Newsfeed

Văn Học Trẻ - forum.Vanhoctre.com | Nuôi dưỡng tình yêu văn chương, cuộc thi viết văn; học văn, những bài văn hay. Tác phẩm văn học chọn lọc, lí luận văn học, ...

BBT đề xuất

Bài viết mới

Đang có mặt

Không có thành viên trực tuyến.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận xét: “Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Có thể nói trong suốt cuộc đời, bằng ngòi bút điêu luyện của mình, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Vang bóng một thời – tập truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chính là một chặng quan trọng trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.

Muốn hiểu được quan niệm về cái đẹp của nhà văn rất phức tạp này, thiết nghĩ phải quay về thời đại Nguyễn Tuân sống trước Cách mạng tháng Tám.

Ở thời kì này, xã hội Việt Nam có sự phân hóa rõ rệt. Không phải ai cũng may mắn tìm thấy con đường đi đến với Cách mạng như một bộ phận tri thức lúc bấy giờ. Các nhà văn – chiến sĩ như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Trần Huy Liệu, Sóng Hồng… đã tiếp thu được tư tưởng của giai cấp công nhân, coi thơ văn trước hết là vũ khí chiến đấu, là phương tiện để tuyên truyền, vận động cách mạng, quan niệm về cái đẹp của các nhà văn – chiến sĩ này gắn liền với tư tưởng cải tạo xã hội. Trong khi đó, đại bộ phận tầng lớp văn nghệ sĩ (trong đó có Nguyễn Tuân), mặc dù có tinh thần dân tộc song không có điều kiện để tiếp thu tư tưởng cách mạng, chẳng biết làm gì hơn là viết văn, viết báo. Đối với những văn nghệ sĩ này, viết văn là một cách để họ thể hiện thái độ của mình.

Qua những trang văn, Nguyễn Tuân lên tiếng phản đối cái xã hội “Ối a ba phèng” lúc đó hoặc thực hiện chủ trương xê dịch, giang hồ. Đó cũng là cách quay lưng lại với xã hội, là cách phản ứng trước những sự tấm thường, xô bồ, hỗn độn của đời sống. Có điều những trang văn, những chuyến xê dịch giang hồ ấy, ngoài chuyện để quay lưng lại với xã hội, tự bản thân chúng còn làm thỏa mãn một nhu cầu có tính chất tối thượng của nhà văn: đi tìm cái đẹp.

Nguyễn Tuân luôn khao khát đi tìm “cái đẹp và cái thực” song trong thời đại mà Nguyễn Tuân sống, cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau”. Có lẽ vì thế Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ và tìm ngay trong chính tâm tưởng, cảm giác của mình.

Đọc những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ta dễ thấy nét giống nhau của Nguyễn Tuân với các nhà văn lãng mạn khác, đó là sự đề cao cái đẹp một cách thuần túy, không vụ lợi. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Tuân quan niệm “viết văn không khuynh hướng”. Cái đẹp, văn chương cũng như nghệ thuật, theo ông, không có nội dung xã hội, giai cấp và thời đại. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét: “Nguyễn Tuân luôn muốn mỗi ngày sống, mỗi trang đời của mình cũng là một trang nghệ thuật”. Chính thái độ nâng niu, trân trọng cái đẹp và với cách nhìn nghiêng về nghệ thuật của ông đã tạo nên một Nguyễn Tuân “vị nghệ thuật” trong văn chương.

Đọc Vang bóng một thời, người đọc có thể nhận thấy quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp. Quan niệm này được thể hiện trong nét lớn sau:

1. Cái nhìn hướng về quá khứ.


Không chấp nhận hiện tại, cái nhìn của Nguyễn Tuân hướng về quá khứ. Mỗi truyện ngắn trongVang bóng một thời không ít thì nhiều đã làm sống lại những phong tục tập quán dân tộc, những thú chơi tao nhã gắn liền với những ông nghè, ông cử đã thất thế song vẫn cố giữ thói quen thanh cao, lịch lãm trong một xã hội có nhiều nhiễu nhương.

Truyện Những chiếc ấm đất kể về một ông cụ Sáu mê uống trà tầu, mà nước pha trà phải là thứ nước lấy ở cái giếng tận trên chùa Đồi Mai. Nhà văn mượn lời sư cụ chùa Đồi Mai để nói về ông cụ Sáu “Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quí nhãn tiền không bằng một ấm trà tầu”. Cứ nhìn cái cách ông cụ nâng niu những chiếc ấm đất của mình, am hiểu tường tận về từng chiếc kim hỏa của chiếc ấm, mới thấy hết cái thú uống trà tầu ở con người này. Kể cả khi thất cơ lỡ vận, ông cụ Sáu vẫn “quen thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ”. Con người xem việc uống trà như là một công việc quan trọng nhất của đời mình ấy đã có lúc phải ngồi bán đi lũ ấm đất của mình, lũ ấm đất “ngày trước giá có chồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chưa chắc cụ đã bán cho một chiếc”. Ẩn sau cái cười “hề hề” của ông cụ khi tiết lộ cái mẹo nhỏ là bán thân ấm rồi mới bán đến nắp ấm, ta thấy cả mỗi một nỗi lòng xót xa, đứt ruột!

Chén trà trong sương sớm lại còn miêu tả tỉ mỉ hơn cái thú uống trà của lớp người xưa cũ ấy. Cụ Ấm trong truyện có thói quen uống trà từ rất sớm, từ lúc “trời còn tối đất”. Không khí của những buổi uống trà sớm ấy thật đặc biệt. Nổi bật lên trên khung cảnh tĩnh lặng và tinh khiết của buổi sớm là hình ảnh cụ Ấm “Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh ngồi bên gối xếp, cặp mắt liêu xiêu như một nhà sư nhập định, vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch…”. Cùng với ông cụ Ấm, hình ảnh cái hỏa lò hiện ra thật sống động dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân: “Hòn than tầu lép bép nổ, nghe rất vui tai… Những hòn than cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc dao động càng nâng cao thêm những ngọn lửa xanh nhấp nhô. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chảy”. Cách uống trà của ông cụ quả là rất cầu kì, có thể nói đã giống như một thứ lễ nghi. Chưa bao giờ ông cụ dám cẩu thả trong cái “thú chơi thanh đạm” này mà đã để vào đấy bao nhiêu công phu, bởi vì theo cụ “trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lí và tâm lí”. Hỏa lò, những ấm trà, và nước pha trà thơm lành đọng trong lá sen.. tất cả sự cầu kì và công phu ấy dường như đã được đền đáp vì xung quanh ấm trà là những người tao nhã, cùng “một thanh khí” với nhau.

Đối với gia đình cụ Ấm, việc uống trà còn gắn liền với việc bình văn, ngâm thơ buổi sớm. Giọng ngâm “trong và dài” của người con trưởng cụ Ấm vang lên trong không khí tĩnh lặng, trong lành của buổi sớm mai thực đã gợi ra nét văn hóa của một thời. Việc uống trà, bình văn, ngâm thơ buổi sớm, theo cụ Ấm còn là một cách “vận động thần khí kì diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất” … Với Chén trà trong sương sớm, Nguyễn Tuân đã giúp ta hiểu thêm về một thú chơi nhã đạm của cha ông trong quá khứ, Và không phải riêng Nguyễn Tuân, người đọc ở những năm đầu thế khỉ XXI này cũng cảm thấy bâng khuâng, tiếc nuối!

Hương cuội cũng làm người đọc thích thú, thán phục bởi một kiểu tiêu khiển khác, vừa quen thuộc vừa độc đáo của cụ Kép, con người “nguyện đem cả quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”. Hình ảnh cụ Kép trong truyện tạo cho người đọc cảm giác về sự ẩn dật, lánh đời, thoát tục: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc mặc áo lông trắng lom khom tỉa những lá úa vàng trong đám lá xanh”. Lòng yêu hoa của cụ Kép thật đặc biệt “mỗi lần có người động mạnh vào giò lan đen, cụ Kép lại suýt xoa như có người châm kim vào da thịt mình”.

Với truyện ngắn này, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình dung được cái không khí rất đặc trưng của những ngày Tết cổ truyển Việt Nam. Ngày 30 Tết, cả nhà cụ Kép đạng bận bịu dọn dẹp để ăn Tết. Mợ Ấm cả, mợ Ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ còn lũ con trai thì “đang đánh bóng ngoài sân những lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua và bằng thiếc sông Ngâu”. Riêng cụ Kép và người bõ già thì lại bận bịu một công việc khác: chuẩn bị cho bữa rượu kẹo mạch nha có nhân đá cuội được ủ trong những chậu hoa lan thơm ngát. Công việc để chuẩn bị cho tiệc rượu độc đáo này được nhà văn miêu tả tỉ mỉ làm sao! Những viên đá cuội trắng tinh đã được rửa thật sạch, được lựa chọn thật kĩ, bây giờ được đem ra dúng vào nồi kẹo mạch nha đã nguội, rồi cuối cùng được người bõ già “đem đặt rất nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót trên nền đất chậu hoa”. Sau đó những chiếc lồng bàn bằng giấy sẽ được úp cẩn thận lên những chậu mặc lan sắp nở hoa kia. Bữa tiệc rượu đặc biệt thanh tịnh được mở đầu rất ấn tượng: “Bõ già vòng tay vái các cụ và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một. Một mùi hương lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay khắp vườn cây. Bốn cụ già và bõ già đánh hơi mũi, những cặp mắt kém cỏi đăm đăm nhìn kỹ khoảng không trong vắt như có ý theo dõi luồng hương thơm đang thâm nhập dần vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian”. Những viên kẹo nhân đá ướp hương hoa, chén rượu tăm, và “Tiếng ngâm thơ quyến rũ đến cả tâm hồn” trong cái êm ấm của buổi chiều xuân… tất cả đã nói lên rất nhiều trân trọng của nhà văn trước thú vui nhã đạm này. Phải là người có vốn sống phong phú, có sự hiểu biết sâu sắc và yêu mến biết bao nhiêu những phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc mới có thể viết được những trang văn tinh tế đượm tấm lòng trìu mến như thế.

Nguyễn Tuân còn đặc biệt thích thú trước tục thả thơ, đánh thơ. Chính vì vậy, trong Vang bóng một thời, ông đã dành cả hai truyện ngắn cho đề tài này. Cũng như các truyện ngắn khác trong tác phẩm, hai truyện ngắn Thả thơ; Đánh thơ - nói như giáo sư Hoàng Như Mai – đã tạo cho ta những “khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt” bởi vì nhà văn “đã dạy cho ta nghệ thuật sống để tận hưởng ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống”. Đây là hai truyện ngắn tiêu biểu đã đề cao, làm sống lại một thú chơi tao nhã đã đang dần bị mai một trong hiện tại. Rất nhiều người có lẽ đã phải cảm ơn Nguyễn Tuân vì qua những truyện ngắn như thế này, họ đã biết được, hiểu được thú tiêu khiển cổ xưa mang đậm chất bác học, tài hoa và dân tộc của cha ông. Hãy chú ý lắng nghe lời giải thích của cô Tú – con cụ nghè Móm, về hai chữ “Thả thơ” cho lũ học trò nhỏ tuổi để có thể hình dung thứ công việc vừa công phu lại vừa thú vị này: “Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng một câu thơ bảy chữ mà chỉ có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì bỏ trống và thay vào đấy một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng…”

Đánh thơ được tác giả gọi là “Một cuộc đỏ đen rất trí thức” trong truyện gắn liền với đôi vợ chồng lãng tử: ông Phó Sứ và Mộng Liên. Cuộc đánh thơ với tiếng đàn, giọng hát đã thu hút nhiều hạng người. Có những người đến không chỉ vì tiền mà là vì yêu thích văn chương. Đối với họ - những ông Hậu bổ, Thông phán tỉnh, Kinh lịch – được hay thua “cũng đều lấy làm thích cả”. Họ đến với cuộc thả thơ đôi khi chỉ là để được nghe những tiếng ngâm thơ trên làn nước lạnh, những “thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào”. Thả thơ đã đưa lại cho họ những phút giây hứng thú đặc biệt: “Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết cả người”. Thế nhưng đến với cuộc thả thơ còn có cả những hạng người khác nữa. Nguyễn Tuân đã không dè dặt mỉa mai, châm biếm hạng người “dốt cay dốt đắng”, đã không biết thưởng thức thơ hay mà chỉ “mỏi tay vơ tiền”. Họ chính là những ông huyện Bình Khê “người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ…”.

