Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Tập thơ “Việt Bắc” ra đời và được in lần đầu năm 1954, đánh dấu sự trưởng thành về nghệ thuật, độ chín về tư tưởng của Tố Hữu, và là một trong những tập thơ mà ở đó, tính dân tộc đã đạt đến độ nhuần nhị, tự nhiên.

Trong tập thơ này, bài thơ cùng tên “Việt Bắc” có thể được coi là một bức tranh tâm hồn tiêu biểu của nhà thơ, mà ở đó, những đường nét của tính dân tộc hiện lên vô cùng đằm thắm, mặn mà, sâu lắng lạ.

A. DẪN NHẬP

Văn chương có thể không biên giới nhưng mỗi nhà văn nhất nhất định phải có quê hương. Đó là nơi họ sinh ra, lớn lên, được tưới tắm trong dòng sông văn hóa; là nơi những thuần phong mĩ tục từ bao đời truyền lại sẽ thấm sâu vào tận đáy tâm hồn. Và để rồi khi cầm bút, dù vô thức hay hữu thức, những giá trị cộng đồng ấy sẽ chi phối cảm xúc, suy nghĩ của nhà văn trong việc tìm kiếm đề tài, xây dựng hình tượng, sử dụng ngôn từ, tổ chức kết cấu, lựa chọn giọng điệu. Tất cả những điều đó làm nên tính dân tộc trong một tác phẩm, tạo nên cái đặc trưng, nét độc đáo không thể trộn lẫn với bất cứ một tác phẩm thuộc bất cứ một dân tộc, một nền văn hóa nào khác.

Tố Hữu cũng không ngoại lệ. Thậm chí, trong thơ Tố Hữu, tính dân tộc đã trở thành một đặc trưng cơ bản, nổi bật, chói sáng, phủ trùm toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông. Hẳn bởi vì từ thở ấu thơ, tâm hồn ông đã được tắm mát trong những bài ca dao, những câu Kiều từ lời ru ngọt ngào của mẹ; những câu hò dân gian mái nhì mái đẩy của những người làm nghề thuyền chài lênh đênh trên sóng nước sông Hương. Và cũng bởi vì ông lớn lên trong một thời đại hào hùng, một thời đại mà hơn bao giờ hết, truyền thống dân tộc được khơi dậy một cách mạnh mẽ, lòng tự hào dân tộc được thăng hoa để “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh). Tố Hữu lại là người giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Trong lúc các nhà thơ cùng thời đang “Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, thì trái tim của người thanh niên Tố Hữu buổi ấy đã sớm “bừng nắng hạ”, đã tìm được đường đi của mình – đó là suốt đời phụng sự cách mạng, phụng sự nhân dân:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”

Tất cả những lí do ấy đã làm nên một phong cách thơ Tố Hữu “đậm đà bản sắc dân tộc”. Những vần thơ của ông, như ca dao, như Truyện Kiều, như lời tâm tình mộc mạc và xúc động của những người dân lao động ngàn đời, đã ngay lập tức đi vào lòng mọi thế hệ người dân Việt.

Tập thơ “Việt Bắc” ra đời và được in lần đầu năm 1954, đánh dấu sự trưởng thành về nghệ thuật, độ chín về tư tưởng của Tố Hữu, và là một trong những tập thơ mà ở đó, tính dân tộc đã đạt đến độ nhuần nhị, tự nhiên. Trong tập thơ này, bài thơ cùng tên “Việt Bắc” có thể được coi là một bức tranh tâm hồn tiêu biểu của nhà thơ, mà ở đó, những đường nét của tính dân tộc hiện lên vô cùng đằm thắm, mặn mà, sâu lắng lạ.

B. BIỂU HIỆN CỦA TÍNH DÂN TỘC TRONG ĐOẠN TRÍCH “VIỆT BẮC”

Tính dân tộc, cũng như mọi phẩm tính khác của văn chương, đôi khi chỉ cảm chứ không nhận được. Nó hòa tan trong mọi ngõ ngách tế vi nhất của tâm hồn tác giả, và khi tác giả bước vào “cơn lên đồng” sáng tạo, nó cũng lan tỏa, thấm đẫm man mác vào mọi yếu tố của tác phẩm. Huống chi tác phẩm lại là một chỉnh thể hài hòa không thể phân tách. Bởi nguyên do đó, để đưa ra các biểu hiện của tính dân tộc trong một bài thơ, quả thật khó như vớt trăng dưới nước, bắt gió trong tay. Tuy nhiên, “liệu cơm gắp mắm”, với mục đích cung cấp cho các em học sinh một cái nhìn khái lược về vấn đề này, ở đây, thầy cũng xin mạn phép được dùng thao tác phân tích để đưa ra một số khía cạnh mà theo quan điểm chủ quan của thầy, tính dân tộc dễ nhận thấy nhất.

I. TÍNH DÂN TỘC BIỂU HIỆN TRÊN PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

1. Thể thơ:

- Trong văn chương hiện đại Việt Nam, Tố Hữu có thể coi là một trong những tác giả sử dụng thành công thể thơ lục bát. Thơ lục bát vốn được coi là một “đặc sản” tinh thần của dân tộc. Nó khởi phát từ ca dao. Bởi vậy, nó mang theo trong mình cả một di sản văn hóa của dân tộc: Đó là lời ăn tiếng nói, là nếp suy nghĩ, là điệu tâm hồn của nhân dân từ ngàn xưa. Thật vậy, đi tìm hồn cốt dân tộc trong văn chương thì không ở đâu đậm đặc cho bằng trong lục bát.

- Tố Hữu đã kế thừa di sản tinh thần ấy, vận dụng nó một cách nhuần nhị, tự nhiên đến nỗi, thơ cứ tuôn ra như một dòng chảy trong ngần, không vướng bụi. Rất nhiều câu thơ dường như đã đạt đến độ chuẩn mực của ca dao, đọc lên ta cứ ngỡ đấy là những câu hát ân tình của đôi trai gái nơi thôn quê đồng ruộng Việt vào một thuở xa xưa nào đó:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

- Lục bát vốn sử dụng ngôn ngữ rất giản dị, nhưng không vì thế mà trở thành đơn giản, dễ dãi. Cái hay của thể thơ này là, bằng những ngôn ngữ rất đời thường, rất bình dân, nó lại mang đến cho ta những rung cảm thẩm mĩ rất sâu sắc.

Có được điều ấy là bởi vì trong lục bát, từ ngữ được chắt lọc, không thừa không thiếu. Sự kết hợp của các từ ngữ lại rất bất ngờ. Khi đọc lục bát, ta đang xuôi đi theo cái mạch tự nhiên của lời ăn tiếng nói, bỗng bị “sốc” thẩm mĩ bởi những hình ảnh, những ẩn ý vô cùng sáng tạo. Và thế là, trong ta cứ ngân nga mãi cái điệu nhạc huyền diệu của những câu thơ ấy. Ca dao có rất nhiều ví dụ có thể dẫn ra để minh chứng cho điều đó:

“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”

Hay:

“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”

- Trong “Việt Bắc”, ta bắt gặp rất nhiều câu thơ như thế: cũng là một thứ ngôn ngữ giản dị, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng ngày, nhưng khi đọc xong, ta lại không thể dứt áo ra đi, cứ phải nán lại vì câu thơ vừa đem đến một cảm nhận mới lạ, độc đáo khiến ta phải tấm tắc:

“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

2. Kết cấu
Việc sử dụng thể thơ lục bát đã giúp Tố Hữu có điều kiện thuận lợi để đưa vào trong thơ mình những cái gì tinh túy nhất, hồn cốt nhất, đặc sắc nhất của ca dao. Một trong những yếu tố ấy là kết cấu đối đáp. Đối đáp giao duyên thực sự là một nét độc đáo trong văn hóa người Việt: người ta chuyển tải tình cảm bằng những lời hát vừa giàu tính nghệ thuật, lại vừa diễn tả được một cách rất đắc địa tâm ý của mình đến người nghe.

Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã khai thác đặc điểm ấy một cách hiệu quả: Cuộc chia tay giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc - một vấn đề ít nhiều mang tính thời sự, chính trị bỗng chốc trở thành một cuộc hát giao duyên đôi lứa. Thông qua cuộc đối đáp ấy, biết bao nhiêu kỉ niệm đã được tái hiện, bao nhiêu tình nghĩa đã được giãi bày, bao nhiêu lời nhắc nhở, thề thốt đã được nói ra:

“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”

“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

3. Cách diễn đạt

Một đặc điểm nữa làm nên tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” đó chính là việc sử dụng lối bày tỏ tâm tình kín đáo của ca dao. Con người Việt Nam xưa nay vẫn có lối giao tiếp bằng thứ ngôn ngữ đa nghĩa, tầng tầng lớp lớp, nhiều ẩn ý, nhiều ví von so sánh.
Nguyên do là bởi ý thức cá nhân ít nhiều chưa phát triển, người ta sống với sự cố kết cộng đồng mạnh mẽ, trước mỗi lời ăn tiếng nói đều phải rào trước đón sau, làm sao để vẫn nói được điều mình cần nói nhưng không trở thành quá táo bạo, sỗ sàng. Thêm nữa, với lối sống coi trọng tình nghĩa, người ta không muốn và cũng không nỡ làm mất lòng nhau, không nỡ đe dọa đến thể diện, xúc phạm đến lòng tự trọng của người khác. Trong hành xử, người ta thích “chín bỏ làm mười”. Trong lời nói, người ta biết “Lời nói chẳng mất tiền mua”, cho nên phải “Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Đọc ca dao, ta thấy được nét đẹp tinh tế đó trong đời sống tâm hồn của người dân lao động được bộc lộ rõ nét: từ cách chào hỏi, mời mọc, biểu lộ tình cảm cho đến sự nhờ vả, cầu cạnh, chê bai v.v…, tất cả đều được chuyển tải qua một thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, mang đậm tính ẩn dụ chứ không hề sỗ làng, vô ý tứ. Đây là câu ướm hỏi của chàng trai về “tình trạng mối quan hệ” của cô gái:

“Gặp đây Mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”

Đây là một lời tỏ tình:

“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?”

Đây là một lời trách móc:

“Ngày đi bóng hãy còn dài
Ngày về bóng đã nghe ai bóng tròn”

Đây là một câu mai mỉa:

“Nghe đồn bác mẹ anh hiền
Cắn hạt cơm không vỡ, cắn đồng tiền vỡ tư”


Nguyễn Bính cũng từng vận dụng rất thành công lối bày tỏ kín đáo này:

“Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn núi, cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng thương em”.

Trong “Việt Bắc”, ta bắt gặp rất nhiều câu thơ mà ở đó, kẻ đi và người ở bộc lộ nỗi lòng mình qua một hệ thống các hình ảnh mang tính chất ám chỉ, ẩn dụ. Điều này làm cho sự giãi bày vừa kín đáo, có duyên, lại vẫn vừa truyền tải được thông điệp một cách vô cùng hiệu quả:

“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.

“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

4. Giọng điệu

Việc vận dụng ca dao cũng đem đến cho bài thơ “Việt Bắc” một giọng điệu tâm tình ngọt ngào, sâu lắng. Người Việt thích lối nói có vần điệu, lên bổng xuống trầm, hài hòa cân đối, giàu nhạc tính. Bởi lối nói ấy nó thể hiện được cái điệu hồn thuần hậu, giàu tình cảm, tạo nên âm điệu du dương, dễ đi vào lòng người, dễ lôi cuốn lòng người. Đọc nhiều câu thơ trong “Việt Bắc”, ta cảm nhận được cái giọng điệu ngọt ngào ấy làm câu thơ như tan chảy, và cứ thế nó tìm được con đường ngắn nhất để lay động trái tim:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Thậm chí có những câu thơ chỉ liệt kê địa danh, nhưng chính cái giọng điệu ngọt ngào đã làm cho nó trở nên da diết, khiến lòng ta bồi hồi:

“Ai về ai có nhớ không
Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà”.

II. TÍNH DÂN TỘC BIỂU HIỆN TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

Tính dân tộc không chỉ được biểu hiện qua các thủ pháp nghệ thuật mà ta vừa phân tích ở trên, mà nó còn thấm đẫm trong nội dung tác phẩm. “Việt Bắc” là khúc ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến và con người kháng chiến, về phẩm tính cao đẹp của con người Việt Nam qua mọi thời đại.

1. Ca ngợi lòng yêu nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi”.
Dân tộc này có một lịch sử đặc biệt: từ khi sinh ra, nó đã phải gồng mình để chống giặc ngoại xâm, và lịch sử dân tộc không gì khác chính là quá trình đối mặt với những trận chiến triền miên để dựng nước và giữ nước. Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và đúc kết: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Bởi quá khứ đau thương ấy, bởi đất nước có được là nhờ sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ, cho nên trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, tình yêu đất nước đã trở thành dòng máu nóng luôn chảy dạt dào trong huyết quản:

“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

(“Sao chiến thắng” – Chế Lan Viên)

Năm 1946, chúng ta một lần nữa bước vào cuộc kháng chiến vệ quốc. Một lần nữa, lòng yêu nước lại sôi nổi. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược, từ trẻ tới già, từ tri thức cho tới nông dân, tất thảy đều một lòng hướng về Tổ quốc, một lòng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Quả là “nhân dân bốn cõi một nhà / Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”. Với phương châm “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, văn học nghệ thuật cũng biến thành một mặt trận, người nghệ sĩ trở thành chiến sĩ:

“Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”.

Trong thế hệ ấy, Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của văn học kháng chiến. Tiếp nối những thành tựu của các giai đoạn sáng trước đó, thơ Tố Hữu tiếp tục chinh phục những đỉnh cao nghệ thuật và tư tưởng. “Việt Bắc” có thể coi là mùa quả ngọt ngào của văn học sau cách mạng, đánh dấu sự thuần thục của một tài năng lớn. Trong bài thơ này, Tố Hữu đã thể hiện một cách đầy tự nhiên và xúc động lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.

a. Tình yêu đất nước trước hết thể hiện ở tình yêu đối với thiên nhiên.

Từ xưa đến nay, con người Việt Nam luôn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, bởi thiên nhiên vừa là môi trường sống, vừa là nơi cung cấp cho họ các điều kiện để sinh tồn. Với lối sống tự cấp, tự túc ngày xưa, thì con người hầu như dựa chỉ vào thiên nhiên để đảm bảo cuộc sống. Hơn thế nữa, thiên nhiên còn trở thành chuẩn mực của cái đẹp, để con người ngưỡng vọng, để con người nhìn vào đó mà hoàn thiện chính mình. Cho nên, từ ngàn đời, văn học Việt Nam đã tràn ngập hình ảnh thiên nhiên. Từ trong ca dao, ta đã bắt gặp rất nhiều những câu hát ngợi thiên nhiên:

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”.

Cho đến văn học trung đại, thiên nhiên vẫn chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong thơ: Đó là cảnh sông nước hùng vĩ trong thơ Trương Hán Siêu: “Bát ngát sóng kình muôn dặm / Thướt tha đuôi trĩ một màu / Nước trời một sắc / Phong cảnh ba thu”. Đó là bức tranh thiên nhiên yên ả trong thơ Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương / Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ / Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Đến văn học hiện đại, nhất là trong văn học kháng chiến, thiên nhiên càng được các nhà thơ, nhà văn lưu tâm, yêu mến. Bởi trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng, họ càng ý thức được một cách sâu sắc vẻ đẹp của non sông gấm vóc:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”.

Trong “Việt Bắc”, Tố Hữu đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết qua việc tái hiện một cách bao quát và chân thực bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng của chốn núi rừng miền bắc Tổ quốc, mà ấn tượng nhất có lẽ là ở đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình. Ở đây, ta thấy được sự luân chuyển bốn mùa một cách rõ nét, và tuy mỗi mùa mỗi vẻ, nhưng đều “mười phân vẹn mười”: nào là bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy sức sống với màu hoa chuối đỏ trên phông nền của những cánh rừng xanh thẳm. Nào là mùa xuân thanh khiết, tinh khôi với bạt ngàn hoa mơ nở trắng. Nào là mùa hè rộn ràng với dàn đồng ca của tiếng ve ngân và màu vàng rực rỡ của những rừng “rừng phách” trổ hoa đồng loạt. Nào là mùa thu êm dịu, thanh bình với trăng sáng trên đầu núi, với giọng hát ai ngọt ngào, bay bổng, sâu nặng ân tình. Ống kính của nhà thơ còn bắt được những khoảnh khắc vô cùng đẹp đẽ mà có lẽ chỉ có chốn núi rừng Việt Bắc mới có được: Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”; là hình ảnh “từng bản khói cùng sương”, hình ảnh “rừng nứa bờ tre / Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

b. Tình yêu nước thể hiện qua truyền thống anh hùng

Như đã nói, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, cho nên, truyền thống yêu nước gắn bó một cách hữu cơ với truyền thống anh hùng. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, mỗi người dân đều có ý thức về trách nhiệm của mình, bởi đối với người dân Việt Nam, nước cũng là nhà, nước nhà, đất nước cũng là một gia đình lớn. Họ sẵn sàng hy sinh những lợi ích cá nhân để xông pha nơi trận tuyến, vì đất nước mà không quản ngại phải đổ máu xương. Trên đất nước này, trong những thời kì khói lửa, mỗi người dân bình thường đều có thể trở thành những người anh hùng vĩ đại. Đúng như Nguyễn Trãi đã tổng kết:

“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Họ trở thành anh hùng không phải vì muốn lưu danh sử sách, mà chỉ vì họ có một lòng yêu nước nồng nàn, dẫn đế một niềm khao khát cháy bỏng: được đánh giặc cứu nước:

“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm
Mỗi em bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi dòng sông đều muốn hóa Bạch Đằng”
(Chế Lan Viên)

Trong “Việt Bắc”, truyền thống anh hùng cách mạng ấy được thể hiện ở tinh thần quyết chiến quyết thắng, đạp bằng mọi khó khăn để đưa đất nước đi đến ngày thắng lợi cuối cùng. Đó là hình ảnh những đoàn dân công ra trận, với “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”; đó là những đoàn quân trùng trùng điệp điệp, hành quân ra trận với khí thế làm rung trời chuyển đất:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.

