúc bất ngờ của con trai bà

+ Bà Tứ tự trách mình: làm mẹ đã không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì cũng mừng,bà thấy có trách nhiệm với hai vợ chồng mới. "Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn mình thì..."

>>> Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ.

>>> Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt",

>>> Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòngnước mắt khô héo. "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không".

>>> Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối.

>>> Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: mắt "đăm đăm nhìn người đàn bà".

>>> Như để nhận mặt người đồng hành khốn trong cuộc đời khổ nghèo, bà thấy người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..."


>>> Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình.

+ Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá....".

>>> "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dân Pháp, không khí quê hương "vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước", vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm...

+ Bà cụ cố nén nỗi buồn, nỗi lo động viên con tin ở sự sống và tương lai: “… tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.

>>> Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1 tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót.

+ Những hành động của bà: dọn dẹp nhà cửa, động viên vợ chồng mới bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1 tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ".

>>> Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm.

+ Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân".

>>> Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu?

+ Niềm ao ước thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: "Rồi may ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."

>>> Lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ 1 tấm lòng cao cả, tràn ngập tình thương.
+ Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược".

>>> Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, "cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên".

+ Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn".

>>> Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngoặt trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con.

+ Bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm ngày đói thật thảm hại" lại chỉ là 1 bữa "tiệc" với món cháo loãng và món "chè khoán" đắng chát.

>>> Nhưng bà vẫn cố tạo ra 1 không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con.

+ Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con...

>>> Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của người lao động.

+ Nhưng xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc: "cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem".

>>> Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là "chè khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi.

>>> Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát. Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương. Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1 bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó.

+ "Bà ko dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".

>>> Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong. Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tứ giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nước mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà. Những giọt nước mắt lại rơi. Những giọt nước mắt ám ảnh ấy....


4. Ý nghĩa nhân vật Bà cụ Tứ, ý đồ của tác giả khi tạo hình nhân vật này:

- Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau. Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một người con.


- Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu long nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều sâu của 1 truyện ngắn "hiện thực - nhân bản".
 
  • Like
Reactions: Tiến 2021

BBT đề xuất

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Top