Cũng từ góc độ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã tỏ ra hết sức tinh tường, sắc sảo khi phát hiện ra những nét phản thẩm mĩ, những cái xấu xa của hạng người trưởng giả trong xã hội Tây Tàu nhố nhăng. Theo nhà phê bình Hà Văn Đức, Nguyễn Tuân đã lên án bọn người này không phải theo quan điểm về giai cấp mà xuất phát từ góc độ thẩm mỹ. Đây là nhận xét rất đúng. Trong tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân ghét cay ghét đắng hạng người trưởng giả không phải chúng áp bức bóc lột người nghèo mà vì chúng không biết thưởng thức cái đẹp, “ngồi xổm lên cái đẹp”. Như vậy, khác với các nhà văn hiện thực phê phán cùng thời, Nguyễn Tuân đã phản ứng lại cái xã hội kim tiền trên phương diện mỹ học. Những đối tượng mà Nguyễn Tuân hay nhắm tới là những ông huyện Bình Khê (Đánh thơ) là những kẻ “ít chữ” song sung sướng được “Lạm dự vào làng thơ phú” (Thả thơ). Đó còn là ông huyện Thọ Xương, “Một người có tâm thuật rất hèn kém”… Ở những truyện khác, Nguyễn Tuân có “Lối đánh mà người ta gọi là bỏ nhỏ, nhẹ mà đau điếng” (Hoàng Như Mai). Trong truyện Những chiếc ấm đất, tác giả để cho người khách của ông cụ Sáu kể một câu chuyện cổ tích. Đó là câu chuyện về một “tên ăn mày cổ quái” dám xin gia chủ cho uống trà tàu, mà lại xin uống cả ấm. Thế rồi điều bất ngờ đã xảy ra. Chính tên ăn mày chứ không là ai khác đã nhận ra vị trấu tạp lẫn trong hương vị thanh khiết của trà! Rõ ràng qua câu chuyện, nhà văn đã tỏ thái độ coi thường hạng người trọc phú, nhiều tài lắm của nhưng lại chẳng tinh tế chút nào. Về phương diện này, lão phú hộ giàu có trong truyện đã không bằng được một kẻ ăn mày. Ở Chén trà trong sương sớm, Nguyễn Tuân nói tới những ông khách tạp “uống trà rất tục”. Đối với “mấy thầy làm việc bên bảo hộ” có cách uống trà như uống giải khát này, theo nhà văn, phải uống thứ nước trà “pha sẵn trong bình tích” mới thật thích hợp. Uống trà – “lối giao du của cổ nhân đạm bạc”, nói như ông cụ Ấm trong truyện là không thể “ồn ào, huyên náo như bây giờ”…

Phê phán hạng người trọc phú, những kẻ dốt nát, đề cao và hướng cái nhìn của mình vào quá khứ, vào những thú tiêu khiển tao nhã nói trên, Nguyễn Tuân đã tỏ rõ thái độ của mình. Đó là thái độ bất mãn sâu sắc trước hiện thực. Có lúc, thái độ ấy thể hiện trong suy nghĩ chua chát của một ông cụ Kép (Hương Cuội): “Nhưng nghĩ mình chỉ là một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu mất nhiều giá trị tinh thần…” Con người cho mình là “kẻ chọn nhầm thế kỷ” này chính vì vậy đã chọn việc uống rượu, chơi hoa làm một thứcông việc mang lại niềm vui cho mình trong buổi xế chiều của cuộc đời. Cũng có khi nhà văn lại mượn lời cô Tú (Thả thơ) để nói lên tâm sự bực dọc, chua chát của mình : "Ở đời ăn nhau may rủi, chữ nghĩa tài hoa mà làm gì"... Đó còn là thái độ nhớ tiếc những giá trị văn hóa tinh thần của một thời : "Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ ở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích mỗi khi nhắc nhỏm lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là cảng chỉ thêm bỡ ngỡ với phong vận mới" (Báo oán)

Quay lưng lại với xã hội đương thời nhưng rõ ràng Nguyễn Tuân đã không quay lưng lại vớinhững phong tục, truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc,. Ông say sưa nói về việc thả thơ, đánh thơ, uống trà, làm đèn trung thu với một thái độ ca ngợi và nuối tiếc. Đọc những trang văn Nguyễn Tuân viết về những thú chơi tao nhã, về những phong tục đáng yêu đáng quý của dân tộc mới thấy được tinh thần yêu nước thầm kín, sự gắn bó, vốn hiểu biết sâu rộng về cuộc sống của ông.

2. Quan niệm cái đẹp gắn liền với chất tài hoa tài tử.

Trong các sáng tác trước và cả sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân thường chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả và thể hiện con người. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp thường đi đôi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ sỹ, điều này cũng thống nhất với nét tài hoa, nghệ sỹ trong con ngườiông.

Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tỏ lòng mến mộ, yêu quý những con người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang hồ. Ở những nhân vậy này, nhà văn chẳng những khai thác khía cạnh tài hoa tài tử mà còn chú ý cả những điểm khác người, thậm chí đến mức lập dị, cầu kỳ của họ. Truyện Đánh thơ nói về một đôi vợ chồng lãng tử mà Nguyễn Tuân đã gọi họ bằng một cái tên trìu mến "Một lứa đôi tài tử". Mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "Nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ nhất định nào". Ngay đến cả cái chết của kiếp con người, chất lãng tử cũng thật đậm nét khiến cho Nguyễn Tuân vừa ngậm ngùi thương tiếc lại vừa mến mộ : "Đi qua Hoành Sơn quan thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trờinước bao la... Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết sát ngay bên đường thiên lý".

Cụ Hồ Viễn trong Ngôi mã cũ vốn xuất thân từ tướng Cờ Đen oai phong lẫm liệt một thời nay vì thất thế mà trở thành một ông thầy địa lý nhưng vẫn giữ được nét tài tử, nghệ sĩ. Nhân vật cô Tú trong truyện đã kể cho đứa em nghe nhiều chuyện về cụ. Đó là một con người mà qua lời kể của cô chị, cậu Chiêu "thấy cả một huyền sử bộc chung quanh một tướng võ nghệ cao cường". Hình ảnh cụ Hồ lúc còn làm tướng Cờ Đen thật oai phong lẫm liệt : "Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoạn mã và phía bên phải là một khẩu súng thập bát hưởngbắn một lúc được mười tám phát liền". Nhưng người ta còn nhớ đến con người này bởi một phong thái ung dung, tài tử: "Những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ "sường chí" có những quả bông đỏ, cầm quạt... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Viên tướng CờĐen này lại có nét chữ viết rất đẹp, rất tốt "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá thiếp... nét sổ rất khỏe và rất thẳng". Con người ấy, dù đã thất thế, vẫn cố giữ một nét sinh hoạt cầu kì "Thuốc phiện, nếu không phải là thứ một lạng đựng vào cóng thì không hút", vẫn để móng tay út lá lan "cuống hai vòng như râu rồng" và mỗi bận rửa ta thì phải lại có vài quả chanh. Chất tài hoa tài tử còn được thể hiện trong chi tiết ông cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu đã đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày trên đường đi...

Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là một mẫu người tải tử điển hình. Ông là "người có hoa tay" lại "thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên "sống cuộc đời cũng như người ta chơi bời mà thôi. Người ấy thật là người không có lấy một giây phút trịnh trọng với nhân sinh. Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái tài hoa của mình ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình". Làm công việc dạy học mà con người chịu ảnh hưởng nhiều của nhân sinh quan Lão Trang này không mấy chú tâm, chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái lá thuốc, ngắm trăng trên đỉnh Sài Sơn hoặc ẩn mình đối với nhân vật này. Phải chăng đó là sự gặp gỡ, là hiện thân của chất tài tử, của chủ nghĩa xê dịch trong Nguyễn Tuân ?

Nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không nhắc đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ ngườitử tù. Con người tài hoa ấy chẳng những có tài bẻ khóa, vượt ngục mà con có tài "viết chữ rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục đã từng ao ước"có được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên đời". Thế nhưng không dễ gì xin được chữ của ông. Con người ấy đã từng nói với viên quản ngục "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bứctrung đường cho ba người bạn thân của ta thôi". Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn đã làm nổi bật lên một nhân cách cao vời vợi. "Con ngưởi này vừa là một nghệ sỹ tài hoa vừa là một trang anh hùng dung liệt mặc dù chí lớn không thành nhưng bao giờ tư thế cũng hiên ngang bất khuất" (Trần Hữu Tá). Đọc truyện người ta dễ dàng nhận ra thái độ thán phục của Nguyễn Tuân trước trang anh hùng dũng liệt này. Nhân cách, khí phách của Huấn cao thể hiện trong cái vẻ lạnh lùng “thúc mạnh thành gông xuống đất đánh huỳnh một cái” mà không thèm để ý đến những lời dọa nạt của mấy tên lính áp tải, trong thái độ thản nhiên trước cái chết sắp cận kề, trong những lời nói thể hiện quan niệm sống coi thường bạc vàng, quyền thế của ông. Nhung nhân cách của Huấn Cao còn được thể hiện trong việc ông nhận ra sở thích cao quý của viên quản ngục. Chính vì thế, cảnh cho chữ phi thường mới diễn ra trong chốn ngục tù: “ Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên trạm canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”. Trong cảnh tượng lạ lùng này, viên quản ngục – người nắm quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu mực. Còn Huấn Cao, tên tử tù sắp bị chém đầu thì ung dung, đĩnh đạc biết bao! Không nghĩ gì đến cái chết đang đón đợi mình, Huấn Cao chỉ chú ý đến mùi thơm của chậu mực, màu tinh khiết của bức lụa trắng và cuối cùng là lời khuyên viên quản ngục hãy thay đổi chỗ ở để khỏi “Nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”. Ở truyện ngắn này, quan niệm của Nguyễn Tuân thể hiện khá rõ: cái tài phải di cùng với cái thiên lương trong sáng. Chính sự kết hợp giữa cái tài, thiên lương và khí phách anh hùng đã làm nên nhân cách cao vợi của Huấn Cao.

3. Cái đẹp mang tính chất duy mỹ


Như trên đã nói, Vang bóng một thời là minh chứng sinh động cho quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” của Nguyễn Tuân thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
Là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật trong đời, Nguyễn Tuân nhiều khi đã không chú ý đến tính chất xã hội của hiện thực. Ông mải mê ca ngợi những cái đẹp thuần túy, mang tính hình thức. Hai truyện ngắn Chém treo ngành và Ném bút chì là những ví dụ tiêu biểu cho việc ca ngợi, phản ánh cái đẹp một cái duy mỹ của ông.