Đó là những đoàn xe lao về phía trước, ánh đèn pha xuyên thủng màn đêm dày đặc, xua đi bóng tối của đêm trường nô lệ để tiến về ngày mai tươi sáng. Và không chỉ có con người, mà thiên nhiên cũng biến thành những anh hùng, cũng cùng chung tay đánh giặc:

“Những khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.

Những con người anh hùng tạo nên một tập thể anh hùng, tạo nên một khí thế cách mạng hừng hực, tạo nên một nguồn sức mạnh vĩ đại, có thể lướt qua mọi gian nan, có thể nhấn chìm mọi kẻ thù bán nước và cướp nước. Khí thế ấy cũng đã được Nguyễn Đình Thi tái hiện qua những vần thơ dữ dội:

“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

2. Ca ngợi lối sống trọng tình nghĩa

Bên cạnh việc thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” còn biểu hiện ở việc đề cao lối sống giàu tình nặng nghĩa của những con người trong kháng chiến.

Đó trước hết là tình nghĩa sâu nặng của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến, dành cho Đảng và Bác Hồ. Mười lăm năm gắn bó, mười lăm năm chia ngọt sẻ bùi, mười lăm năm kề vai sát cánh đánh giặc cứu nước, “mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình. Trong tâm khảm của đồng bào Việt Bắc, cán bộ kháng chiến vừa là những anh hùng cũng đồng thời vừa là những người anh, người em, người con ruột thịt. Họ yêu người kháng chiến vì họ hiểu rằng: người kháng chiến đang dốc sức đêm ngày để đem lại cho họ cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, ấm no. Chỉ qua những câu giãi bày trong buổi tiễn đưa, ta cũng hiểu được mối giao tình sâu nặng:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Họ biết rằng, khi người kháng chiến đi rồi, núi rừng sẽ vắng lặng, bản làng sẽ buồn nhớ khôn nguôi:

“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”

Nó làm ta nhớ đến nỗi trông ngóng ngậm ngùi, da diết mà xúc động trong mấy câu thơ của Hoàng Trung Thông:

“Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong”

Đáp lại ân tình sâu nặng của đồng bào Việt Bắc, những người kháng chiến về xuôi cũng thể hiện lòng thương nhớ, trân trọng, quý mến vô bờ của mình. Đó là cái ngập ngừng lưu luyến trong phút chia tay:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Đó là lời thề hẹn sẽ luôn ghi nhớ đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, không bao giờ quên cái nôi của cách mạng và kháng chiến:

“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Đó là nỗi nhớ da diết về những kỉ niệm của một thời gắn bó: nào là những tháng ngày đồng cam cộng khổ “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”; nào là những lúc kề vai sát cánh đánh giặc: “rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây”; nào là những buổi liên hoan vui vẻ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”; nào là hình ảnh những người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng / Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, những cô gái Việt Bắc xinh tươi và yêu lao động; nào là những khoảnh khắc tươi đẹp và thơ mộng của bốn mùa mà chỉ có chốn núi rừng Việt Bắc mới có được; nào là những đêm hành quân ra trận đầy khí thế v.v… Biết bao nhiêu kỉ niệm mà người về xuôi sẽ luôn nâng niu và gìn giữ. Trong lòng người đi, Việt Bắc đã trở thành biểu tượng của sức mạnh, biểu tượng của vẻ đẹp con người Việt Nam trong những năm kháng chiến:

“Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”

3. Ca ngợi đức tính thủy chung

Không chỉ ca ngợi lối sống trọng tình, bài thơ “Việt Bắc” còn ca ngợi tấm lòng thủy chung son sắt của con người Việt Nam.

Đó là tình cảm trước sau như một, gắn bó keo sơn, một lòng một dạ với cách mạng, với kháng chiến, trước sau không hề thay đổi của con người Việt Bắc, thể hiện qua hình ảnh tấm “lòng son” của những con người ở những bản làng heo hút:

“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”.

Đó là tiếng hát ân tình trong một đêm trăng thơ mộng, thanh bình. Tiếng hát ngân lên như một lời giãi bày, thề hẹn:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” .

Người về xuôi cũng cất lời thề hẹn, rằng họ cũng sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ. Mãi mãi trong lòng những người kháng chiến sẽ khắc ghi ân nghĩa sâu nặng của đồng bào:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

4. Ca ngợi tinh thần lạc quan

Một lịch sử dài dằng dặc với nhiều vất vả đau thương, luôn phải đối mặt với thiên tai địch họa, kì lạ thay, lại hun đúc cho người Việt một tinh thần lạc quan mãnh liệt, luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Có lẽ người Việt hiểu rằng: chỉ có lạc quan mới giúp họ vượt thắng hoàn cảnh để xây dựng cuộc sống. Và có lẽ cũng bởi vì chính gian khổ đã tôi rèn cho họ một ý chí bền bỉ, không bao giờ khuất phục trước mọi gian nan. Chính tinh thần lạc quan đã giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi trở lực của thiên nhiên. Tinh thần lạc quan đã trở thành một nét đẹp của tâm hồn dân tộc. Ca dao xưa đã từng thể hiện tinh thần lạc quan một cách thấm thía và xúc động qua bài ca dao “Mười cái trứng”:

“Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”

Tinh thần lạc quan ấy được tiếp nối trong văn học trung đại:

“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai”

Đến văn học hiện đại, Tố Hữu tiếp tục kế thừa truyền thống ấy:

“Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”

Trong bài thơ “Việt Bắc”, tinh thần lạc quan thể hiện ở niềm tin vào sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến, niềm tin về một ngày mai đất nước sạch bóng quân thù. Cho nên, dù khó khăn thiếu thốn, dù chỉ là “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, nhưng người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc vẫn luôn có cái nhìn tích cực trong cuộc sống:

“Vui sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

Họ nhận thức được rằng, ánh sáng cách mạng sẽ soi đường chỉ lối, sẽ xua tan mọi bóng tối của đêm dài nô lệ:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

Họ còn truyền tinh thần lạc quan ấy cho mọi người dân trên dải đất Việt Nam, rằng nếu một lòng hướng về cách mạng, hướng về Đảng và Bác Hồ, thì chiến thắng là điều tất yếu:

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”

Ở phần sau của bài thơ, tinh thần lạc quan ấy càng được thể hiện một cách rõ nét. Nó không chỉ còn là niềm tin tưởng, mà đã được miêu tả như một thứ hiện thực: một cuộc sống tươi vui, tấp nập, sung túc đã đến với mọi miền của Tổ quốc Việt Nam:

“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng”

C. TỔNG KẾT

Như đã nói ở trên, tinh thần dân tộc cũng giống như mọi phẩm tính khác của tác phẩm văn chương, là cái đôi khi chỉ có thể cảm chứ không nhận được. Cho nên, dù có nói bao nhiêu đi chăng nữa, ta vẫn cảm thấy những điều mình nói vẫn là chưa đủ, vẫn là chưa đụng chạm đến cái căn cốt của vấn đề. Bằng thao tác phân tích, bài giảng này chỉ đưa ra một số biểu hiện tương đối rõ nét, nổi bật để các em dễ bề nhận diện và vận dụng. Hy vọng rằng, với những giá trị văn hóa Việt đang chảy trong dòng máu, với cảm thức về tinh thần Việt thấm đẫm trong tâm hồn, các em có thể bổ sung thêm, hoàn thiện thêm để cho sự nhận thức về tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” được toàn diện và sâu sắc.
------


Nguồn: Tạ Xuân Hải
Thêm
  • Like
Reactions: Thảo Trang
845
1
0
Đề bài: Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay. Làm sáng tỏ nhận định qua bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu.
Dàn ý:
  • “Người đọc muốn”: thi sĩ đang soi xét mình dưới góc nhìn của 1 người thưởng thức.
  • “Thơ phải xuất phát từ thực tại”: Thơ ca nói riêng và văn học nói chung đều đi ra từ hiện thực cuộc sống. Nếu không bắt vào nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy thì thơ sẽ mãi mãi là một cái cây èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những chiếc lá xanh phơi phới dưới ánh mặt trời. “thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống” - người thư kí trung thành của thời đại. Cuộc sống là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu và cũng là cái đích cuối cùng của thơ ca nghệ thuật.

