[Tình cảm trong thơ liệu có cần sự nâng đỡ bởi trí tuệ?]
Tình cảm bao đời nay vốn là sinh mệnh của thơ ca. Bước vào thế giới của thi ca tức là bước vào thế giới của những giai điệu - những khúc nhạc lòng của tâm hồn, là được chứng kiến những ngóc ngách bí ẩn trong sâu thẳm nội tâm của chính mình, là được bày tỏ nỗi niềm tri âm, tri kỉ với những tấc lòng đồng điệu. Thế nhưng, sự hấp dẫn của thi ca liệu có phải chỉ đến yếu tố tình cảm? Tình cảm là khởi nguồn của thi ca nhưng thứ khiến thơ ca có thể tồn tại qua nhiều năm tháng, bất chấp những thăng trầm của thời gian và cuộc đời chính là trí tuệ. Nói cách khác, cảm xúc trong thơ cần sự nâng đỡ đến từ sức mạnh của chất triết lí. Mỗi nhà thơ vừa là một thi nhân nhưng đồng thời cũng vừa phải là một triết nhân. Anh phải là người biết cân bằng cán cân cảm xúc trong mình, làm sao để tác phẩm của mình không trở nên ủy mị, yếu đuối vì chỉ dung chứa những cảm xúc hời hợt, dễ dãi và cũng phải làm sao để không biến thi phẩm của mình trở thành một bài tuyên ngôn khô khan, đơn điệu chỉ vì đưa ra những bài học, những cách ứng xử đạo đức cứng nhắc, giáo điều. Làm được điều đó âu cũng là một thách thức với người sáng tạo nghệ thuật.
Trí tuệ trong thơ ở đây thực chất là muốn đề cập đến những triết lí, những thông điệp, những cách nhìn mà nhà thơ muốn gửi gắm trong tác phẩm. Trên thực tế, tình cảm và trí tuệ luôn có mối quan hệ gắn kết bền chặt trong thi ca. Vì thơ ca dẫu là sản phẩm tinh thần của nhà thơ, kết tinh những điều gan ruột, khắc khoải nhất trong tâm hồn nhà thơ thì đích đến sau cùng của nó vẫn là người đọc. Tình cảm thơ ca vì thế mang tính cá nhân chứ không có tính cá biệt, đơn lẻ như những ốc đảo cô độc. Muốn làm được điều đó, tình cảm mà nhà thơ truyền tải cũng không thể nhỏ bé, giản đơn, tầm thường mà cần gửi gắm qua đó những giá trị sống, những kinh nghiệm phổ quát của nhân sinh để chạm đến cõi lòng của muôn người, muôn đời. Khi ấy, rõ ràng tình cảm đã được trí tuệ soi rọi và nâng đỡ. Trí tuệ đã trở thành phương tiện đắc lực giúp cho thơ ca thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của một cộng đồng, một dân tộc thậm chí là đời sống của cả nhân loại. Bên cạnh đó, tôi cho rằng mỗi nhà thơ bước lên văn đàn bao giờ cũng muốn khẳng định tài năng và tầm vóc của mình, do đó lẽ dĩ nhiên họ sẽ luôn mong muốn tình cảm mà mình thể hiện trong thơ được phát huy hết những chiều kích rộng lớn của nó. Tình cảm khi được mở rộng tận độ giới hạn sẽ chạm đến trí tuệ. Nghĩa là nhà thơ sẽ mượn tình cảm để đem đến những nhận thức mới cho người đọc, khai mở những tầng sâu mới của trí tuệ.