Truyện Chém treo ngành kể về một tên đao phủ tên là Bát Lê. Bát Lê là người “có tài chém đầu người chỉ một nahst mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” như quan Tổng đốc đã nhận xét về y. Cuộc chém đầu những kẻ phiến loạn được Bát Lê tập dượt bằng những buổi chém những thân cây chuối trên một góc thành. Tiếng hát của Bát Lê cùng với tiếng những thân chuối đổ trên mặt thành gây một cảm giác rờn rơn, chết choc. Nhà văn đã dừng lại khá lâu để miêu tả cảnh Bát Lê tập lối chém treo ngành trong vườn chuối: “Bát Lê tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu bên trái, Bát Lê thuận tay trái đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thần hình người quỳ chịu tội. Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê đã hát hết mười bốn câu và đánh gục mười bốn chân cây chuối… Bát Lê quay mình lại, ngắm các công trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫn còn dính vào phần gốc bởi một lần bẹ bị giập nát”. Buổi chém tử tù cũng được miêu tả với giọng văn hiện thực, có phần bàng quan, lạnh lùng như vậy: “Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái âm thanh lơ lớ rờn rợn. Quan Công Sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun lên phì phì, vọt lên cao trên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống”. Vào những lúc nhộn nhạo quá đông tử tù, việc chém đầu người sẽ được tiến hành theo một cách còn “tài tình” hơn và tất nhiên cũng rùng rợn hơn. Người ta sẽ “Chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ từ tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Đại để cũng giống như là cái lối cắp gắp chả chim mà nướng ấy”. Rồi đao phủ sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta “róc mắt mía”…

Trong truyện ngắn Ném bút chì, Nguyễn Tuân nói tới cái tài ném lưỡi mai chết người của Phó Kình, của Lý Văn trong một đảng cướp. Chỉ với “cây bút chì”– lưỡi mai thô sơ mà y (Phó Kình) đã dám “chấp cả một ấp người”. Tài ném lưỡi mai của hạng người này có thể nói đã được miêu tả như một thứ nghệ thuật: “Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào cánh tay trái, bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững dốc nhọn mai… Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gúc xuống mặt đất, kêu đánh roạt.” Còn đây là những dòng miêu tả tài “ném bút chì” của Lý Văn: “Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vút. Một tiếng gà oang oác. Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai chân. Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và gặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn sinh vào đùi bởi lần da hoen máu.” Lý Văn còn hứa hẹn với đồng bọn về một thứ “tài nghệ” mới: “ Để hôm nào rảnh anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến thì đầu người cứ rụng như sung”.

Đọc những truyện ngắn loại này, nhiều người có cảm giác giọng văn của Nguyễn Tuân lạnh lùng, tàn nhẫn làm sao! Tả cảnh chém đầu người giữa pháp trường mà giọng văn cứ lạnh lùng, tình táo như không. Thực ra cần phải hiểu quan niệm của Nguyễn Tuân khi miêu tả hiện thực. Phải chắng, với quan niệm “Viết văn không khuynh hướng”, Nguyễn Tuân chỉ chú ý ngợi ca những cái đẹp mang tính hình thức chứ không mang tính tư tưởng ? Sự phiến diện trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám là một hạn chế lớn. Đọc Vang bóng một thời hay Tóc chị Hoài, Chiếc lư đồng mắt cua…, dễ thấy nhiều khi Nguyễn Tuân tách rời ra khỏi cái đẹp có ích, đề cao cái đẹp một cách thuần túy. Trong Tóc chị Hoài, Nguyên Tuân cũng đã từng tuyệt đối hóa cái đẹp của hình thức khi miêu tả mái tóc người con gái. Ngay cả trongChùa đàn – tác phẩm được viết sau 1945, người ta vẫn thấy quan niệm nghệ thuật cũ của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Theo nhà văn, cái đẹp trước hết phải gắn với cái tài. Với Nguyễn Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, không nhất thiết phải xem cái tài đó có lợi hay không.

TrongChùa Đàn, nhà văn ca ngợi tiếng đàn oan nghiệt ma quái: “Người ta vừa đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí.” Nếu gạt bỏ đi yếu tố ma quái trong truyện này, người đọc vẫn thấy rõ sự thán phục của nhà văn trước tài đánh đàn của Bá Nhỡ và tiếng hát điêu luyện, ngọt ngào của cô Tơ.

Những năm sau này, với những tùy bút nổi tiếng như Sông Đà và Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, thế giới quan của nhà văn có nhiều thay đổi. Cái nhìn của nhà văn trở về nên tin yêu, đôn hậu, không có cái vẻ khinh bạc như trước kia. Tuy nhiên, có một điều không thể thay đổi trong cảm hứng thẩm mỹ của nhà văn. Nguyễn Tuân vẫn say sưa miêu tả, thể hiện cái tài của những con người bình thường giản dị mà không giấu diếm sự thán phục của mình đối với họ. Đọc Người lái đò sông Đàtrong tập tùy bút Sông Đà mới thấy nhà văn đã dành bao nhiêu yêu mến và thán phục trước người lái đò trên sống Đà. Trong thiên tùy bút này, người lái đò hiện ra dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa có cốt cách của một anh hùng lại vừa có phong thái của một nghệ sỹ tài hoa, tài tử. Như vậy, chính quan niệm về cái đẹp vừa có tính chất nhất quán vừa có sự biến đổi trong những tác phẩm sau Cách mạng tháng Tám như Người lái đò sông Đà đã tạo nên một phong cách lớn Nguyễn Tuân.

Cái đẹp mang tính duy mỹ rõ ràng đã gây nhiều chú ý, thắc mắc ở người đọc khi đến với Vang bóng một thời. Nhưng ở đây dường như cũng chứa đựng ít nhiều mâu thuẫn. Đồng ý rằng nhà văn ít chú ý đến ý nghĩa xã hội của đời sống, chỉ quan tâm đến phương diện mỹ học của sự vật và con người những sẽ lý giải như thế nào trước một Nguyễn Tuân giàu cảm tình với cái “thiên lương” cao quý và một Nguyễn Tuân giàu tinh thần dân tộc? Chữ người tử tù lâu nay đã được coi là một truyện tiến bộ. Truyện chẳng những thể hiện thái độ luyến tiếc của nhà văn trước một nhã thú văn hóa cổ truyền đang dần lụi tàn – nghệ thuật thư pháp – mà còn nói lên rất nhiều khâm phục của tác giả đối với Huấn Cao, hình bóng của người anh hùng Cao Bá Quát. Ngay cả những truyện được coi là đậm chất duy mỹ như Chém treo ngành vẫn có thể khơi gợi nơi người đọc một sự căm thù sâu sắc đối với bè lũ thực dân và tay sai của chíng. Chẳng phải là Nguyễn Tuân đã thể hiện một cách kín đáo thái độ của mình qua đoạn văn miêu tả cơn lốc xoáy kỳ lạ giữa pháp trường làm hất tung chiếc mũ trên đều quan Công Sứ đó sao? Như vậy, với quan niệm cái đẹp mang tính duy mỹ nói trên, Nguyễn Tuân đã có nhiều khi tự mâu thuẫn với chính mình hay nói như nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân đã “tự lừa dối mình trong những ngày tháng tuyệt vọng”. Nguyễn Tuân phức tạp cũng chính là ở điểm này

4. Nghệ thuật tả cảnh và một hệ thống ngôn từ độc đáo.

Quan niệm về cái đẹp như trên đã quy định nghệ thuật tả cảnh và hệ thống ngôn từ trong Vang bóng một thời.

Có thế thấy rõ trong tác phẩm không hiện diện những cảnh tượng huyên náo, rực rỡ màu sắc. Cảnh vật được miêu tả trong tác phẩm không ít thì nhiều đều gợi về một thời xa vắng và như một nhà phê bình đã viết, nó kéo con người ta trở về với quá khứ.

Đọc truyện, dễ nhận thấy một gam màu nhạt và ảm đạm bao trùm khắp trong tập truyện. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái vang của thời đã qua, cái bóng của thời đã qua, mà ngày nay người ta tưởng còn văng vẳng, và thấp thoáng đó là tất cả cái thê lương nó khởi đầu những mẫu chuyện cổ thời”. Gam màu nhạt và ảm đạm này phù hợp một cách kỳ lạ với khung cảnh những buổi chiều u ám: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mất con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Những thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa ngâu đổ lên vườn chuối một khú nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu”. Đến gần cuối truyện, không khí ảm đạm u ám ấy còn được pha thêm màu sắc dữ dội gây cảm giác bức bối, nặng nề báo hiệu chết chóc, đau buồn: “Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thời sáng hơn là nền trời. Nền trời vẫn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình thù quái lạ. Những bức tranh mây chói màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sang gắt”. Chẳng cứ gì buổi chiều, ngay cả một buổi trưa hè cũng được tả với sự buồn vắng, im lìm: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đối mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớn không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vớn qua những màu xanh bong loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất).

Truyện Báo oán có lẽ là truyện có nhiều nhất những đoạn văn tả cảnh ảm đạm, thê lương và thật đậm nét yếu tố ma quái như bản thân tên truyện. Sau đây là một ví dụ: “Mùa mưa dấm tháng chin chỉ là những giọt nước mắt triền mien than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam Hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ, trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí. Ngọn song đồng hỗn loạn vỗ tung bùn vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những lũy tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang vu”. Ở một chỗ khác: “Nền trời phương Đông đáng lẽ phải hửng lên để đón lấy chiều dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình vật có tang ma, những màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn…”. Bên cạnh những đoạn văn tả cảnh tày còn có những đoạn tả người cũng vẫn với những “nét rầu rầu xanh xám” ấy: “Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái cảnh màn trời triền mien những kinh động ngờ sợ, ánh sáng tốt và ẩm ướt của rừng tị nạn, đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chum túc mới vừa to mà đã nhuộm màu tang” (Ngôi mả cũ).

Ấn tượng nhất có lẽ là những đoạn văn tả cảnh gắn liền với những thú tiêu khiển thanh nhã. Cảnh vật ở đây trở nên thanh khiết, êm đềm đôi khi buồn bã đến kỳ lạ thể hiện một cách gián tiếp thái độ yêu mến, trên trọng và nuối tiếc của nhà văn. Đây là cảnh tượng trong một cuộc thả thơ: “Vầng trăng mười bốn lúc chênh chếch và đoài đã in một cúc bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi … tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc ăn tiền … những tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào” (Thả thơ). Còn đây là cảnh vật buổi sớm mai trong lành nhưng vẫn gây cảm giác u hoài: “Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc” (Chén trà trong sương sớm). Đánh thơ cũng gợi nhiều cảm tình nơi người đọc bởi một bầu không khí thơm ngát hương hoa huệ trắng, hương hoa tinh khiết bao bọc lấy những con bạc nhiều khi đến với cuộc đánh thơ chỉ vì niềm yêu mến văn chương: “Hoa huệ mềm mại cuộn cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở mạnh, cáng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa huệ” (Đánh thơ). Trong truyện Ngôi mả cũ, hình ảnh giàn bầu nậm với những “trái bầu nậm còn tương dưới lỗ giàn là một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bong” được miêu tả thật ấn tượng nhờ vào những lien tưởng phong phú và tinh tế của nhà văn: “Cậu Chiêu đang hấp háy mắt ngửng đầu ngắm những quả bầu nậm buông thong xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu Chiêu đã biến thành một áo lụa màu xanh của người công tử phong lưu đa tình. Đấy là cái màu dịu mắt của chất ngọc bích, đấy là cái thứ áo xanh của ông quan Tư mã đất Giang Châu dung lau nước mắt khi thương đến một người con hát giữa một khoang thuyền trống trải trôi trong đám lau sậy ven sông. Hoặc vì đó là màu xanh của những cánh đồng lúa non ngút ngàn của những xứ không bao giờ có nạn binh lửa”…

Lại có những cảnh nửa thực nửa ảo gây nên một cảm giác siêu thoát, đượm màu Phật giáo: “Bọn người xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nước tròng trành theo bước chân mau của tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ẩm ướt và thẫm màu. Những hình ngôi sao ẩm ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài rắn. Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dài lạnh lung và ví cổng chà Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động”.