  • “Nhưng phải đi qua 1 tâm hồn và trí tuệ”:
  • Tâm hồn : Tâm
  • Trí tuệ: Tài
  • Văn học phản ánh hiện thực nhưng qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ nên có thể nói. Nghệ sĩ sao có thể viết một tác phẩm- sản phẩm của thế giới tinh thần của mình nếu tâm hồn trơ như đá với cuộc đời. Thơ khởi phát từ lòng nhà thơ. Nhưng để tạo ra thi phẩm có giá trị tình cảm cần phải dung hoà với trí tuệ, sự sáng tạo. Trí tuệ tạo nên giá trị, sức sống của tác phẩm. Tình cảm để chạm tới ngóc ngách sâu nhất nơi trái tim người đọc rung lên, thổn thức cùng cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
  • “ cá thể”: nét phong cách nghệ thuật độc nhất của người nghệ sĩ soi bóng dưới trang thơ
  • “ độc đáo”: nét mới lạ thu hút độc giả
  • “Phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể độc đáo càng hay”: thơ chỉ xuất hiện những tâm hồn đồng điệu không thể dung chứa những thi phẩm giống hệt nhau. Bởi bên trong mỗi người có 1 cái tạng riêng thông qua đó thế giới được tái tạo với tài năng thiên bẩm, sự trắc ẩn và tinh tế. Vì vậy, mỗi đứa con tinh thần của thi sĩ được thai nghén đều phải mang những nét riêng biệt độc đáo sáng tạo và dấu ấn cá nhân.
=> Một tác phẩm được ra thời đều hút chất dinh dưỡng từ mạch nguồn cuộc sống mà lớn lên. Hàm chứa trong tác phẩm phải là sự tìm tòi khám phá sâu sắc của một khối óc sáng dạ và một trái tim ấm nóng để ra đời tác phẩm chỉnh thể giàu giá trị thẩm mĩ và nội dung.
  1. Phân chia luận điểm :
LĐ1: Việt Bắc là bài thơ xuất phát từ hiện thực:
  • Hoàn cảnh ra đời của nó
  • Hình ảnh thơ gắn với những trải nghiệm thực tế của tác giả
LĐ2: Việt Bắc thể hiện tâm hồn và trí tuệ của Tố Hữu:
  • Sự gắn bó, tình cảm sâu nặng với người dân Việt Bắc “ Ta về mình có nhớ ta …. Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
  • Nỗi nhớ cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc: bức tranh tứ bình
  • Cái nhìn yêu thương giành cho con người Tây Bắc lam lũ vất vả “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng”
  • Tình đồng chí “Nhớ khi giặc đến giặc lùng….Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
  • Nghĩa đồng bào “Ta đi ta nhớ những ngày…. Bát cơm sẻ nửa chăn xui đắp cùng”
LĐ3: Việt Bắc in nét đẹp độc đáo, cá thể trong PCNT của Tố Hữu:
  • Nét độc đáo cá thể: PCNT: trữ tình chính trị
  • Độc đáo:
  • Nhạc điệu ca dao dân ca
  • kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên ngọt ngào
  • ngôn ngữ quen thuộc giàu tính nhạc
  • các biện pháp tu từ được kết hợp sử dụng khéo léo gây ấn tượng vớ người đọc Phía trên chỉ là dàn ý sơ lược mang tính định định hướng, hi vọng mọi người từ đó có thể tạo nên được một bài viết hay mang bản sắc cá nhân riêng của mình
    VB.jpg
Thêm
Chứng minh LLVH qua bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
1K
0
2

Vanhoctre

Văn Học Trẻ
Thành viên BQT
19/8/19
804
680
362,999
Việt Nam
vanhoctre.com
Xu
1,338,895
Em làm theo hướng dẫn để phá bỏ định dạng không phù hợp.

Screenshot_20221015_234659_Chrome.jpg



Thêm nữa, nếu tài liệu em soạn có tham khảo nhiều tư liệu khác thì cần ghi có tham khảo (Internet chẳng hạn), hoặc sưu tầm.
 
Bài thơ Việt Bắc nằm trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu, một tập thơ kháng chiến, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến.

Bài thơ ra đời gắn với một thời điểm lịch sử: Đó là cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm gian khổ và vô cùng anh dũng của đất nước ta, của nhân dân ta vừa khép lại, chuyển sang một thời kỳ cách mạng mới: Hòa bình xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Bài thơ Việt Bắc đã đưa người đọc trở về với những nhớ thương, những kỷ niệm, những nghĩa tình sâu nặng của những người cán bộ kháng chiến với chiến khu Việt Bắc.

Đoạn thơ:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

Được đánh giá là đạt đến độ toàn bích, thể hiện được nét đặc sắc trong vẻ đẹp ngòi bút thơ Tố Hữu.

Đoạn thơ có thể chia làm hai phần, phần đầu gồm hai câu:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người."

Như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó người ra đi (như người con trai) vừa ướm hỏi lòng người ở lại (như người con gái), vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần hai gồm tám câu, chia đều thành bốn cặp lục bát, mỗi cặp câu đều xuất hiện hình ảnh hoa và hình ảnh con người. Có thể gọi đó là một bức tranh tứ bình về bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền quê cách mạng này.

Cấu tứ của cả bài thơ theo lối đối đáp trong hát giao duyên (của dân ca quan họ) và hai câu mở đầu trong đoạn thơ này cũng được viết theo lối cấu tứ ấy.

Lời đối là lời của người ra đi nhưng được thực hiện như là lời của người con trai trong cuộc hát giao duyên, đối đáp.

"Ta về, mình có nhớ ta".

Chữ “mình” được dùng ở ngôi thứ hai. Thường thì, trong cuộc sống, việc sử dụng ngôn từ như thế chỉ xuất hiện trong quan hệ tình yêu lứa đôi hoặc tình cảm vợ chồng.

Lời lẽ ấy, đủ tạo được giọng điệu ngọt ngào và sắc thái thân mật trong quan hệ người đi - kẻ ở. Câu thơ, không chỉ đơn thuần là một lời hỏi rằng người ở lại có nhớ người ra đi hay không mà còn ngầm chứa một thông điệp khẳng định về tình cảm của người ra đi rằng: Ta chẳng biết mình có nhớ ta không nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà, nỗi nhớ mới thật là tế nhị, thật là duyên dáng:

"Ta về, ta nhớ những hoa cùng người."

Thiên nhiên Việt Bắc, đâu chỉ có vẻ đẹp của hoa. Và ở đây, hoa được đồng hiện với người. Đó, hẳn là một dụng ý nghệ thuật của Tố Hữu. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên và con người là đối tượng đẹp nhất của cuộc sống. Dân gian có câu “Người ta là hoa của đất”. Vì lẽ ấy, hoa và người đồng hiện là sự đồng hiện của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất trong cuộc sống này. Phải là “hoa cùng người” chứ không thể là “hoa và người” vì nếu như thế thì sẽ không làm rõ được sự hòa đồng, sự soi chiếu, sự bổ sung của cả hai đối tượng; hoa tô điểm cho người và con người xuất hiện làm cho hoa thêm sinh động có hồn.

Hai câu thơ còn như một lời giới thiệu khái quát, như lời đề từ dẫn dụ người đọc vào bức tranh tứ bình về “hoa cùng người” Việt Bắc.
Với nghệ thuật hội họa trung đại, tranh tứ bình là bộ tranh phổ biến gồm bốn bức, mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Như tùng - cúc - trúc - mai; ngư - tiều - canh - mục; long - li - quy - phượng.v.v...Mỗi bộ tranh như thế, tự nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng.

Đoạn thơ của Tố Hữu là bộ tranh tứ bình đẹp và đáng quý về “hoa cùng người” của bốn mùa ở Việt Bắc.

Mở đầu, là bức tranh mùa đông, Việt Bắc hiện lên như một miền quê lặng lẽ:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."

Chỉ một chữ “xanh” nhưng người đọc cũng hình dung được đó là sắc màu cơ bản của bức tranh này. Màu xanh làm nền cho “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật. Nếu màu xanh gợi ra vẻ mênh mông, trầm tĩnh của cảnh thiên nhiên nơi núi rừng thì màu đỏ của hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Gắn với hoa chuối, có lẽ chỉ một từ thích hợp là “đỏ tươi”. Hình ảnh hoa chuối bổ sung cho gam màu của bức tranh phong cảnh về mùa đông thêm sinh động, sáng tươi. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện.

"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."
Không phải ngẫu nhiên tác giả nhớ về hình ảnh con người gắn với vị trí đang là ở “đèo cao”. Tại đỉnh đèo, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao gài ở thắt lưng của con người sẽ lóe sáng, lấp lánh. Không chỉ là thiên nhiên tô điểm cho vẻ đẹp của con người mà quan trọng hơn là câu thơ gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của con gnười làm chủ nơi núi rừng.

Bức tranh thứ hai, phác họa cũng chỉ bằng vài nét chấm phá về thiên nhiên và con người trong mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc:

"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."

Khác với bức tranh mùa đông có nền là màu xanh trầm tĩnh, mùa xuân, nền là màu trắng của hoa mơ. Và, nếu ở bức tranh thứ nhất, màu đỏ của hoa chuối làm nền cho bức tranh tươi sáng thì ở đây, hai chữ “trắng rừng” cũng làm bừng sáng bức tranh phong cảnh.