Xuân Diệu trong suốt hành trình sống của mình luôn bị ám ảnh bởi sự trôi chảy của thời gian. Đối với ông, thời gian là hữu hạn, mỗi khoảnh khắc trôi qua cũng đồng nghĩa với sự tàn lụi, biến mất. Thơ ca vì thế là hình thức để thi nhân chống trả lại trước sự trôi chảy của thời gian và mở rộng biên độ sống của chính mình. Nỗi lòng trân quý cuộc sống của nhà thơ đã được nhà thơ nâng lên thành những triết lí về thời gian vô cùng sâu sắc:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
hay
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Hiếm có ai đưa ra triết lí về thời gian độc đáo như Xuân Diệu. Ông nhìn thấy cái sắp xảy ra, sẽ xảy ra trong cái chưa xảy ra và đang xảy ra: xuân đang tới nhưng cũng đồng nghĩa với xuân đã qua, xuân đang còn non cũng đồng nghĩa với xuân đang già. Con người ấy không đợi đến nắng hạ mới hoài xuân mà đã cảm thấy nhớ thương và tiếc nuối mùa xuân ngay trong chính khoảnh khắc mùa xuân căng tràn nhất. Thậm chí ngay trong khoảnh khắc “tay trong tay” với người yêu, cảm giác chia lìa và dự cảm xa cách đã choán ngợp tâm hồn thi nhân: “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt/ Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài”. Với một con người ham sống đến vô biên, tuyệt đích thì có lẽ chăng, điều mà Xuân Diệu lo sợ nhất chính là những điều đẹp đẽ trong cuộc đời mình sẽ biến mất. Xuân Diệu không chỉ sống trong hiện tại, ông chạy đua với tương lai. Vì ý thức được sự thay đổi của thời gian nên nhà thơ mới khao khát được chống trả nó bằng việc tăng cường độ sống, tốc độ sống và hơn cả là nuôi dưỡng tình yêu và khát vọng sáng tạo nghệ thuật. Triết lí về thời gian của Xuân Diệu chính là điều khiến cho thơ ca của ông không bao giờ cũ mòn mà vẫn rất thiết thực với con người muôn thế hệ.
Tình cảm thiết tha trong thơ kết hợp cùng chiều sâu trí tuệ sẽ tạo nên sự sâu sắc trong cảm xúc. Tình cảm trong thơ vì thế đem đến cho người đọc những cảm xúc “thực hơn cả đời thực”, giúp ta được sống thêm nhiều cung bậc, nhiều khả thể trong tâm hồn. Giữa những diễn ngôn về nữ quyền ngày này, nơi người nữ được khẳng định là độc lập về mặt cảm xúc và không còn phụ thuộc vào tình yêu thì khi quay trở về những thập niên 80 của thế kỉ trước, đắm chìm trong những vần thơ tình của Xuân Quỳnh, người ta lại thấy một góc nhìn rất khác. Triết lí về tình yêu trong thơ của chị độc đáo ở chỗ chị dám thành thực thừa nhận khát khao của mình, những yếu đuối của mình mà không chối bỏ nó. Với Xuân Quỳnh, tình yêu là nguồn sống, là toàn bộ cuộc đời của chị. Vì thế, dù có trải qua nhiều mất mát, tổn thương và cay đắng trong tình yêu, chị vẫn sẵn sàng hiến dâng trái tim của mình:
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Nữ quyền đôi khi không chỉ là việc người nữ khẳng định vị thế của mình mà nữ quyền còn là việc người nữ sẵn sàng sống chân thực với cảm xúc và bản ngã của mình, sẵn sàng trao đi tình yêu và được yêu. Trái tim yêu thiết tha đem lại cho Xuân Quỳnh nhiều đau khổ nhưng bên cạnh đó, nó cũng khiến cho cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống một cách trọn vẹn. Như vậy, triết lí về tình yêu của Xuân Quỳnh đã giúp người nữ trân trọng tiếng nói và khát khao của mình, dám sống với những giá trị mình đang có.
Giãi bày cảm xúc trong thơ thì dễ dàng nhưng để nâng cảm xúc ấy lên thành trí tuệ, thành những đúc kết có tính phổ quát thì không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi nhà thơ phải là người sống sâu sắc, giàu chiêm nghiệm về đời sống và biết khái quát những điều mình trải qua thành những triết lí muôn thuở. Sự đan kết giữa một trái tim giàu cảm xúc và một trí tuệ đầy sắc sảo sẽ làm nên một nhà thơ vĩ đại và tầm vóc. Tình cảm và trí tuệ vì thế không tách rời mà luôn cần đến nhau, bổ sung cho nhau và nâng đỡ nhau.