Có thể nói cảnh và người trong tập truyện đều là cảnh và người của dĩ vãng - thứ dĩ vãng đã một thời vang bóng. Với cách miêu tả này, tác phẩm tạo nên một không khí buồn mà thanh sạch khác hẳn với những xô bồ trong cuộc sống hiện tại…

Bây giờ, ta hạy nói tới hệ thống ngôn từ độc đáo của tác phẩm. Bài viết này không có tham vọng bàn tới những vấn đề lớn trong phong cách nghệ thuật của “Thầy bút Nguyễn Tuân” mà chỉ muốn đề cập đến nét độc đáo trong ngôn từ mà nhà văn sử dụng ở tập truyện đặc sắc này.

Trước hết phải thấy rằng, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt một cách đắc địa. Những từ cổ này được kết hợp hài hòa, chặt chẽ với những cảnh, những người trong quá khứ, tạo nên một hiệu quả đặc biệt. Người ta có cảm giác như sống với quá khứ, như đang trò truyện với những nhân vật trong trang sách. Giáo sư Hoàng Như Mai đã nhận xét: “Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như mở hai cánh cửa bước vào một nhà bào tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một thời xưa”. Ấn tượng về sự xưa cũ, cổ kính này một phần được tạo ra bởi hệ thống từ cổ kết hợp với những địa danh, tên gọi, cách nói, cách xưng hô mang dấu ấn của một thời xuất hiện dày đặc trong tác phẩm. Những cái tên: Chùa Đồi Mai, xứ Đồng Côn, làng quan Công Sứ, khoa thi Mậu Ngọ, nhà nước bảo hộ, viên giám trảm, lính cơ, cụ nghè … giờ đây đã trở thành xa lạ, thậm chí gây thắc mắc đối với người đọc đương thời nhưng lại giúp chúng ta rất nhiều trong hành trình trở về quá khứ. Có thể kể ra rất nhiều từ cổ, cách nói, cách xưng hô … như đã nói ở trên: “Thụ một ít lộc Phật”, ít nhời, chén tống chén quân, ấm quần tử, ấm Thế Đức màu gan gà, ấm đồng cò bay, kim hỏa …(Những chiếc ấm đất); người bạn đồng song, thả thơ, cái níp sách sơn son … (Thả thơ); phiến trát, Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, thầy thơ lại, ngục tốt, án thư, bộ từ bình, bức trung đường, đồng tiền kẽm, lạc khoản, thoi mực, bái lĩnh … (Chữ người tử tù); điệu cổ phong, ngâm gói hạc (Chén trà trong sương sớm); trường thi, lọng vàng, mùi nghi vệ, quan chánh chủ khảo, kinh truyện, “Báo oán giả, tiên nhập, báo oán giả, thứ nhập …” (Báo oán). Việc sử dụng hệ thống ngôn từ độc đáo như trên vừa thể hiện dụng ý của nhà văn lại vừa nói lên một cách đầy đủ nhất sự hiểu biết sâu rộng, cặn kẽ của nhà văn về nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa và xã hội.

Tóm lại, tìm hiểu quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời là một công việc vừa thú vị vừa đòi hỏi nhiều công phu vì nó trực tiếp liên quan đến một hiện tượng văn học vô cùng độc đáo và phức tạp của văn học nước nhà.

ThS. Triệu Thị Huệ, Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP.HCM
Thêm
599
0
0
images.jpg


Nhà văn Hemingway có nói: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ”. Anh/ chị hãy phân tích hình tượng con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân qua hai lần miêu tả sau để làm rõ nhận định của Hemingway:- “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này […]. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”- “Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà”.
BÀI LÀM
Trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của Hemingway, sau khi thuật lại cuộc chiến đấu giữa ông lão Santiago với con cá kiếm ngoài đại dương mênh mông, Hemingway có đúc kết một chân lí: “Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đánh bại”. Điều này có giá trị vượt thời gian, vượt không gian, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn giúp con người mạnh mẽ đương đầu với thử thách. Từ câu nói của Hemingway, ta liên tưởng ngay đến hình ảnh ông lái đò trong cuộc chiến đấu với sóng thác Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, khát khao xê dịch khắp mọi miền. Trong bài tùy bút, Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả hình ảnh con sông lúc thì dàn bày thạch trận sẵn sàng nuốt chửng ông lái đò, lúc thì êm dịu mềm mại hẳn đi. Không hẹn mà gặp, phải chăng Nguyễn Tuân cũng cùng chung một quan niệm với Hemingway khi tái hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ”.

Từ thuở Trái Đất được hình thành cho đến ngày hôm nay, con người và thiên nhiên cùng hòa hợp với nhau tạo nên bức tranh muôn màu, sinh động và tràn đầy sức sống. Thiên nhiên che chắn, bảo vệ cho con người. Con người sống sảng khoái giữa thiên nhiên, tận hưởng những mát lành ngọt ngào mà thiên nhiên đã mang lại. Con người cũng ra sức giữ gìn môi trường thiên nhiên, giữ lấy cái màu xanh, giữ lấy từng cảnh quan tuyệt vời trên khắp địa cầu thăm thẳm. Song, đôi khi thiên nhiên ương bướng với sức mạnh vô biên đã chống đối lại con người, khiến cho con người gặp không ít phiền toái. Con Sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân là một minh chứng! Dòng sông này bao đời nay thách thức con người, sẵn sàng nhấn chìm con người xuống lòng sông, hủy hoại sự sống con người. Trước mắt, Sông Đà là “kẻ thù” của con người. Nhưng ở một khía cạnh khác, Sông Đà là “bạn”, là “đối thủ’. Sông Đà là bạn đồng hành cùng người lao động Tây Bắc trên hành trình sông nước. Sông Đà chia sẻ những vui buồn đời người lái đò, khiến người ta cảm thấy nhớ thương khi xa sông và vui mừng khi được quay về tái ngộ. Sông Đà là đối thủ vì đã bao lần sông thách thức con người, buộc con người phải tranh đấu để dành lấy sự sống. Từ trong môi trường đó, con người đã lớn lên, đã chói ngời cái “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn khi chiến đấu và lao động trên miền núi sông hùng vĩ mà thơ mộng này.

Nếu ví “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một “tảng băng trôi” thì “ba phần nổi” chính là hình ảnh con Sông Đà trong dáng vẻ của một “kẻ thù” hung tợn sẵn sàng nuốt chửng người lái đò trên sông, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai đi ngang qua những quãng sông đầy cạm bẫy. Ở “bảy phần chìm”, Nguyễn Tuân ngầm thể hiện sự hung bạo của con sông như một “thứ lửa” thử thách lòng người, thách thức ý chí và sự thông minh của con người. Sông Đà sẽ không gây hại nếu con người đủ bản lĩnh, tự tin, đủ sức mạnh vượt qua ghềnh thác, qua xoáy nước. Đồng thời, nhà văn cũng ca ngợi sự hùng vĩ của non sông đất Việt, hồn thiêng núi sông Tây Bắc nghìn trùng. Đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung tái hiện sự hung hãn, dữ dội của Sông Đà. Thấp thoáng đằng sau là bóng dáng của người lái đò, con sông trở thành “đối thủ” hách dịch, ngang tàn trong cuộc chiến đấu sinh tử.

Hành trình vượt xuôi Sông Đà bắt đầu từ phía trên thượng nguồn có quãng đá bờ sông dựng vách thành, có quãng mặt ghềnh Hát Lóng cuồn cuộn sóng gió, vượt qua những cái “hút nước” ghê rợn. Dòng nước đưa chiếc thuyền “đuôi én sáu bơi chèo” của người lái đò tới cái thác mà thanh âm tiếng thác nước dự báo những điềm không hề lành lặn. Nguyễn Tuân viết: “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Cái thác không phải là nỗi ám ảnh to lớn của những người qua sông, song tiếng thác rầm rộ lẫn “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” không thể không khiến người lái đò rùng mình e ngại. Bọt sóng trắng che khuất màu xám xịt của đá, khiến quãng sông hiện lên hùng vĩ vô biên – biểu tượng cho uy lực của thiên nhiên Sông Đà. Thế nhưng, sóng đối với người lái đò trên sông chẳng đáng sợ là gì so với đá. Dường như đá ngầm trên sông “dàn bày thạch trận”, tạo thành những cửa sinh, cửa tử mới là thách thức lớn đối với người lái đò: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. “Đường ngoặt sông” cong cong là cánh cửa dẫn dụ người lái đò vào quãng sông nhiều đá ngầm, khúc ngoặt áng cả tầm nhìn của người lái đò mà giả sử như không chuẩn bị trước tâm thế chiến đấu, chắc có lẽ người lái đò sẽ bị đánh tan xác ở những chặng ban đầu. Nguyễn Tuân khéo léo nhắc lại sức mạnh và sự dữ dội của đá trên Sông Đà: “từ ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông”. Phải chăng, từ khi nào Sông Đà xuất hiện ở núi rừng Tây Bắc, thì từ lúc đó đá “mai phục” sẵn chờ đợi người lái đò để thực hiện một “cú vố” bất ngờ. Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ mang tính võ thuật cao, khiến hòn đá vô tri cũng trở nên sinh động, có “tâm địa độc ác của thứ kẻ thù số một”. Cách nhân hóa: “một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy chiếc thuyền” khi chiếc thuyền tiến vào “thạch trận Sông Đà” khiến câu chuyển động mạnh mẽ, giúp người đọc hình dung ra sự đáng sợ của quãng sông này cùng với nỗi lo ngại cho sinh mệnh của người lái đò trên sông. Ta tự hỏi đá hay là một thứ quỷ quái nào trên Sông Đà mà cũng có mặt, có mũi, có tâm địa độc ác: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Hàng loạt tính từ chỉ người: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” được Nguyễn Tuân sử dụng để miêu tả hình thù hòn đá khiến đá trở nên hống hách hơn, như “hất hàm” đòi một cuộc tuyên chiến mà một bên là thiên nhiên với sức mạnh oai hùm, một bên là con người nhỏ nhoi trên “chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo” vượt qua cửa tử tiến vào cửa sinh. Nhà văn khép lại bằng câu văn: “Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”. “Thạch trận trên sông” đã được dàn sẵn chờ đợi và thử thách ông lái đò. Tuy nhiên, với bản lĩnh, sự thông minh am hiểu cái quy luật phục kích của lũ đá nơi này kết hợp với tay lái “ra hoa”, ông lái đò đã chiến thắng ngoạn mục “đối thủ” hung hãn của mình.

Một góc nhìn khác, Sông Đà chính là “bạn” của Nguyễn Tuân. Người bạn này khoát lên mình vẻ đẹp tuyệt mĩ đặc trưng cho xứ sở Tây Bắc trù phú. Người bạn song hành cùng Nguyễn Tuân trong chuyến thực tế gian khổ mà hào hứng tìm đến miền núi non Tây Bắc điệp trùng. Trong đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Tuân có cái nhìn thật độc đáo và khác biệt, gây bất ngờ về con Sông Đà: nhìn con sông như một “cố nhân” – một người bạn cũ lâu ngày không gặp, để rồi thương, rồi nhớ, rồi mong, rồi háo hức khi được tái ngộ với Sông Đà sau khi ra khỏi rừng già.