Trên nền cảnh ấy, hiện ra hình ảnh con người với công việc thầm lặng:

"Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."

Công việc ấy, không chỉ cần sự chăm chỉ, còn cần sự cẩn trọng và khéo léo. Câu thơ giúp ta hiểu thêm một nét phẩm chất đáng quý nữa ở người dân Việt Bắc.

"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình."

Khác với hai bức tranh trên, chủ yếu được tái hiện bằng màu sắc, đường nét và ánh sáng. Bức tranh thứ ba đã xuất hiện âm thanh. Đó là tiếng nhạc của ve. Dù không tả trực tiếp âm thanh của ve nhưng qua thực tế, có thể khẳng định: Âm thanh tiếng ve là âm thanh rộn ra sôi động - âm thanh có thể làm xao động cả không gian. Hè đến thì ve kêu hay âm vang tiếng ve là lời mời gọi mùa hè xuất hiện? Chỉ biết rằng khi hè đến thì mọi người được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu của rừng phách.

Chữ “đổ” trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không chỉ có ý nghĩa là “ngả” (ngả màu) mà còn nói rõ sự mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn còn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chỉ trong một vài ngày, màu vàng đã chiếm lĩnh không gian của khu rừng mùa hạ. Trên nền cảnh ấy, xuất hiện hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh cô gái gắn với công việc như thế gợi ra một vẻ đẹp chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm.

Bộ tranh tứ bình, kết thúc bằng bức tranh mùa thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, bức tranh thu là cảnh đêm:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình".

Vầng trăng tỏa sáng trong rừng thu. Đó là một cảnh đẹp, nên thơ, huyền ảo, phù hợp cho việc xuất hiện âm thanh của tiếng hát:

"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

“Tiếng hát ân tình” biểu hiện ân tình của người hát. Câu thơ, vì thế mà gợi ra đầy đủ vẻ tình tứ của người trong khúc hát giao duyên. Nhưng không chỉ có thế, qua tiếng hát ấy, ta còn thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc dành cho cán bộ kháng chiến, cho cách mạng.

Bốn bức tranh là bốn cảnh sắc của bốn mùa trong năm tại Việt Bắc đồng thời cũng là bốn dáng điệu, bốn nét phẩm chất nổi bật của con người trên quê hương cách mạng. Bốn chữ gắn với bốn bức tranh tạo nên âm hưởng mặn mà, da diết của cảm xúc, của giọng điệu ngọt ngào, ân tình tha thiết - giọng điệu riêng của thơ Tố Hữu.

Cre: Hồ Đức Việt
Thêm
679
0
1
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, luôn tràn đầy cảm hứng ngợi ca về lãnh tụ và quần chúng với những vần thơ giản dị, sâu sắc, đậm đà tính dân tộc. Thơ ông theo sát những chặng đường cách mạng gian lao mà rất đỗi hào hùng, vinh quang của dân tộc, vì lẽ đó các nhà phê bình phong tặng cho ông một danh hiệu cao quý: “Người chép sử bằng thơ”.

Tác giả Tố Hữu.png

Tác giả Tố Hữu. Ảnh mạng.
Những chặng đường thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với những chặng đường cách mạng của bản thân nhà thơ, với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam: điều này được thể hiện rõ rệt qua 7 tập thơ trong cuộc đời sáng tác của Tố Hữu.
+ Tập thơ Từ ấy (1937 - 1946): đánh dấu chặng đường đầu 10 năm thơ Tố Hữu, cũng là 10 năm hoạt động cách mạng từ giác ngộ, thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng, gắn với 10 năm nhiều biến cố của lịch sử dân tộc.

+ Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954): đánh dấu chặng đường hoạt động sôi nổi của Tố Hữu và phản ánh cuộc đấu tranh gian lao, hùng tráng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn quân, toàn dân ta. Tập thơ kết tinh những tình cảm lớn mà bao trùm là tình yêu nước, khắc họa hình tượng quần chúng kháng chiến với một nghệ thuật giàu tính dân tộc và cảm hứng sử thi – trữ tình.

+ Tập thơ Gió lộng (1955 - 1961): bộc lộ niềm tự hào của con người làm chủ đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn đậm nét. Tập thơ tiếp tục bám sát cuộc đời nhà thơ và chặng đường lịch sử của dân tộc với việc ca ngợi cuộc sống mới trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bày tỏ nỗi nhớ thương quê hương miền Nam, căm giận bè lũ bán nước và cướp nước, ngợi ca những con người kiên trung, hướng về ngày thống nhất.

+ Tập thơ Ra trận (1962 - 1971): là khúc anh hùng ca về miền Nam trong kháng chiến, là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tấn công với khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

+ Tập thơ Máu và hoa (1972 - 1977): ghi lại chặng đường cách mạng gian khổ và hi sinh, khẳng định niềm tin vào sức mạnh của nhân dân, niềm vui niềm tự hào khi đất nước hoàn toàn giải phóng. Thơ Tố Hữu thời chống Mỹ đậm tính chính luận và cảm hứng sử thi.

+ Tập thơ Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999): bày tỏ những chiêm nghiệm, suy tư về cuộc sống, hướng tới những quy luật phổ quát và những giá trị bền vững.

Một số những nhận định của các thi nhân về Tố Hữu:

1. “Thời đại ta đã may mắn có được nhà thơ Tố Hữu” (Hoài Thanh)

2. Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. (Xuân Diệu - "Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu")

3. “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”. (Đặng Thai Mai - Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959)

4. Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi. (Tố Hữu - "Nhà văn nói về tác phẩm")

5. Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. (Xuân Diệu - "Tố Hữu với chúng tôi")

6. “Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ”. (Hoàng Trung Thông - Chặng đường mới của chúng ta, 1961)

7. Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.
(Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)

8. Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.
(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
Thêm
Tố Hữu - Người chép sử bằng thơ
1K
0
0
Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc. Bên cạnh đó, bài thơ còn là một khúc anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.

Núi rừng Việt Bắc.jpg

Núi rừng Việt Bắc. Ảnh Pinterest.
Đề: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

-Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
1. Bốn câu thơ mở đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi bằng tâm trạng nhớ thương, lưu luyến:

-Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
a. Câu hỏi tu từ đầu tiên hướng đến thời gian gắn bó “mười lăm năm ấy”

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng​

-Ở đây, đại từ “mình” dùng để chỉ người về xuôi còn “ta” là người ở lại. “Mình” ở đầu câu còn “ta” cuối câu nghe tưởng chừng xa cách nhưng hóa ra thật gần khi có sự kết nối của động từ “nhớ”. Nếu trong những câu hát điệu hò từ ca dao xưa, lời vấn đáp mang hơi hướng tình cảm lứa đôi thì dưới ngòi bút của Tố Hữu lại được biểu đạt thành tình cảm quân dân sâu nặng. Câu hỏi tu từ thể hiện nỗi lòng băn khoăn, trăn trở của người ở lại vì lo sợ người về sẽ quên đi những năm tháng nghĩa tình gắn bó. Hỏi cũng là một cách khéo léo gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi không được quên Việt Bắc, không được quên quãng thời gian gắn bó keo sơn.

- Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Cụm từ “mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian gợi nhắc 15 năm lịch sử hào hùng, 15 năm kháng chiến nhọc nhằn (1940- 1954). Đó là 15 năm gian khổ mà “ta” với “mình” kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, cùng nhau gắn bó với biết bao cay đắng ngọt bùi, cùng “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đại từ “ấy” - “một từ vô danh về ngữ pháp nhưng hữu tình về ngữ nghĩa” (Chu Văn Sơn) đã đẩy con người rơi vào dòng thời gian của một quá khứ chưa xa khiến bao nỗi niềm hoài niệm càng trở nên bâng khuâng. Người lính như được sống lại trong quá khứ nghĩa tình.

- Câu thơ “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” ngắt nhịp 4/4 khiến câu thơ như chia thành hai nửa, nửa quá khứ là “mười lăm năm ấy", nữa hiện tại là “thiết tha mặn nồng”. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, bền chặt, keo sơn. Đó là có thể xem là “di sản” tình cảm có được sau mười lăm năm gắn bó. Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.

b. Câu hỏi tu từ tiếp theo hướng đến không gian nguồn cội nghĩa tình:

Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?​

-Hai phép điệp động từ “nhìn” và “nhớ” đã cho ta thấy đối tượng được hỏi không còn bị giới hạn trong hai chủ thể là người đi và người ở lại mà rộng mở ra hướng vào hai chiều không gian: cây, sông (miền xuôi) và núi, nguồn (miền ngược). “Cây” và “sông” là hình ảnh gắn liền với không gian miền xuôi nơi người cán bộ quay về còn “núi” với “nguồn” là hình ảnh tả thực, là không gian quen thuộc nơi Tây Bắc mà cả người đi kẻ ở gắn bó nghĩa tình.