Tình cảm bao đời nay vốn là sinh mệnh của thơ ca. Bước vào thế giới của thi ca tức là bước vào thế giới của những giai điệu - những khúc nhạc lòng của tâm hồn, là được chứng kiến những ngóc ngách bí ẩn trong sâu thẳm nội tâm của chính mình, là được bày tỏ nỗi niềm tri âm, tri kỉ với những tấc lòng đồng điệu. Thế nhưng, sự hấp dẫn của thi ca liệu có phải chỉ đến yếu tố tình cảm? Tình cảm là khởi nguồn của thi ca nhưng thứ khiến thơ ca có thể tồn tại qua nhiều năm tháng, bất chấp những thăng trầm của thời gian và cuộc đời chính là trí tuệ. Nói cách khác, cảm xúc trong thơ cần sự nâng đỡ đến từ sức mạnh của chất triết lí. Mỗi nhà thơ vừa là một thi nhân nhưng đồng thời cũng vừa phải là một triết nhân. Anh phải là người biết cân bằng cán cân cảm xúc trong mình, làm sao để tác phẩm của mình không trở nên ủy mị, yếu đuối vì chỉ dung chứa những cảm xúc hời hợt, dễ dãi và cũng phải làm sao để không biến thi phẩm của mình trở thành một bài tuyên ngôn khô khan, đơn điệu chỉ vì đưa ra những bài học, những cách ứng xử đạo đức cứng nhắc, giáo điều. Làm được điều đó âu cũng là một thách thức với người sáng tạo nghệ thuật.
Trí tuệ trong thơ ở đây thực chất là muốn đề cập đến những triết lí, những thông điệp, những cách nhìn mà nhà thơ muốn gửi gắm trong tác phẩm. Trên thực tế, tình cảm và trí tuệ luôn có mối quan hệ gắn kết bền chặt trong thi ca. Vì thơ ca dẫu là sản phẩm tinh thần của nhà thơ, kết tinh những điều gan ruột, khắc khoải nhất trong tâm hồn nhà thơ thì đích đến sau cùng của nó vẫn là người đọc. Tình cảm thơ ca vì thế mang tính cá nhân chứ không có tính cá biệt, đơn lẻ như những ốc đảo cô độc. Muốn làm được điều đó, tình cảm mà nhà thơ truyền tải cũng không thể nhỏ bé, giản đơn, tầm thường mà cần gửi gắm qua đó những giá trị sống, những kinh nghiệm phổ quát của nhân sinh để chạm đến cõi lòng của muôn người, muôn đời. Khi ấy, rõ ràng tình cảm đã được trí tuệ soi rọi và nâng đỡ. Trí tuệ đã trở thành phương tiện đắc lực giúp cho thơ ca thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của một cộng đồng, một dân tộc thậm chí là đời sống của cả nhân loại. Bên cạnh đó, tôi cho rằng mỗi nhà thơ bước lên văn đàn bao giờ cũng muốn khẳng định tài năng và tầm vóc của mình, do đó lẽ dĩ nhiên họ sẽ luôn mong muốn tình cảm mà mình thể hiện trong thơ được phát huy hết những chiều kích rộng lớn của nó. Tình cảm khi được mở rộng tận độ giới hạn sẽ chạm đến trí tuệ. Nghĩa là nhà thơ sẽ mượn tình cảm để đem đến những nhận thức mới cho người đọc, khai mở những tầng sâu mới của trí tuệ.