Mở đầu đoạn văn, Nguyễn Tuân viết: “Con Sông Đà gợi cảm”. Nhà văn đã vẽ nên một nét hoàn toàn mới về Sông Đà, con sông vắt ngang núi rừng, linh hồn của đất và người Tây Bắc. “Gợi cảm”, tính từ vốn để chỉ sự quyến rũ dịu dàng của người con gái bấy giờ được Nguyễn Tuân đem vào gán ghép với con sông để ca ngợi vẻ đẹp hữu tình, thi vị của dòng sông này khiến bao văn sĩ phải tốn giấy mực để tôn sùng, để say đắm. Qủa thật, “Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách”. Người nhìn Sông Đà gay gắt, dữ dội, hung bạo; kẻ lại nhìn Sông Đà duyên dáng, mềm mại, ngọt ngào. Và Sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đã hiện lên qua hai nét, hoàn thiện hoàn mĩ. Hóa ra, “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Nếu trước đó Nguyễn Tuân nhìn con sông này từ trên tàu bay xuống, ngắm Sông Đà theo thời gian để nhận ra cái màu nước trên sông thay đổi theo mùa thì đến đây, Sông Đà trở thành “cố nhân” trong mắt Nguyễn Tuân, một sự ví von tuyệt vời và thấm đượm nghĩa tình. Nguyễn Tuân hồi tưởng về chuyến thực tế ở rừng của mình: “Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rừng Tây Bắc ngột ngạt, dữ dội, cái “uy” của rừng khiến Nguyễn Tuân ngột ngạt và thèm thuồng “chỗ thoáng”, thèm sông. Vậy là Nguyễn Tuân đã mải mê đi theo anh liên lạc, không xác định được phương hướng, không có ý niệm “mình sắp đổ ra Sông Đà”. Và rồi cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Tuân với “cố nhân” đã diễn ra, không bịn rịn xúc động như bao cuộc gặp gỡ khác, nhưng thật thú vị và vui tươi biết chừng nào. Sông Đà gây ấn tượng trong mắt Nguyễn Tuân khi ông dòng sông “phát tín hiệu” với người bạn của mình bằng ánh sáng “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. “Xuống một cái dốc núi”, Một sự so sánh tài hoa, Nguyễn Tuân đã đưa những trò chơi tinh nghịch của trẻ nhỏ vào không gian yên ắng, vắng vẻ và hoang dã của núi rừng. Và khi “nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân bỗng nhớ lại câu thơ của Lí Bạch năm xưa tiễn người bạn thân là Mạnh Hạo Nhiên lên đường đi Quảng Lăng tại Lầu Hoàng Hạc trong mùa hoa khói: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Thật đẹp, thật mềm mại, nhà văn đã biến con sông của tâm hồn mình trở nên thi vị hơn rất nhiều. Hình ảnh bờ bãi Sông Đà sau lần xa cách hiện ra trước mắt Nguyễn Tuân: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” thật yên bình, lặng lẽ và thi vị. Có lẽ vì đẹp và tình nghĩa như thế nên ta hiểu rằng vì sao Sông Đà lại chiếm trọn tâm hồn Nguyễn Tuân, sống trong lòng ông để rồi ông phát huy hết thế mạnh ngôn từ của mình và thể hiện, mà vẽ vời như thế.
Rõ ràng, hai đoạn văn trên tiêu biểu cho hai diện mạo Sông Đà, một là “bạn”, một là “đối thủ”. Hai cá tính trái ngược nhau nhưng cùng hòa vào làm thành một chỉnh thể Sông Đà trong mắt người nghệ sĩ. Sông Đà – một vẻ đẹp tuyệt mĩ của núi rừng Tây Bắc, hình tượng thiên nhiên trở nên lung linh, sống động trên trang văn của Nguyễn Tuân. Chính con sông này đã góp phần phát triển kinh tế, đời sống của đồng bào Tây Bắc trong những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xây hội, cải thiện cuộc sống, đổi mới Tổ quốc. Quan niệm của Hemingway quả thật trùng khít và phù hợp khi soi chiếu hai tính cách của “nhân vật” Sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân.

“Đà giang độc Bắc lưu”, có lẽ vì “độc Bắc lưu” nên dòng sông này cũng trở nên “lắm chứng lắm bệnh”, khó lòng mà hiểu hết được. Sông Đà tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên đất trời Tây Bắc, non xanh nước biếc Việt Nam. Và người lái đò của Nguyễn Tuân tuy nhỏ bé, nhưng tầm vóc lại vô cùng lớn lao. Con người là chủ nhân xây dựng đất nước, con người nhất định sẽ chiến thắng thiên nhiên nếu có ý chí, quyết tâm vững vàng. “Người lái đò Sông Đà” vẫn chiếm trọn tình cảm của bao người. Những dòng văn ấy thực sự không hề khó đọc nếu ta cũng yêu Sông Đà say đắm như Nguyễn Tuân, như người Tây Bắc.
Bài viết mình sưu tầm của bạn Hoàng Khánh Duy vì bài viết này rất hay mong muốn chia sẻ cho các bạn 2005 nhé!
Thêm
Cảm nhận về Sông Đà với lí luận văn học
5K
0
1
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo … Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

nguyễn tuân.png

Nguyễn Tuân. Ảnh mạng.

Các tác phẩm tiêu biểu: "Vang bóng một thời" (1940), "Sông Đà" (1960), "Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi" (1972), "Tờ hoa" (1966).

Cái nhìn của Nguyễn Tuân mang tính phát hiện độc đáo đối với thế giới khách quan, tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống, cái đẹp tài hoa, phi thường, cái đẹp ở phương tiện văn hoá, mĩ thuật. Nguyễn Tuân sống theo chủ nghĩa xê dịch, không chấp nhận cái đã có sẵn, luôn tìm tòi, khám phá những điều mới lạ.

Một số nhận định về Nguyễn Tuân:
Sách Văn 12 có viết: "Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng túng, tài hoa và uyên bác".

Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện ..”

“… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
“… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” .
(Nguyễn Đăng Mạnh)
“… Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Thêm
Nguyễn Tuân - nghệ sĩ tài hoa
869
0
0
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà qua đoạn trích sau:
Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình.
SOẠN BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN.jpg

Hai phát hiện thú vị về con sông Đà. Ảnh Pinterest.

Hướng dẫn chi tiết:
1. Mở đầu đoạn văn là hình ảnh Sông Đà được chiêm ngưỡng từ trên cao xuống. Ở điểm nhìn ấy, sông Đà hiện lên với đường nét, hình khối, tính cách mang linh hồn của một con người.

-Không bằng lòng với những gì chung chung, đại khái, Nguyễn Tuân đã dành nhiều công sức để tìm hiểu con sông Đà. Không chỉ nhìn dòng sông ở góc gần, ông còn quan sát con sông từ trên tầm cao của máy bay. Cách mở rộng điểm nhìn ấy đã mang đến cho người đọc những cảm nhận trọn vẹn hơn về dòng sông Tây Bắc: “Từ trên tàu bay mà nhìn xuống sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mấy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà”.

- Phép điệp “không ai trong chúng ta nghĩ rằng” rồi “cũng không ai nghĩ rằng” như tiếng reo vui, tự hào của tác giả khi khám phá ra những sự thật thú vị của con sông Tây Bắc hung bạo mà trữ tình trên tàu bay. Tác giả đã khai thác được hai phát hiện mới lạ về dòng sông Đà.

2. Phát hiện 1: Sông Đà hiện lên hùng vĩ, tráng lệ vừa thơ mộng trữ tình qua hình dáng, đường nét, hình khối.

+ Với nghệ thuật so sánh, nhà văn nhìn con sông Tây Bắc giống như sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Từ láy “ngoằn ngoèo” mang đến cho người đọc một hình dung thú vị, giàu sức gợi về dòng chảy của con sông. Có thể hình dung: do địa hình Tây Bắc vô cùng hiểm trở nên sông Đà không chảy theo một đường thẳng mà quanh co, uốn lượn, gấp khúc, vòng vèo, chùng chình, nó đi qua những núi, những gò tạo hình thù như một sợi dây thừng giàu hình khối, đường nét.

+ Dòng sông từ góc nhìn ấy trở nên mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng đầy thơ mộng. Nó khiến nhà văn có chút ngỡ ngàng: đây có thật sự là con sông hung tợn với những hút nước hung bạo, thác đá gầm thét từng bày ra thạch thủy trận đánh nhau với người lái đò trước kia không? Đây có phải là con sông đã “làm mình làm mẩy” với con người Tây Bắc, đã “giận dỗi vô tội vạ” ở trên thượng nguồn? Các từ ngữ như “làm mình làm mẩy”, “giận dỗi vô tội vạ” vừa làm bật lên sự ngạc nhiên của tác giả vừa là cách ông nhân cách hóa dòng sông. Sông Đà không chỉ hiện lên qua những đường nét hình khối mà còn mang tính cách của một cô con gái kiêu kì, đỏng đảnh.

3. Phát hiện 2: Sông Đà là dòng sông trong thần thoại

+ Sông Đà dưới cái nhìn qua mây trời hiện ra ngỡ ngàng: “Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “núi cao sông hãy còn dài – năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Phép điệp “không ai trong tàu bay nghĩ rằng”, rồi “cũng không ai nghĩ rằng” như tiếng reo vui, tự hào của tác giả khi khám phá ra một góc độ nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo trữ tình. Miêu tả dòng sông qua cái nhìn lịch sử, Nguyễn Tuân còn đem đến cho người đọc một phát hiện thú vị mà không phải ai cũng tường tận: Đó là con sông trong truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh" nổi tiếng của người Việt. Nhìn từ trên cao xuống, núi đồi Tây Bắc chồng chồng lớp lớp như quang cảnh Sơn Tinh dời non chặn dòng chảy của nước, còn con sông Đà vòng vèo chùng chình như một sự tìm kiếm có ý thức khi Thủy Tinh tìm đến Sơn Tinh đòi lại người tình nhân muôn thuở. Quả như Nguyễn Thùy từng nhận định: “Trang văn Nguyễn Tuân vì thế không chỉ cuốn cuộn dòng thác của sông chữ, mà còn ngồn ngộn kiến thức của sông đời”. Ta bắt gặp nơi đây không chỉ là những kiến thức của lịch sử mà còn là kho tàng hiểu biết về địa lí, văn hóa, hội họa, điện ảnh, âm nhạc...

-Cũng với cái nhìn tha thiết, Nguyễn Tuân còn vẩy bút mà điểm tổ thêm một nét yêu kiều: “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thân quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Câu văn kéo dài ra, âm điệu miên man, dạt dào như cái bao la của trời đất cõi này. Hai chữ “hình như” mang hơi thở của một câu hỏi tu từ gợi ra cảm giác bâng khuâng thương nhớ. Bức tranh thiên nhiên trong cảm nhận của tác giả là những nét đẹp “quen thuộc” của Tổ quốc bao la, một vẻ đẹp hài hòa được cộng hưởng từ các đường nét mềm mại của dòng sông “tãi ra”, sự nhấp nhô của đại dương đá, dòng sông bồng bềnh trong mây trời, lúc ẩn, lúc hiện dưới chân mình. Cách nói “đại dương đá” là một cách dùng từ rất hay, dùng từ chỉ biển để nói về đá, Nguyễn Tuân gợi ra trước mắt người đọc vùng núi non Tây Bắc trùng điệp bao là những đá là đá. Từ láy “lờ lờ” mang đến sự mê ảo của xứ sở đá, vẻ đẹp huyễn hoặc của đất trời. Đó quả thực là bức tranh đẹp của thiên nhiên sông Đà phản chiếu qua một tâm hồn tài hoa, trí tuệ.
Thêm
Khám phá hai phát hiện mới lạ về con sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
  • Love
Reactions: KNgọc
3K
1
0
Cảm nhận vẻ đẹp người lái đò trong trùng vi thạch trận 3:

Còn một trùng vây thứ bà nữa. ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
người lái đò  sông Đà.jpg

Vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Ảnh mạng.

Hướng dẫn chi tiết:
1. Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò:

Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa" làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiền thoái lưỡng nan" nhưng vào “cái khó lại lo cái khôn" — ông lái đò đã biến chiếc thuyền thành một mũi tên, còn ông giống như một cung thủ. Trận này phải dùng chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh". Ông đã nhanh chóng “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vun vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác".

Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phòng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được ... Phối hợp phép điệp: “cánh mở, cánh khép”, “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng" âm thanh “vun vút" tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Sự trùng điệp của ngôn từ giúp người đọc hình dung thật rõ nét trận chiến sinh từ. Quả là "Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Cuối cùng cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Bốn chữ "thế là hết thác" giống như một tiếng reo vui, một tràng pháo tay tán thưởng tài nghệ có một không hai của người lái đò. Nghệ thuật lái đò vượt thác leo ghềnh đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích đã vì thế xây dựng một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.