- Điệp động từ “nhìn” và “nhớ” được nhắc lại hai lần. “Nhìn” là hành động tác động vào thị giác, “nhớ” là hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Câu thơ phải chăng là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó, lời thơ đã nhắc nhở người về đừng quên những tháng năm “ta” đã cùng “mình” gắn bó. Nhắc nhở “mình” về xuôi đừng quên miền ngược, sống trong hòa bình đừng quên những năm tháng chiến tranh, ăn một miếng no đừng quên những ngày đói kém ta cùng nhau “chia củ sắn lùi”. Đó là lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi chân thành: đừng quên rằng Việt Bắc chính là cội nguồn cách mạng, là “quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”, là “đại ngàn thi hứng”. Qua hai câu thơ, ta thấy tài vận dụng linh hoạt và ẩn chứa ngữ nghĩa trong thơ của Tố Hữu thật đáng khâm phục, khi ông vận dụng thành công đạo lý truyền thống của nhân dân ta: "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để nhắc nhở thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, hướng về cội nguồn, về cái nôi cho ta hình hài.

2. Bốn câu thơ tiếp theo là tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến, nhớ thương của người về xuôi:

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

a. Tâm trạng người ra đi được Tố Hữu diễn tả qua hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” nghe sao mà thấm thía, cảm động:

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

- Từ láy “bâng khuâng” diễn tả cảm xúc ngổn ngang vừa vui vừa buồn: vui vì được trở lại Hà Nội sau 15 năm xa cách, buồn là vì phải xa cách nơi mình gắn bó cũng 15 năm ròng rã với bao kỉ niệm khó quên. Xét về hoàn cảnh thì rõ ràng nỗi niềm bâng khuâng nay mang nét buồn nhiều hơn. “Bồn chồn” là từ láy diễn tả cảm xúc băn khoăn, day dứt, nôn nao trong lòng khiến bước chân người về xuôi cũng trở nên ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa. Câu thơ có cách ngắt nhịp 4/4 cùng hai phép tiểu đối, nghệ thuật đảo ngữ đưa “bâng khuâng” và “bồn chồn” lên đầu mỗi vế càng làm nhấn mạnh hơn tâm trạng của người ra đi: trong dạ thì bâng khuâng còn nét mặt lại bồn chồn. Dòng cảm xúc ngổn ngang ấy đã hóa thành bước đi tâm trạng của con người: “Bước đi một bước, giây giây lại dừng”. (Chinh phụ ngâm)

b. Đoạn thơ khép lại trong nỗi lòng nhớ thương, biết ơn vô vàn:

Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

- "Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ, đó là màu áo gợi ra hình ảnh quen thuộc về nhân dân Việt Bắc, là màu áo nâu nghèo khổ, đơn sơ, giản dị. Ẩn trong màu áo ấy là tấm lòng sắt son, thủy chung của nhân dân.Bottom of Form Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần củng cán bộ, cùng kháng chiến làm nên chiến thắng vẻ vang cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp oai hùng. Ý thơ hàm chứa lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ với nhân dân nghĩa tình đã góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.

- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...” giàu tính chất biểu cảm. Hai chữ "cầm tay" chỉ hành động, cử chỉ thân mật, thắm thiết, là biểu hiện của tình yêu thương, đoàn kết, là cách đồng bào ta truyền hơi ấm, sức mạnh, động lực cho các chàng chiến sĩ trẻ. “Biết nói gì” không phải là không có gì để nói mà là không thể diễn tả hết bằng lời, theo như Đinh Thu Hiền:

“Có những tình yêu không thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên”​

Kỉ niệm trong 15 năm qua quá nhiều chẳng biết nhắc lại từ đâu? Nghĩa tình 15 năm qua biết bày tỏ ra sao? Chính vì có quá nhiều cảm xúc không kể xiết nên Quang Dũng đã tinh tế lựa chọn cách ngắt nhịp 3/3/2 góp phần diễn tả sâu sắc tâm trạng ngập ngừng, nghẹn ngào của người ra đi. Dấu chấm lửng đặt cuối câu thơ như xô người đọc vào những nốt lặng của bản nhạc để ở đó cứ lắng đọng mãi tình cảm người đi kẻ ở mà theo Gs. Ts Mã Giang Lân thì “những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.
Thêm
Cảm nhận đoạn thơ Việt Bắc
1K
0
0
Tố Hữu là nhà thơ luôn luôn hiện diện trong sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX. Với nhà thơ Tố Hữu, sự nghiệp thơ của ông gắn bó và song hành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “Cũng có thể nói, Tố Hữu là ca sĩ sớm nhất và lớn nhất, có thanh âm vang ngân nhất trong bản hợp ca cách mạng của nhân dân”, Giáo sư Phong Lê từng nói về Tố Hữu như vậy.

Cùng Văn học trẻ xem những nhận định hay nhất về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc:​


1/ “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.” (Tố Hữu – “Nhà văn nói về tác phẩm”)

2/ "Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác “ trang trọng như thế”. (Chân dung và đối thoại- Trần Đăng Khoa)

3/ “Thời đại ta đã may mắn có được nhà thơ Tố Hữu” (Hoài Thanh)

4/ Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. (Chế Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”)

5/ Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. (Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”)

6/ Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. (Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)

7/ Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ. (Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)

8/ Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ. (Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hoàng Trung Thông)

9/ Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ (Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)

10/ Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.

Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc.

… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp.

(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu, Văn học, 1964, Chế Lan Viên)

Nhận định về Tố Hữu và Việt Bắc.jpg

(Nhận định hay nhất về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc)
Xem thêm: Nhận định hay về nhà văn Tô Hoài cùng tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"

11/ Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ.” (Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel)

12/ Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.

(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)

13/ Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu. (Chuyện thơ, 1978, Hoài Thanh)

14/ Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng ngày càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người mới của thời đại. (Bình luận văn học, 1964, Như Phong)

15/ “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên)

16/ “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình thơ rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu)

17/ “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ,… không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc.

Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình – chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ (Trần Đình Sử)

18/ Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng (Lời giới thiệu tập thơ của Tổ Hữu, Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản 1946)

Bài thơ “Việt Bắc”, đỉnh cao trong sự nghiệp thơ Tố Hữu, thành quả ngọt ngào của thơ ca kháng chiến chống Pháp chính là thành quả của một tình yêu lớn. Tình yêu thi nhân dành trọn cho đất nước, nhân dân, cách mạng. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu” (L.Ton-xtoi)
Thêm
Nhận định hay nhất về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
2K
4
1

Phùng Văn Định

Thành Viên
31/5/21
117
242
43,000
55
Xu
616,983
Bài thơ Việt Bắc quả thực là một tuyệt tác về tình yêu quê hương đất nước, về tình quân dân trong thời kỳ kháng chiến chống pháp. Việt Bắc sẽ mãi vang lên là một khúc tình ca, hùng ca có ý...
 
  • Like
Reactions: Phong Cầm
Có thể nói rằng bài thơ “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà thơ Tố Hữu. Bởi lẽ, bài thơ không chỉ là bản anh hùng ca mà còn là bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người...png


Đề: Em hãy viết bài văn để làm sáng tỏ quan điểm: “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”

BÀI LÀM MẪU

Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao của thơ ca cách mạng kháng chiến. Có thể coi bài thơ là một bản tổng kết về một giai đoạn lịch sử bằng thơ, tái hiện lại hiện thực đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu được xem là bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chông Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử. Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lại. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nứớc, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc.

Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những “rừng nứa bờ tre, ngòi thưa, sông Đáy” là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:
“Ta về, mình có nhớ ta

Tà về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đồ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đang nói, người hái măng… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cũng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thôn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô, là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:
“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”

Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng trong bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc:
“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”

Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Nhưng Tố Hữu không thê miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ còn di sâu vào lí giải những cội nguồn sức mạnh đâ dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi” nhất là sức mạnh của khôi đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh “đất nước đứng lên”:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

“Mình về có nhớ núi non

Nhớ khi khảng Nhật, thủa còn Việt Minh

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”

Trong những năm tháng kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ soi sáng”, có “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

“Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa.”

Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hòa bình, phồn vinh.
“Ngày mai rộn rã sơn khê

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng

Than Phấn Mễ, thiết Cao Bằng

Phố phường như nấm như măng giữa trời.”

Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh. Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, một nét đẹp trong đạo lí truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.
“Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hóa khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

Nhìn chung “Việt Bắc” là một bài thơ trữ tình, chính trị bởi vì thơ ở đây là thơ với căn cứ cách mạng, với truyền thống cách mạng, với đất nước và nhân dân. Nhưng quan trọng hơn cả, làm cho người ta cảm động là bài thơ đâ thể hiện hết được truyền thống ân nghĩa của dân tộc Việt Nam, thể hiện một khát vọng về một khung cảnh chan hòa tình yêu thương, hạnh phúc, thanh bình, bền vững mãi mãi trên đất nước, quê hương.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là bản anh hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến
1K
0
0
Linh hồn của mỗi tác phẩm văn học nằm ở tầm tư tưởng mà tác phẩm ấy chứa đựng. Vậy nên, với tài năng sử dụng nghệ thuật ngôn từ của mình, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến một tác phẩm dạt dào tính dân tộc qua bài thơ “Việt Bắc”.

Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
BÀI LÀM MẪU

Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Ông là một tượng đài về thể thơ lục bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới “Việt Bắc” - một bản tình ca dạt dào cảm xúc để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó diễn tả được. Mỗi câu thơ như vẽ ra một khung cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người mà nơi ấy ân nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Bài thơ “Việt Bắc” cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.

“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10/1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.

Tính dân tộc được thể hiện ở hai phương diện, nội dung và hình thức. Trước hết về mặt nội dung bài thơ thể hiện ở những khía cạnh sau, hình ảnh chiếc “áo chàm” rất đỗi giản dị, tự nhiên:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc anh hùng nhưng chân thực. Câu thơ như đang ca ngợi tình người của con người Việt Nam. Từ những con người xa lạ không quen biết, chiến tranh đã kéo đẩy họ lại gần với nhau để giờ đây kỉ niệm tưởng chừng ngắn ngủi như lại dài đằng đẵng ấy vô thức còn đọng lại trong tâm trí của họ. Bài thơ là cuộc đối thoại “mình - ta” vừa ngọt ngào, vừa sâu lắng:
"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Khoảng thời gian 15 năm xảy ra biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử để cho tình nghĩa giữa chiến sĩ và người dân Việt Bắc ngày một gắn bó keo sơn.

Bên cạnh đó, hình ảnh chiến sĩ cách mạng hiện lên cũng rất chân thực, mang đậm tính dân tộc. Trong giờ phút chia ly, họ bịn rịn không nỡ rời xa:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Chỉ một cái “cầm tay” nhưng sao khó nói nên lời tới vậy. Cầm tay như truyền thêm cả sức mạnh, cả hơi ấm của người ở lại cho người ra đi. Họ một lòng một dạ thủy chung son sắt:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Hình ảnh “mình” lặp đi lặp lại mang dụng ý của tác giả. Người chiến sĩ và người dân Việt Bắc họ như hòa quyện lại làm một không phân biệt rạch ròi được. Ân nghĩa sâu nặng giữa họ không thể đong đếm. Rời xa Việt Bắc người chiến sĩ mang trong mình bao nỗi nhớ, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, nhớ về tình người Việt Bắc. Tuy nhiên họ vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời.

Song song với hình ảnh con người, hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc cũng hiện lên cũng mang đậm tính dân tộc. Bức tranh tứ bình đã được ngòi bút của Tố Hữu tô vẽ thêm thắt một cách sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Con người và thiên nhiên như hòa quyện lại với nhau. Thiên nhiên làm nền cho sự xuất hiện của con người. Nếu như câu lục là thiên nhiên thì câu bát là sự xuất hiện của con người. Tưởng chừng như hai hình ảnh này không liên quan đến nhau nhưng không phải như vậy. Mà con người tô điểm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm rực rỡ hơn. Con người xua đi cái lạnh giá của thiên nhiên, hòa mình vào với thiên nhiên để làm những công việc thường ngày nhưng hết sức đẹp đẽ, nên thơ.

Việt Bắc trong thơ Tố Hữu còn hiện lên với những địa danh lịch sử hào hùng, tráng lệ: Tân Trào, Hồng Thái, Ngòi Thia sông Đáy, sông Lô, Núi Hồng….

Có thể thấy, cảnh và người trong bài thơ Việt Bắc hiện lên rất thân thương giản dị mà giàu tình người, đậm đà tính dân tộc sâu sắc.

Tính dân tộc thể hiện sâu sắc nhất ở mặt hình thức. Một là, thể thơ lục bát truyền thống với kết cấu lời đối đáp của đôi trai gái, giữa kẻ ở lại và người về xuôi. Lục bát là thể thơ dân tộc nó đã quá quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng ngôi xưng “mình-ta” để bộc lộ hết tâm tư tình cảm của mình:
“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Tính dân tộc còn được thể hiện ở phương diện ngôn ngữ, nhạc điệu: Ngôn ngữ vừa giản dị, gần gũi với đời thường lại dễ thuộc, dễ nhớ kết hợp với nhạc điệu uyển chuyển, nhẹ nhàng có lúc thủ thỉ, tâm tình, lúc thì đằm thắm mượt mà lúc lại ngọt ngào êm dịu.
“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng thấm nhuần tính dân tộc. Ta từng bắt gặp nhiều hình ảnh giản dị trong thơ của các nhà thơ khác nhưng với thơ Tố Hữu ta lại thấy nó rất tự nhiên, thoải mái lại rất tinh tế: Hình ảnh “trám bùi”, “măng mai”. “trăng”, “nắng”, “bản” gần gũi biết bao!!

Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của văn học Việt Nam và cũng là bài thơ để đời của Tố Hữu. “Việt Bắc” là khúc ca về thiên nhiên, con người Việt Bắc, là tiếng hát ân nghĩa thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc, là tình yêu, tình thương của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Bằng ngôn ngữ giản dị, gắn liền với đời thường kết hợp với thủ pháp nghệ thuật như lặp từ, hoán dụ đã lột tả được nỗi nhớ da diết của tác giả với mảnh đất đầy kí ức và kỉ niệm. Song song với đó, thể thơ lục bát kết hợp một cách nhuần nhuyễn đã đưa đẩy cảm xúc của Tố Hữu lên đỉnh cao để có thể sáng tác ra được một bài thơ tuyệt vời đến như vậy. Và “Việt Bắc” là một bài thơ thể hiện đậm đà tính dân tộc.


Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
744
0
0
“Việt Bắc” là một bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Chính vì vậy, nhà thơ Tố Hữu đã ghi nhận lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người làm cách mạng với người dân Việt Bắc trong tác phẩm này. Qua đó, những kỷ niệm kháng chiến hào hùng ùa về bỗng hóa thành thi ca.

vb.png


Đề: Em hãy viết bài văn để phân tích tác phẩm "Việt Bắc"

BÀI LÀM MẪU

“Việt Bắc” là một bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Chính vì vậy, nhà thơ Tố Hữu đã ghi nhận lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người làm cách mạng với người dân Việt Bắc trong tác phẩm này. Qua đó, những kỷ niệm kháng chiến hào hùng ùa về bỗng hóa thành thi ca.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng.
Đại từ Mình và Ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thương, ân tình ân nghĩa. Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Việt Bắc lại hỏi:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu


Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”. Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:
“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến.

Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng. Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:

“Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa.

Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dại với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:

“Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông, còn nhớ bản làng


Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình. “Mình đi, mình có nhớ mình”. Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu! Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:
“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Hai đại từ Ta – Mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một: “Mình đi, mình lại nhớ mình”(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”). Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.

Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc. Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc. Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).
“Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng


Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung. Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của Ta và Mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày


Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đòan xe vận tải tấp nập sôi động:
“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, lừ niềm tin là hi vọng của cả dân tộc. Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
“Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ "Việt Bắc". Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.

Với ngôn ngữ giàu tính biểu đạt, Tố Hữu đã đưa tác phẩm “Việt Bắc” lên tầm kiệt tác. Bởi lẽ, đây không chỉ là tiếng lòng của riêng nhà thơ mà còn là âm vang thổn thức của hàng triệu trái tim Việt Nam tự hào quá đỗi về truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:
TẠI ĐÂY
Thêm
Phân tích tác phẩm "Việt Bắc" mới nhất
  • Like
Reactions: Hoa Phù Sa
2K
1
0
Những kỷ niệm và tình cảm chân thành, cao đẹp đã được nhà thơ Tố Hữu diễn tả trọn vẹn trong bài thơ “Việt Bắc”. Bởi lẽ, nó chẳng những là tình cảm giữa người với người mà còn là sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên trong hoàn cảnh lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Cùng với sự chiến đấu hào hùng, anh dũng của cha ông ta thì cả muôn hoa, cây cỏ bốn mùa cũng dệt thành bức tranh bằng mảnh lưới thấm tình tươi sáng, góp phần động viên tinh thần chiến đấu của quân dân ta ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.

Xanh dương và Xanh mòng két Màu chuyển tiếp Công nghệ và Chơi trò chơi Dịch vụ Trang web (58).png


Đề bài: Em hãy phân tích Bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mới nhất
BÀI LÀM MẪU

Những kỷ niệm và tình cảm chân thành, cao đẹp đã được nhà thơ Tố Hữu diễn tả trọn vẹn trong bài thơ “Việt Bắc”. Bởi lẽ, nó chẳng những là tình cảm giữa người với người mà còn là sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên trong hoàn cảnh lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Cùng với sự chiến đấu hào hùng, anh dũng của cha ông ta thì cả muôn hoa, cây cỏ bốn mùa cũng dệt thành bức tranh bằng mảnh lưới thấm tình tươi sáng, góp phần động viên tinh thần chiến đấu của quân dân ta ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.