Xuân Diệu trong suốt hành trình sống của mình luôn bị ám ảnh bởi sự trôi chảy của thời gian. Đối với ông, thời gian là hữu hạn, mỗi khoảnh khắc trôi qua cũng đồng nghĩa với sự tàn lụi, biến mất. Thơ ca vì thế là hình thức để thi nhân chống trả lại trước sự trôi chảy của thời gian và mở rộng biên độ sống của chính mình. Nỗi lòng trân quý cuộc sống của nhà thơ đã được nhà thơ nâng lên thành những triết lí về thời gian vô cùng sâu sắc:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
hay
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Hiếm có ai đưa ra triết lí về thời gian độc đáo như Xuân Diệu. Ông nhìn thấy cái sắp xảy ra, sẽ xảy ra trong cái chưa xảy ra và đang xảy ra: xuân đang tới nhưng cũng đồng nghĩa với xuân đã qua, xuân đang còn non cũng đồng nghĩa với xuân đang già. Con người ấy không đợi đến nắng hạ mới hoài xuân mà đã cảm thấy nhớ thương và tiếc nuối mùa xuân ngay trong chính khoảnh khắc mùa xuân căng tràn nhất. Thậm chí ngay trong khoảnh khắc “tay trong tay” với người yêu, cảm giác chia lìa và dự cảm xa cách đã choán ngợp tâm hồn thi nhân: “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt/ Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài”. Với một con người ham sống đến vô biên, tuyệt đích thì có lẽ chăng, điều mà Xuân Diệu lo sợ nhất chính là những điều đẹp đẽ trong cuộc đời mình sẽ biến mất. Xuân Diệu không chỉ sống trong hiện tại, ông chạy đua với tương lai. Vì ý thức được sự thay đổi của thời gian nên nhà thơ mới khao khát được chống trả nó bằng việc tăng cường độ sống, tốc độ sống và hơn cả là nuôi dưỡng tình yêu và khát vọng sáng tạo nghệ thuật. Triết lí về thời gian của Xuân Diệu chính là điều khiến cho thơ ca của ông không bao giờ cũ mòn mà vẫn rất thiết thực với con người muôn thế hệ.
Tình cảm thiết tha trong thơ kết hợp cùng chiều sâu trí tuệ sẽ tạo nên sự sâu sắc trong cảm xúc. Tình cảm trong thơ vì thế đem đến cho người đọc những cảm xúc “thực hơn cả đời thực”, giúp ta được sống thêm nhiều cung bậc, nhiều khả thể trong tâm hồn. Giữa những diễn ngôn về nữ quyền ngày này, nơi người nữ được khẳng định là độc lập về mặt cảm xúc và không còn phụ thuộc vào tình yêu thì khi quay trở về những thập niên 80 của thế kỉ trước, đắm chìm trong những vần thơ tình của Xuân Quỳnh, người ta lại thấy một góc nhìn rất khác. Triết lí về tình yêu trong thơ của chị độc đáo ở chỗ chị dám thành thực thừa nhận khát khao của mình, những yếu đuối của mình mà không chối bỏ nó. Với Xuân Quỳnh, tình yêu là nguồn sống, là toàn bộ cuộc đời của chị. Vì thế, dù có trải qua nhiều mất mát, tổn thương và cay đắng trong tình yêu, chị vẫn sẵn sàng hiến dâng trái tim của mình:
Em trở về đúng nghĩa trái-tim-em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Nữ quyền đôi khi không chỉ là việc người nữ khẳng định vị thế của mình mà nữ quyền còn là việc người nữ sẵn sàng sống chân thực với cảm xúc và bản ngã của mình, sẵn sàng trao đi tình yêu và được yêu. Trái tim yêu thiết tha đem lại cho Xuân Quỳnh nhiều đau khổ nhưng bên cạnh đó, nó cũng khiến cho cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống một cách trọn vẹn. Như vậy, triết lí về tình yêu của Xuân Quỳnh đã giúp người nữ trân trọng tiếng nói và khát khao của mình, dám sống với những giá trị mình đang có.
Giãi bày cảm xúc trong thơ thì dễ dàng nhưng để nâng cảm xúc ấy lên thành trí tuệ, thành những đúc kết có tính phổ quát thì không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi nhà thơ phải là người sống sâu sắc, giàu chiêm nghiệm về đời sống và biết khái quát những điều mình trải qua thành những triết lí muôn thuở. Sự đan kết giữa một trái tim giàu cảm xúc và một trí tuệ đầy sắc sảo sẽ làm nên một nhà thơ vĩ đại và tầm vóc. Tình cảm và trí tuệ vì thế không tách rời mà luôn cần đến nhau, bổ sung cho nhau và nâng đỡ nhau.