2. Ông lái đò là một người nghệ sĩ trên mặt trận sông nước; một phong thái ung dung, tự tại giữa đời thường:
Đoạn văn khép lại trong hình ảnh những con người lao động đưa thuyền tạm nghỉ trong hang đá. Hang đá mát lạnh, bình yên, những ống cơm lam thơm nồng ấm nóng thay cho cảm giác hiểm nguy vừa đi qua. Đêm ấy họ không bàn đến chiến thắng vừa qua mà bàn đến cá dầm xanh, cá anh vũ. Qua đó để thấy, ông lái đò là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người phi thường, tài hoa. Giữa đời thường, ông là một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy tướng dữ quân tợn nhưng ông lại không hề tự hào về chiến thắng vừa qua, bởi đó là cuộc sống của ông trên chiến trưởng sông nước, là một phần đời của ông. Ông chính là hình tượng con người lao động trong thời đại mới, là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.
Thêm
Cảm nhận vẻ đẹp người lái đò trong trùng vi thạch trận 3
838
0
0
Nếu ở đoạn văn thứ nhất Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường.

1. Sông Đà:

+ Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nó khôn ngoan khi để của sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn, lệch khỏi luồng nước và như thế đường thoát thân của ông khách sông Đà xem như bằng không. Ở đây nhà văn đã sử dụng từ “tập đoàn cửa tử” đầy độc đáo, gợi ra sự đông đảo, hùng mạnh của dòng nước. Vô số cửa tử chực chờ mai phục để chực chờ đón lõng hòng bắt chết chiếc thuyền.

+ Sông Đà tiếp tục dùng thanh thế của mình để tung ra đội quân hùng hậu: “dòng thác hùm beo dang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Qua cách so sánh liên tưởng độc đáo dòng thác được ví như “hùm beo” – những loài dã thú chốn rừng sâu. Đồng thời dùng từ tả sức mạnh “hồng hộc”, dòng sông trở thành “sông đá" khiến dòng chảy như càng tăng thêm sự hung hãn, bạo liệt, dữ dội, cuồng nộ trong cơn phấn khích man dại.

Phân tích hình tượng sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân - Sổ t...jpg

Vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Ảnh Pinterest.

2. Người lái đò:
So với trùng vi một thị trùng vi này khó khăn hơn nhưng không vì thể mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm trên chiến trường sông nước người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá” như thuộc một thiên anh hùng ca đến từng dấu chấm dấu phẩy. Cách sử dụng các từ ngữ “thần sông thần đá” gợi ra một cảm nhận bất an khi sức mạnh thiên nhiên vốn đã khủng khiếp mà còn được lực lượng thần linh yểm trợ phía sau khiến trận chiến trở nên ác liệt hơn bao giờ hết.

Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ". Quan niệm này đã thể hiện được ý chí quyết tâm chinh phục con sông, đã đánh là đánh đến cùng, quyết không khuất phục trước sức mạnh thiên nhiên. Vì thế ông Đò tự tin “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt mà phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò chủ động đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương là bam chặc lấy luồng nước đúng”. Sông Đà lúc này như ngựa bất kham nhưng ông đò vẫn “ghì”, vẫn “bám chặt” rồi bất ngờ tăng tốc “phóng nhanh”, “lái miết về phía cửa đá”...tốc độ di chuyển mau lẹ, tạo nhịp độ dồn dập.

Nhưng con sông Đà cũng không phải dạng vừa, nó nhanh trí xua “bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử”. Ông lái đò vốn đã nắm chắc quy luật trận đánh nên biết trước trận địa mai phục của lũ đá nên linh hoạt trước từng đối thủ: “ đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Một đoạn văn ngắn thôi mà Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò. Những động từ: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt.. tái hiện cách đánh dũng mãnh mang đến chiến thắng mà chẳng tốn bao nhiêu sức. Một trùng vi với bao của tử, của sinh mà chỉ và ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghĩu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người lái đò sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Thêm
Cảm nhận vẻ đẹp người lái đò qua trùng vi thạch trận thứ hai
  • Like
Reactions: Vi Na
728
1
0
Cảm nhận vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trong trùng vi thạch trận thứ 1:

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hớp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy b6p Chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Người lái đò.jpg

Người lái đò sông Đà. Ảnh Pinterest.
Hướng dẫn chi tiết:

1. Hình tượng người lái đò là một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà như một biểu tượng cho con người lao động trong thời đại mới. Ông khách sông Đà tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đây những “củ nâu” — thương tích trên chiến t Sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gái bó với chiến trường sông nước.

Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người Trí Dũng và Tài Hoa.
2. Trận thủy chiến này là một canh tượng “xưa nay chưa từng có". Trước hết là trùng vi thạch trận một.

- Con sông: Đoạn văn thứ nhất – Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lại còn nằm lập lờ ở phía tả ngạn sông. Con sông Đà ma ranh đã có cách đánh thật thông minh trên cả hai mặt trận: tâm lí chiến và cận chiến.

+ Khi con sông đánh đòn tâm lý:

Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng sớm ra oai khủng bố tâm lý người lái đò trước khi giáp lá cà, Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn và chế nhạo”, có lúc chúng “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng ... đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Còn giờ đây chúng nhờ nước phối hợp với đá reo hò thanh viện, đá thì “bệ vê, oai phong lẫm liệt, một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức,... làm người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng, gay cấn, hồi hộp, kịch tính. Lợi dụng quân đông tướng mạnh, con sông Đà phối hợp cùng sóng, gió và đặc biệt là đá để thanh viện cho nhau tạo nên một thanh thế uy nghi khiến người đi qua hoảng sợ. Bọn đá thì xuất hiện như những hình nhân bặm trợn, chúng to lớn, “bệ vệ, oai phong lẫm liệt”. Trên mặt trận tâm lý chiến đá, sóng, gió như phô trương hết sức mạnh thanh thế của nó hòng hăm dọa, thách thức làm nao núng tinh thần người lái đò. Biệt tài phù thủy ngôn từ của Nguyễn Tuân như báo hiệu cho người đọc biết trận chiến phía trước rất khốc liệt.

+ Mặt trận cận chiến:

Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà chủ động đánh phủ đầu với những đòn thế hiểm hóc. Dựa vào ưu thế về số lượng và sức mạnh dòng thác nên “ùa vào” đầy lạnh lùng, liều mạng, nhanh chóng “bẻ gáy cán chèo”, cướp khí giới trên cánh tay người lái đò. Đó là một cách đánh khôn ngoan, linh hoạt nhằm hoàn toàn đẩy đối thủ vào thế bị động. Tiếp đến chúng khóa chặt không gian không cho người lái đò có cơ hội phòng bị bằng cách “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, rồi liên tiếp “thúc gối vào bụng và hông thuyền” có lúc lại “đội cả thuyền lên” như cách người võ sĩ đô vật đang chiến đấu trên khán đài. Một loạt động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung hãn, dữ tợn của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, dội,... Con sông Đà tấn công liên tiếp vào những chỗ hiểm: tấn công vào bụng nhằm chọc thủng thuyền, đánh vào hông cho lật thuyền, ra lệnh cho sóng “đội” để làm thuyền mất thăng bằng.

-Người lái đò:

+ Trước bầu không khí dữ dội và những đòn tấn công bất ngờ người lái đò vẫn bình tĩnh đối đầu với con sông. Vốn nắm giữ hết mọi quy luật của con sông, hiểu rõ về “thần sông, thần đá” nơi đây ông lái đò hiểu rõ trận nào nên đánh trận nào nên lui, và ở trùng vi này ông chủ động dùng chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới. Trước những đòn đánh hiểm hóc đá thúc dội của con sông ông đối phó bằng “hai tay giữ mái chéo khỏi bị hát lên khỏi sóng”. Đây là kinh nghiệm sông quý báu trên chiến trường sông nước, bởi giữ được thăng bằng cho thuyền thì thuyền sẽ đi vào luồng nước đúng.

+ Lúc này sông Đà lại chuyển thể đánh mới, nó bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lại đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bề đom đám rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng", đau rát như bị lửa châm đốt. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi". Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tia, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, liên tiếp, không ngừng hành hạ người lái đò.

+Trong tình thế khốn khó như thế, ông đò vẫn “nén vết thương”, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò. Ông chiến thắng trùng vi thứ nhất không phải bằng bất cứ món võ nào mà hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, sự linh hoạt, thông minh, tài trí trước hiểm nguy.
Thêm
Cảm nhận vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trong trùng vi thạch trận thứ nhất
  • Like
Reactions: Ngu Van
841
1
0
Nguyễn Tuân là một trong những tác gia văn học Việt Nam. Chữ người tử tù và thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà của ông thuộc hai thể loại khác nhau song đều được xây dựng trên cơ sở của bút pháp đối lập. Về Chữ người tử tù, thủ pháp đối lập được sử dụng ngay từ nhan đề, cách xây dựng nhân vật cho đến cảnh tượng cho chữ “có một không hai trong lịch sử” diễn ra ở cuối truyện. Còn ở Người lái đò Sông Đà, mặc dù không đậm đặc bằng song có thể nói đây cũng là thủ pháp chủ đạo của tùy bút nổi tiếng này.

Bút pháp đối lập của Nguyễn Tuân.png

Bút pháp đối lập trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Bút pháp đối lập trong Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện trước nhất trong việc miêu tả thiên nhiên, khách thể trữ tình. Nguyễn Tuân đã nhận thấy ở con sông Đà ấy những nét đặc biệt mà không một dòng sông nào có được. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Một mình Sông Đà ngạo nghễ hướng về phía bắc trong khi các dòng sông đều chảy về biển lớn phía đông. Sự khác biệt về dòng chảy thực tế giữa con sông Đà với bao dòng khác trên miền Bắc đã là một phép đối lập tự thân, khách quan cho Nguyễn Tuân nương vào đó mà thể hiện thủ pháp văn chương.

Qua ngòi bút tài hoa và uyên bác của ông, dòng sông Đà hiện lên với vẻ đẹp trữ tình hiếm thấy. Vẻ đẹp này được kết hợp bởi ba vẻ đẹp. Thứ nhất, đó là cảnh sắc thiên nhiên của dòng sông Đà. Bằng sự quan sát tỉ mỉ kĩ lưỡng và mẫn cảm nhanh nhạy thiên bẩm hiếm có của người nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khiến nước Sông Đà từ một dòng chảy đơn thuần trở thành một bản tụng ca những gì tinh túy, sâu lắng nhất của nghệ thuật phối màu sắc của thiên nhiên. Áng văn sau làm lòng người rung động trước vẻ đẹp của dòng nước Sông Đà: “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa…”. Bên cạnh vẻ đẹp hiền hòa, êm dịu ấy, con sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp của hai triền sông. Hai bờ Sông Đà tuy không có sự biến đổi kì thú như dòng nước nhưng cũng là bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp với: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Không chỉ đẹp, Sông Đà còn mang trong mình vẻ đẹp giàu có. Sông Đà nhiều sản vật quý hiếm. Trong lòng con sông mang dáng vẻ kiêu sa tung mình về phương bắc này là nơi hội tụ của nhiều loài cá quý như cá anh vũ, cá dầm xanh, là nơi có “…những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng”. Ba vẻ đẹp ấy kết hợp lại thành vẻ đẹp trữ tình huyền ảo, đối lập với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của chính Sông Đà. Đối lập với những triền sông đẹp như tiền sử ấy là những chỗ hang đá, vách đá dựng đứng, thâm trầm, lạnh lẽo, hoang sơ vừa gợi nên nét thâm u trầm mặc vừa gợi nên sự nguy hiểm: “Cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách dá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Đối lập với dòng nước có màu sắc biến đổi theo mùa, hiền hòa chảy như mái tóc dài thấp thoáng nơi chân mây cuối trời ấy là những con gió dữ quanh năm thổi ào ào như lòi oán giận ngàn năm vọng lại: “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, là những đợt sóng ầm ầm chảy ngày chảy đêm không dứt tưởng chừng như muốn nuốt chửng mọi vật trên đường đi: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Bút pháp đối lập được Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất trong phần miêu tả người lái đò vượt sông. Ở trong trường đoạn này, chúng ta bắt gặp hàng loạt sự đối lập. Đó là sự đối lập giữa đối tượng miêu tả và thủ pháp miêu tả. Sự hung tợn, dữ dội của nước được Nguyễn Tuân tái hiện qua sức mạnh của ngọn lửa. Trong đoạn miêu tả ông lái đò vượt thác, Nguyễn Tuân đã hai lần sử dụng đến ánh lửa. “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” và “Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”.