Bài thơ "Việt Bắc" ra đời vào tháng 10 – 1954, rút trong tập "Việt Bắc" – tập thơ kháng chiến của Tố Hữu. Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, Hồ Chí Minh cùng đoàn quân chiến thắng tiến về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Đây là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất trong "Việt Bắc" thể hiện một cách tập trung vẻ đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ Tố Hữu.

Bao trùm lên toàn bộ đoạn thơ là nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung, nặng tình nặng nghĩa giữa "ta" với "mình", giữa kẻ ở với người về, giữa người cán bộ kháng chiến với người dân Việt Bắc:
"Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người,

… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

… Nhớ cô em gái hái măng một mình

… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Chữ "nhớ" như một luyến láy trong khúc ca tâm tình làm cho vần thơ lục bát trở nên ngọt ngào sâu lắng.

Trong 5 câu thơ của đoạn trích thì câu 2 mang ý nghĩa khái quát: "Ta về, mình có nhớ ta – Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Câu nào cũng có hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc, câu nào cũng có hình ảnh con người Việt Bắc.

Hình ảnh thiên nhiên trong đoạn thơ của Tố Hữu đẹp đẽ, tươi sáng, thơ mộng, đầy sức sống đến lạ thường. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: "Những câu thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể sánh với bất kì đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong văn học cổ điển". Thiên nhiên trong thơ Tố Hữu đa dạng độc đáo. Bốn câu thơ là bức tranh bốn mùa trong một năm, mỗi mùa lại mang một sắc thái riêng biệt. Đoạn thơ làm ta liên tưởng đến bức tranh tứ bình trong "Truyện Kiều" qua ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du:
"Sen tàn cúc lại nở hoa,

Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân".

Với Tố Hữu, cảnh rừng Việt Bắc khi mùa đông đến là một màu xanh bạt ngàn, điểm tô, thắp sáng bởi "hoa chuối đỏ tươi". Thơ nên họa đã làm hiện lên vẻ đẹp hoang sơ và tráng lệ của những cánh rừng Việt Bắc. Khi mùa xuân đến "mơ nở trắng rừng" một vẻ đẹp trong trắng, thanh khiết, tinh khôi gợi cảm giác thơ mộng và bâng khuâng – một sức sống bừng dậy "trắng rừng" làm đổi thay quang cảnh thiên nhiên chiến khu. Và mùa hè "ve kêu rừng phách đổ vàng". Chỉ có Việt Bắc mới có rừng phách vàng rực trong mùa hè. Sự chuyển đổi của thời gian, sự chuyển vần từ xuân qua hè được thể hiện qua âm thanh tiếng ve, được diễn tả qua từ "đổ". Câu thơ hay vì thời gian cũng mang màu sắc. Trước mắt người cán bộ kháng chiến là những rừng phách đang ngả dần sang màu vàng rực khi mùa hè đến trong âm thanh rộn rã tiếng ve ngân suốt đêm ngày. Chữ "đổ" là một nhãn tự làm ta nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu trong bài "Thơ duyên": "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá. Thu đến nơi nơi động tiếng huyền". Mùa thu chiến khu quên sao được "Rừng thu trăng rọi hòa bình". Rừng cây, núi đá, khe suối, "bản khói cùng sương" càng đáng yêu hơn dưới vầng trăng xanh hòa bình dịu mát. Ta bồi hồi nhớ lại câu thơ trăng của Bác viết những năm đầu kháng chiến: "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa" (Cảnh khuya).

Bức tranh thiên nhiên trong thơ Tố Hữu tươi sáng, gợi cảm, thơ mộng và đầy màu sắc thẩm mĩ. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với mảng màu và nét tài hoa. Màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ mùa xuân, màu vàng rực của rừng phách mùa hạ, màu xanh hòa bình dịu mát của ánh trăng thu. Nghệ thuật phối sắc tài tình của Tố Hữu trong miêu tả đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống như Bác Hồ đã viết:
"Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay"…

(Cảnh rừng Việt Bắc)
Thiên nhiên Việt Bắc còn đẹp trong sự hòa hợp gắn bó với con người đang sống và hoạt động. Vì vậy, thiên nhiên Việt Bắc không hoang vu buồn tẻ mà trái lại, nó tràn đầy sức sống – sức sống mãnh liệt của một đất nước đang kháng chiến. Con người được nói tới trong đoạn thơ này rất đẹp và hữu tình. Trước hết là con người xuất hiện trong khung cảnh lao động, trong sự hòa hợp và chan hòa với thiên nhiên.

"Đèo cao nắng ánh đao gài thắt lưng" – là một trong những câu thơ đặc sắc của đoạn thơ. Câu thơ được coi là sự phát hiện độc đáo của Tố Hữu mang màu sắc "rất Việt Bắc" như cách nói của Xuân Diệu. Đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng thăm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên tầm cao của đèo, ánh sáng mặt trời chiếu vào những con dao ấy, tạo nên sự phản quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thôi mà người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ, hào hùng của con người Việt Bắc trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, trong tư thế vận động đi lên phía trước. Phải có một tâm hồn thi sĩ tinh tế, sự quan sát sắc sảo mới viết được những câu thơ hay như vậy. Con người kháng chiến mang tầm vóc thời đại là người sản xuất hay người chiến sĩ đều mang tư thế hào hùng:
"Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo".

(Lên Tây Bắc)

Nhớ "mơ nở trắng rừng" trong những ngày xuân cũng là sự bồi hồi "nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang". Tác giả viết về con người Việt Bắc trong một khung cảnh cụ thể, một công việc cụ thể. Từ "chuốt" trong câu thơ là trau chuốt, làm bóng lên, làm đẹp thêm lên. Chữ "từng" (từng sợi giang) gợi tả đức tính cần mẫn, cách làm tỉ mỉ và chịu khó. Có khéo tay mới "chuốt từng sợi giang" mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những vật phẩm mĩ nghệ thủ công đặc trưng của Việt Bắc. Con người cần cù và tài hao ấy thật đáng "nhớ" vì như Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: "Tay người như có phép tiên – Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ". Thế là cùng với chiếc nón bài thơ của xứ Huế được nói đến trong dân ca, ta biết thêm chiếc nón đan bằng sợi giang của Việt Bắc qua bài thơ Tố Hữu.

Câu thơ "Nhớ cô em gái gái măng một mình" là câu thơ hay ở vần điệu. Sự hiệp vần: "gái – gái" (vần lưng) và cách sử dụng phụ âm "m" liên tiếp của các từ "măng – một – mình" tạo cho câu thơ đa thanh, mang tính nhạc hấp dẫn. Cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu rừng nứa một mình trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có "một mình" mà chẳng cảm thấy lẻ loi cô đơn. Con người ấy đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Giữa một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh của suối rừng, cô gái Việt Bắc xuất hiện thật hồn nhiên và đáng yêu lạ! Câu kết của đoạn thơ: "Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung" nói lên vẻ đẹp tâm hồn người Việt Bắc. "Ai" là đại từ phiếm chỉ gợi lên bao hoài niệm, bâng khuâng nghĩa tình thủy chung. Tiếng hát ân tình thủy chung giữa "ta" với "ai" được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa, "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng" nên không bao giờ có thể quên được.

Đoạn thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung và thương mến với bao niềm tự hào đối với Việt Bắc "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", và chiến khu bất khả xâm phạm "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù". Có thể nói, Tố Hữu không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong lửa đạn.

Đoạn thơ thấm đẫm tình người. Nỗi nhớ thiết tha đã thấm sâu vào cảnh vật, vào lòng người – kẻ ở người về. Vần thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, bồi hồi như câu hát giao duyên "mình – ta" thuở nào. Chữ "nhớ" được điệp lại nhiều lần diễn tả tình thương nỗi nhớ vơi đầy dào dạt...

"Việt Bắc" là một trong những bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của "Việt Bắc". Ngòi bút nghệ thuật mang tính kế thừa và sáng tạo độc đáo, từ âm điệu trữ tình ca dao đến tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh và người đều đẹp và đáng yêu mang sức sống và khí thế của thời đại mới. Cấu trúc đoạn thơ mang vẻ đẹp tứ bình cổ điển, chặt chẽ, cân xứng, hài hòa cho ta nhiều ấn tượng và cảm xúc thẩm mĩ.

Thật vậy, đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của bức tranh tứ bình chính là tấm lòng của nhà thơ và hàng triệu trái tim con người Việt Nam gửi đến tình quân dân nồng đượm trong cuộc đấu tranh bảo vệ non sông gấm vóc. “Việt Bắc” không chỉ dừng lại là một bài thơ mà còn là tấm lòng tri ơn mà thiên nhiên và con người nơi đây đã dành cho bộ đội ta trong cuộc chiến gian lao để chiến đấu và hy sinh vì tổ quốc thân thương.

Các bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề: TẠI ĐÂY
Thêm
Bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mới nhất
  • Like
Reactions: Vanhoctre
893
1
0

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top