Sự đối lập giữa tĩnh và động trong việc miêu tả sự hung tợn của thiên nhiên. Nước Sông Đà trong trường đoạn ông lái đò vượt thác biến động khôn lường, bọt tung trắng xóa như “muốn đội cả thuyền lên”, cuồn cuộn chảy như “hùm beo đang hồng học tế mạnh”. Đối lập với cái động vô cùng của dòng nước là cái tĩnh đến chết người của những tảng đá. Đá đứng yên, lặng lẽ đến vô cùng nhưng đó là cái lặng lẽ đáng sợ. Thạch trận gồm ba lớp, mỗi lớp chỉ có một cửa sinh còn toàn là cửa tử. Va vào đá hay xô vào con sóng dữ ắt đều gặp một kết cục bi thảm. Dù động, dù tĩnh, Sông Đà vẫn luôn ẩn chứa những nguy hiểm đối với mọi người.

Nguy hiểm từ sự đối lập giữa một bên là thiên nhiên rộng lớn vô biên, vô định, vô cùng với một bên là ông lái đò cô độc. Sông Đà với hàng trăm thác nước, hàng trăm viên đá to nhỏ khác nhau như một thạch trận trên sông đang chờ đợi ông lái đò với chiếc thuyền nan bé nhỏ. Không có thuyền bạn trợ giúp, không có người chèo phụ, mình ông lái đò đối đầu với thiên nhiên hoang dã và bạo nghiệt.

Sự đối lập giữa sự hung dữ, bạo tàn của thiên nhiên và sự bình tĩnh, tự tin pha chút hài hước của ông lái đò. Đối chọi với sông nước mênh mông hung dữ, với cảnh “ mặt nước hò la”, “sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, với thạch trận trên sông gồm hàng trăm hòn đá to nhỏ khác nhau lúc nào cũng muốn chực chờ ăn tươi nuốt sông con thuyền bé nhỏ là kinh nghiệm dày dặn, sự bình tĩnh, tự tin đầy bản lĩnh của ông lái đò. Ông am hiểu dòng nước, ông vật mình với sóng dữ, chịu đau đưa thuyền uốn lượn qua những thác ghềnh nguy hiểm, vượt qua trùng trùng thạch trận và nở nụ cười mãn nguyện khi nhìn thấy cái mặt của “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”. Bằng những vũ khí đó, ông đã đưa con thuyền vượt qua đoạn sông dữ để xuôi về bến an toàn.

Có thể nói bút pháp đối lập là thủ pháp được Nguyễn Tuân rất ưa chuộng. Chúng ta có thể bắt gặp bút pháp này trong hầu hết các sáng tác của ông. Và Người lái đò Sông Đà là một trong những tác phẩm mà bút pháp đó đã được Nguyễn Tuân đẩy đến mức tận thiện, tận mĩ.



TS.Đoàn Minh Tâm
Thêm
Bút pháp đối lập của nghệ thuật Nguyễn Tuân trong tác phẩm Người Lái đò sông Đà
564
0
0
“Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm quan trọng trong chương trình môn ngữ văn lớp 12 và là một trong những bài học trọng điểm cho kỳ thi tốt nghiệp THPT. Nhắc đến tác phẩm là nhớ đến ngay hình tượng con sông Đà hùng vĩ, mang dáng vẻ của núi rừng Tây Bắc đại ngàn.

Người lái đò sông Đà.jpg

Người lái đò sông Đà. Ảnh Pinterest.​
Đề: Cảm nhận vẻ đẹp sông Đà qua đoạn trích sau

"Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Lại như quăng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hang cây số nước xô đá, đá xô song, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.Trên song bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn."

Hướng dẫn phân tích chi tiết:
Bài làm cần phải đảm bảo đủ 3 luận điểm chính sau đây:

1. Đoạn trích mở đầu bằng hình ảnh hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của cảnh đá bờ sông dựng vách thành
a. Quan sát bằng thị giác:
* Độ cao:

- Tác giả đã khẳng định “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá”. Thác đá là những hình ảnh chủ đạo của sự hung hiểm nhưng sự hiểm trở ấy còn được thể hiện ở nhiều thứ khác. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, cảnh đá bờ sông Đà được mở ra thật hùng vĩ, tráng lệ: “cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Dường như hai bên bờ sông là những bức tường đá chông chênh được xây dựng uy nghi. Hai chữ “vách thành” vừa gợi liên tưởng về câu thành ngữ “thành cao hào sâu” vừa làm hiện lên sự vững chãi, sừng sững, uy nghiêm, sắc nhọn, lởm chởm, hiểm trở như bức tường thành khổng lồ mọc từ mặt sông chọc đến trời cao. Vách đá ấy dựng đứng hiên ngang, cao vòi vọi đến mức “chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Ánh sáng hoàn toàn bị triệt tiêu, dòng sông ẩn mình trong bóng tối, chỉ đến giữa trưa mới có những tia sáng hiếm hoi lọt qua.

Vẻ đẹp của sông Đà một phần làm ta liên tưởng đến dòng sông Hương dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “ nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. Cả hai tác giả đều dùng những từ ngữ so sánh độc đáo nhất để gợi tả vẻ đẹp của hai con sông, thế nhưng ở đây Nguyễn Tuân đã sử dụng hai chữ “vách thành” thay cho “thành quách” để khéo léo nhấn mạnh độ cao không tưởng của hai bên núi đá dọc lòng sông Đà. Đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ của ông là khi cả đoạn văn không có lấy một chữ “cao” nhưng vẫn khiến người đọc nghẹt thở trước độ cao ngun ngút của vách đá. Đúng như nhà văn từng tâm sự: “ Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay (...) Cũng dùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Dùng chữ như đánh cờ tướng chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó”.

* Độ hẹp:
- Con sông Đà tiếp tục hiện lên với độ hẹp khủng khiếp. Nghệ thuật so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng vừa chính xác, tinh tế lại vừa bất ngờ và lạ lùng: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái yết hầu đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc. Động từ “chẹt” gợi ra hình ảnh lòng sông có chỗ bị đá bóp nghẹt lại, độ hẹp khủng khiếp làm ta liên tưởng đến yết hầu của con thủy quái. Lòng sông như thắt lại chật chội nghẹt thở làm dòng chảy bị nghẽn lại tạo nên sự bức bối ngột ngạt. Phép so sánh “như một cái yết hầu” gợi hình dung dòng chảy khi đi qua quãng này giống như chảy vào một nút thắt mà hai bên đều là đá hiểm trở, đầy rẫy những nguy hiểm chực chờ. Đây là nơi thuyền bè khó đi qua và dễ bị mắc kẹt.

- Độ hẹp trên bờ sông cũng rất dữ dội: “...”. Các từ ngữ “nhẹ tay ném”, “chỉ cần”, “vọt” gợi tả sự nhẹ nhàng không tốn sức, chỉ cần nhẹ nhàng là nhảy đến bờ bên kia cho thấy độ hẹp, sự gần gũi hai bên bờ.

b. Cảm giác:
- Đầu tiên là cảm giác lạnh: Nguyễn Tuân tạo ấn tượng về sự tương phản của xúc giác với chi tiết: “ ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh". Giữ mùa hè nóng bức ngột ngạt theo lẽ thường con người phải thấy nóng nhưng ở đây Nguyễn Tuân chỉ cảm thấy lạnh, một trạng thái đối lập chỉ gặp ở mùa đông. Sự tương phản ấy gợi ra độ sâu tối tăm, lạnh lẽo, u ám, bí ẩn, như cực tả sự âm u đến gai lạnh của quãng sông chật hẹp ít ánh sáng mặt trời này. “Lạnh” ở đây vừa là cái lạnh do không khí mát mẻ dưới lòng sông mang lại, vừa là cảm giác lạnh gáy, sởn gai ốc vì đi qua khúc sông nguy hiểm này chẳng khác gì đang đi vào miệng tử thần, đang tự dâng mình cho thủy quái.

- Cảm giác thứ hai mà sông Đà mang lại đó là cảm giác về độ cao ngút ngàn dẫn đến sự đơn độc, sợ hãi: “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đó là cảm giác về độ cao khủng khiếp của hai bờ đá, đá cao ngất như “trên cái tầng thứ mấy". Quả như nhiều nhà văn từng nhận định Nguyễn Tuân mang một phong cách ấn tượng với đề tài mới lạ và lối viết độc đáo. Đang tả rừng tả sông mà nhà văn không ngần ngại liên tưởng đến nơi phố thị hiện đại, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá. Đã vậy động từ “tắt phụt" còn gợi ra cảm giác ánh sáng vụt tắt đột ngột, bất ngờ, bóng tối vây bủa, bao trùm khiến con người trở nên đơn độc, hụt hẫng, chới với giữa hai vách đá rợn ngợp. Sự tài tình của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ đã khiến nhà văn Đỗ Kim Hồi phải ngạc nhiên: “Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế”

2. Đoạn văn tiếp theo là sự hung bạo, dữ dội, hiểm trở của quãng ghềnh Hát Loóng.
- Ghềnh là nơi ngay dưới chân thác gồm hai phần. Phần nổi là đá sắc nhọn, lởm chởm, rêu phủ trơn trượt muốn đi trên đây vô cùng khí khăn và nguy hiểm. Còn phần chìm là nước, không rõ nông sâu, nguy hiểm rình rập. Ghềnh và thác vì thế mà trở thành nơi thử thách ý chí con người.

- Câu văn mở đầu bằng lời giới thiệu: “Lại như quãng mặt ghềnh thác Loóng”. Điệp ngữ “lại như” tạo ra cảm giác những hiểm nguy như trùng điệp, tiếp nối, hết hiểm nguy này lại tới hiểm nguy khác chực chờ, rình rập khiến con người qua đây không khỏi lo lắng. Ghềnh Hát Loóng được miêu tả: “dài hàng cây số. Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt...” Bốn chữ “dài hàng cây số” gợi ra độ dài khủng khiếp nhưng vô định, mơ hồ khiến con người không khỏi lo sợ chẳng biết có bao nhiêu nguy hiểm phía sau chiều dài ấy.

- Phép điệp động từ “xô" kết hợp nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “xô": xô đá, xô sóng, xô gió..., tất cả như đang và đập, xô đẩy vào nhau tạo nên những chuỗi âm vang kinh hãi kéo dài hàng cây số. Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng.

- Từ láy “cuồn cuộn” và âm thanh luồng gió “gùn ghè” suốt năm, so sánh “như lúc nào cũng đòi nợ xuýt" gợi ra hình ảnh chốn hoang dã, thâm sơn cùng cốc. Từ láy “cuồn cuộn” miêu tả những cơn gió ồ ạt, hoang dại tấn công về phía trước tạo nên sự bất an cho người đọc. “Gùn ghè” vừa tượng thanh lại tượng hình mang ấn tượng về âm thanh vang động, gầm rú, tiếng rít rùng rợn, quăng quật cả quãng ghềnh dài gây hoang mang và gieo rắc nỗi sợ hãi cho bao người qua. Đó là bản chất lì lợm, hung hãn, cuồng bạo của con sông Đà. Đoạn văn kết thúc bằng lời cảnh báo: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra” càng làm sự nguy hiểm tăng cấp lên.

3. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh hút nước Sông Đà hung bạo, gây nguy hiểm cho thuyền bè và con người.

- Điệp ngữ “lại như” tiếp tục điệp lại, nguy hiểm lại tiếp nối, chưa buông tha. Hút nước được miêu tả phong phú, sống động:

- Miêu tả bằng hình ảnh: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống làm móng cầu". Từ “bỗng” gợi một cảm giác đột ngột, bất ngờ gây ám ảnh, hoang mang. Cách so sánh “như cái giếng bê tông”, sử dụng động từ mạnh “xoáy tít đáy", từ láy tượng hình “lừ lừ" gợi hình ảnh hút nước lớn, lạnh lùng, đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm.

- Miêu tả bằng âm thanh: Tác giả nhân cách hóa và so sánh “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” và phép điệp tăng cấp trong từ láy “ặc ặc”: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi". Đó là âm thanh rùng rợn, hoang dã, hung dữ gợi tả xoáy nước bạo liệt, hiểm độc. Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang trong cơn giận dữ cuồng loạn sẵn sàng gieo chết chóc cho con người.

- Cảm giác mạnh mà hút nước mạng lại:
+ Cảnh thuyền vượt hút nước: “thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rút dầu sôi vào”. Đoạn văn lại một lần nữa thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân qua những liên tưởng và so sánh độc đáo. Giữa chốn núi rừng hoang sơ, tác giả thản nhiên thổi vào không khí phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, những hút nước trên sông như “quãng đường mượn cạp ngoài bờ vực”. Tả đường nhưng lại dùng “mượn cạp” ở bờ vực thì còn gì nguy hiểm, chông chênh, tạm bợ bằng. Từ đó nhà văn khẳng định những cái hút nước này là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, bình tĩnh và nhanh chóng “sang số ấn ga”, “phóng qua” thì mới có thể thoát khỏi thế trận này. Nhiều động từ: chèo nhanh, lướt, vút qua, phóng qua... gợi tả tốc độ di chuyển mau lẹ để tránh hút nước. Bởi đi qua đây sự nguy hiểm luôn cận kề, mạng sống như “ngàn cân treo sợi tóc”, phải hết sức cẩn thận, mau lẹ vượt qua.

+ Hút nước gây nguy hiểm cho thuyền bè. “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau thì mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". "Các động từ mạnh: “lôi tuột”, “hút xuống”, “trồng cây chuối”, “vụt biến”, “dìm”, “đi ngầm”, “tan xác” tạo ra sức mạnh hủy diệt, sự bạo liệt, hung ác của xoáy nước. Bè gỗ rừng rất lớn nhưng cũng bất lực trước sức mạnh cuồng nộ của hút nước sông Đà.

-Hiệu ứng điện ảnh đặc sắc trong sự liên tưởng tới anh thợ quay phim:

+ Nhà văn liên tưởng cảnh anh thợ quay phim “táo tợn”, dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng, rồi cho cả thuyền, cả máy quay vào cái hút Sông Đà: “từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cốt nước cao đến vài sải....Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan úp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem.”

+ Máy quay thu vào toàn bộ khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ: cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh. Hàng loạt các từ ngữ miêu tả: “cột nước cao đến vài sải”, “xoay tít", “quay tít", “ụp vào” mang đến cảm giác chóng mặt, nguy hiểm đầy chân thực.

+Anh thợ quay phim đã mang đến cảm hứng cho người xem, khiến họ “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”... Cách so sánh, ví von, mô tả tinh tế của tác giả đã gián tiếp gây cảm giác mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của Sông Đà mà thót tim lại.


Trên đây là 3 nội dung chính không thể thiếu cho đề văn: Cảm nhận vẻ đẹp sông Đà qua đoạn trích sau: “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá [...] vừa rút lên cây gậy đánh phèn.” Từ gợi ý trên các bạn hãy thử luyện tập bằng cách viết một bài văn hoàn chỉnh ngay nhé.

Tham khảo thêm những bài Phân tích hay TẠI ĐÂY
Thêm
Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà qua đoạn trích
  • Like
Reactions: Vanhoctre
3K
1
0
Hình tượng của dòng sông Đà vừa hùng vĩ vừa lãng mạn đã trở thành một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân. Với bút pháp nghệ thuật độc đáo cùng tâm hồn trân trọng cái đẹp của nhà văn, tác phẩm "Người lái đò sông Đà" đã chiếm trọn tâm tình của độc giả đương thời.

BẢNG VÀNG HELLOVĂN (32).png


Nguyễn Tuân – “Định nghĩa đầy đủ nhất về một người nghệ sĩ”. Khát khao cống hiến cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ dữ dội, cộng với chất nghệ sĩ phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân tìm đến tận cùng của cái đẹp. Những dòng văn của ông luôn mang đến cho người đọc cảm giác được khám phá những hình tượng đặc biệt. Đến với “Người lái đò sông Đà”, bằng “nghệ thuật bậc thầy của ngôn từ”, ông đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà - một trong những kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Hình tượng đặc sắc này đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái tôi trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu kiều, vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc. Được biết tới trong nền văn học Việt Nam với hình ảnh của một người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc, dùng cả cuộc đời của mình để theo đuổi chủ nghĩa xê dịch, đi một lối đi riêng biệt trong văn chương, Nguyễn Tuân in dấu đậm nét bản ngã của mình trong từng tác phẩm, từng hình tượng. Sông Đà là một hình tượng điển hình như vậy. Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc sau kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và cho ra đời thiên tùy bút để lại ấn tượng với đọc giả.

Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình đối với mỗi tác giả là việc đặc biệt quan trọng. “Một mình đi một lối”, Nguyễn Tuân thể hiện cái ngông nghênh kiêu bạc của mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Một Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng, chịu cảnh tù đày nhưng vẫn trong tư thế khoan thai, đậm tô từng nét chữ rất vuông, rất đẹp trong “Chữ người tử tù”. Một Bát Lê được nhìn ở góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao phủ của mình với “Bữa rượu máu” hay một người “ăn mày” cổ quái với tài uống trà trong “Những chiếc ấm” cũng đạt tới độ tuyệt mỹ khi lão có riêng một bộ ấm chén uống trà vẫn cất trong bị ăn mày. Vào nhà phú hộ ăn mày, lão không xin cơm, xin gạo, chỉ xin “được uống nguyên một ấm trà mới”. Vừa đưa chén trà lên miệng, lão đã kịp phát hiện trà của phú hộ có lẫn mùi trấu, nên uống vào không thấy “khoái hoạt”. Vậy mới thấy, những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều bao chứa những tính cách đặc biệt. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải suốt từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau, cụ thể mang trong mình hai tính cách đặc biệt đó là hung bạo và trữ tình. Qua việc tìm hiểu dòng sông, người đọc được hiểu thêm về một con người, một nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” - nhà văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng con sông vĩ đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự thể hiện khá đầy đủ phong cách hay cái nhìn cuộc sông của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã thấy một con người ưa sự độc đáo trong sự tài hoa - uyên bác; một cá tính mạnh mẽ luôn săn tìm những gì dữ dội. mãnh liệt; một thầy phù thủy ngôn từ, hình ảnh...

Viết về sông Đà trong những năm tháng cách mạng đã thành công, người nghệ sĩ này cởi mở hơn với cuộc đời và đó cũng là thời điểm Nguyễn Tuân xoay ngòi bút của mình hướng về những vẻ đẹp đời thực. Hay nói cách khác là cách người nghệ sĩ này đang đi tìm chất vàng mười trong chính vẻ đẹp đất nước và tâm hồn nhân dân Việt Nam. Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như “kẻ thù số một” của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm. Bằng cảm hứng ngợi ca, tự hào, hình tượng sông Đà được nhấn mạnh bởi đặc điểm riêng có: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu” có nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo hướng Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Sự độc đáo của hình tượng này rất giống với bản ngã của Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ đã từng tuyên bố và thể hiện rất chính xác, chân thực tuyên bố đó: “Lòng kiêu hãnh đã xui khiến ta chỉ chơi một lối độc tấu trong văn chương.”

Tình yêu cuộc sống, lòng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn mình. Dòng sông Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lý khi đưa ta về với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam sau đó chan hòa vào sông Hồng, chảy trên đất Việt 500 cây số trong tổng chiều dài 883 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Sông Đà hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân trước hết là ở vẻ đẹp hung bạo. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành khiến người đọc có những liên tưởng thú vị, cũng để họ có thể hình dung ra được hành trình thuyền trôi trên sông Đà đáng sợ đến nhường nào. Đá ở đây “dựng vách thành”, “chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông hẹp có quãng con nai, con hổ có thể nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia. Đá còn chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có thể thấy, sự nguy hiểm của đá bờ sông tạo lũy thành đã khiến người đọc liên tưởng ra cảm giác lạnh lẽo, lo sợ. Đó cũng là lý do Nguyễn Tuân viết rằng: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” rồi bất ngờ đưa ra một liên tưởng thú vị: “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Còn phép so sánh nào độc đáo và hiệu quả hơn thế! Cảm giác đem đến cho người đọc rất bất ngờ. Họ hồi hộp, nín thở khi đi ngang qua những quãng sông hẹp như vậy. Nếu không khéo léo chèo lái, con thuyền rất có thể sẽ bị kẹt lại ngay.

Sự hung bạo của dòng sông Đà còn được thể hiện qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng “dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được ngang qua đấy.” Sông Đà bấy giờ mang dáng vẻ của một loài thủy quái, hợp lực bởi sóng, gió, đá xô nhau tạo ra một mặt ghềnh hò la mang dội, cốt là để đe dọa con thuyền nào tới đây. Sự dữ dằn của dòng sông Đà được đặc tả với một câu văn dài, sử dụng biện pháp tu từ so sánh giúp người đọc dễ dàng trong việc hình dung, liên tưởng hơn. Dùng những hình ảnh cụ thể, gần gũi để nói về những hình ảnh khó tưởng tượng, làm được điều này, không ai khác ngoài “thầy phù thủy ngôn từ” Nguyễn Tuân.

Những dòng văn của Nguyễn Tuân đã giúp ta hình dung ra được sự hung bạo của con Sông Đà. Nó giống như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Thêm
Hình tượng sông Đà (đoạn thác đá dựng vách thành và mặt ghềnh Hát Loóng)
954
2
1

Triều Anh

Người yêu của văn chương ❤️
Thành viên BQT
3/12/22
606
440
63,000
Sóc Trăng
Xu
6,078,826
Phần mở rộng của bài viết quá dài (đoạn 2,3). Cần phân tích xoáy sâu vào đặc điểm hung bạo của sông Đà ở đoạn vách đá và ghềnh Hát Lóong, phân tichs nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà. Bài...
 

Trang cá nhân

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Truyện này tớ đăng đầu tiên ở Wattpad (khi ấy học lớp tám), giờ đọc lại thấy sến thật sự nhưng khi tớ cho chị họ xem bản thảo thì chị ấy lại khen hay. Tớ cũng nhen nhóm ý định phát triển bộ này thành truyện dài luôn nhưng mà hồi ấy tớ chưa đủ thời gian, đến giờ thì bản thân lại không theo kịp cảm xúc khi ấy.
Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau
"Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa."
Cung Chúc Tân Xuân Giáp Thìn 2024!
An Khang Thịnh Vượng
Vạn Sự Như Ý~
Trò chuyện trực tiếp
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Thích Văn Học @ Thích Văn Học:
    Hiện tại không có giá trị qui đổi gì em nhé
Top